Nhà bác học, thiên tài và trí tưởng tượng |
Vietsciences- Phạm Văn Thiều 06/09/2004 |
Thế nào là một nhà vật
lý tốt ? Theo Richard Feynman thì điều cơ bản không phải là
nắm vững những công cụ toán học cần thiết mà là phải
giữ được óc phê phán, phải chấp nhận những điều
bất ngờ không dự kiến trước và phải biết thừa nhận
những sai lầm của mình mà không nản lòng.
LTS. Đây là bài phỏng vấn nhà
vật lý Mỹ nổi tiếng Richard Feynman vào cuối năm 1980 của
tạp chí La Recherche, một tạp chí phổ biến khoa học nổi
tiếng của Pháp. Bài phỏng vấn này đã được chọn là
một trong những bài báo hay nhất và được đăng lại trong
số đặc biệt kỷ niệm 30 thành lập của tạp chí này.
Vật lý ngày nay xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc
bài phỏng vấn đó qua bản dịch của Phạm Văn Thiều.
P.V: Đối với những người
ngoại đạo, vật lý năng lượng cao dường như có mục tiêu
là phát hiện ra những thành phần tối hậu của vật
chất. Theo đúng như đường hướng của khoa học cổ Hy
Lạp, thì môn vật lý này gíông như một cuộc “tìm
kiếm nguyên tử”, tức là tìm kiếm hạt “không
thể phân chia” được nữa. Tuy nhiên, các máy gia tốc
lớn đã tạo ra những mảnh có khối lượng còn lớn hơn
cả khối lượng của các hạt ban đầu, thậm chí của cả
các hạt quark, những hạt mà ta không thể tách rời ra được.
Vậy nói một cách chính xác thì các ông đang tìm kiếm cái
gì ?
R. Feynman: Tôi không nghĩ rằng
các nhà vật lý đã có một khi nào đó “tìm kiếm” một
thành phần tối hậu của vật chất, họ chỉ cố gắng phát
hiện ra hành trạng của Tự nhiên mà thôi. Họ có thể đã
nói về “cái hạt tối hậu” đó mà chưa suy nghĩ thật
kỹ, bởi vì ở một thời điểm nào đấy tự nhiên đối
với họ có vẻ là như vậy, nhưng...thôi thế này vậy: Ông
hãy thử hình dung một nhóm các nhà thám hiểm đang khám phá
một lục địa mới. Bất chợt họ nhìn thấy nước chảy
trên mặt đất. Vì họ đã từng nhìn thấy điều này ở
quê nhà, họ gọi nó là “con sông” và quyết định khám
phá nguồn của nó. Và thế là họ lần ngược dòng sông và
mọi chuyện đều suôn sẻ cho tới thời điểm, khi đã leo
lên đủ cao, họ nhận thấy rằng hệ thống thủy văn ở
đây là hoàn toàn khác với điều mà họ chờ đợi. Có
thể, nước chảy ra từ một hồ lớn hoặc từ một thác nước
hoặc thậm chí con sông chảy thành một vòng tròn, thì sao ?
Liệu ông có dám bảo rằng cuộc thám hiểm của họ là
thất bại không ? Hoàn toàn không. Bởi lẽ mục đích đích
thực của cuộc thám hiểm của họ là khám phá lục địa
này kia mà. Và nếu cuối cùng họ vẫn không tìm được
nguồn của con sông thì cũng có gì nghiêm trọng đâu, thậm
chí họ có thể còn rất tiếc là mình đã nói quá sớm.
Chừng nào mà Tự nhiên còn thể hiện cho chúng ta thấy nó
giống như một hệ thống các bánh xe lồng trong nhau, thì
việc tìm kiếm các bánh xe tối hậu cũng là chuyện bình thường
thôi. Nhưng có thể Tự nhiên không được cấu trúc như
vậy thì sao ? Khi đó, cái mà chúng ta tìm kiếm sẽ là cái
mà chúng ta tìm thấy, chấm hết.
Dẫu sao thì các ông cũng có
một ý niệm gì đấy, dù là nhỏ, vể cái mà các ông sẽ
tìm thấy chứ ?
Đúng thế...Nhưng điều gì
sẽ xảy ra khi ông tới nơi sẽ chỉ có sương mù dày đặc
? Ông luôn luôn có thể hy vọng sẽ tìm thấy cái này
hoặc cái kia, ông luôn luôn có thể phát biểu đủ thứ định
lý này nọ về tôpô của các đừơng phân thủy, nhưng sẽ
ra sao nếu ông lại rơi vào một màn sương mù dày đặc - nơi
ngưng tụ các hình dáng rất mù mờ – và ông không thể phân
biệt được đâu là trời đâu là đất ? Tất cả những lý
thuyết đẹp đẽ của ông lúc đó sẽ sụp đổ ! Đấy chính
là cuộc phiêu lưu mà chúng tôi lúc này lúc khác đã phải
trải qua. Phải hết sức tự đắc mới dám khẳng định :
“ Chúng tôi sẽ tìm thấy hạt tối hậu hoặc các định
luật của trường thống nhất” hoặc bất cái gì đại
loại như vậy. Thực tế, cái mà các nhà vật lý tìm
thấy càng làm họ ngạc nhiên thì họ càng hài lòng.
Ông có hình dung được một nhà vật lý nói rằng: “ Đó
không phải là cái tôi đã dự tính trước: không hề có
hạt tối hậu. Vậy thì tôi không muốn biết thêm gì
nữa”. Chắc chắn là không ! “ Ôi lạy Chúa tôi, vậy thì
đây là cái gì thế này ?” Đó chính là điều mà nhà
vật lý sẽ nói.
Vậy cái mà các ông hy vọng
phải chăng chính là sự ngạc nhiên đó ?
Dù tôi có hy vọng điều đó
hay không cũng không làm thay đổi bản chất sự việc. Dẫu
sao thì tôi cũng tìm thấy cái tôi tìm thấy. Người ta cũng
không thể nói cần phải chờ đợi một sự bất ngờ trong
mọi trường hợp được. Chẳng hạn, có một vài năm tối
rất dè dặt với các “lý thuyết trường chuẩn” vì tôi
nghĩ rằng tương tác hạt nhân mạnh phải rất khác
với tương tác điện từ, nhưng giờ đây hoàn toàn không
phải như vậy. Nơi mà tôi chờ đợi là sẽ tìm thấy sương
mù lại hiện ra với núi non và thung lũng.
Những lý thuyết vật lý liệu
có ngày càng trở nên trừu tượng hơn và toán học hơn không
? Liệu ngày hôm nay có còn chỗ đứng cho một nhà lý
thuyết kiểu như Faraday ở đầu thế kỳ 19, nghĩa là anh ta
không phải là nhà toán học ở trình độ cao nhưng lại có
một trực giác vật lý mạnh mẽ ?
Tôi rất muốn nói rằng có
rất ít khả năng ! Điều đó không phải bởi vì phải
biết rất nhiều toán mới có thê hiểu được những cái
đã được làm cho tới hiện nay. Hơn nữa, động thái của
các hệ nội hạt nhân khác xa với những cái mà mà đầu
óc chúng ta đã được tập dượt để tiếp nhận, khác
tới mức sự phân tích chúng chỉ có thể là trừu tượng.
Để hiểu một cục nước đá chẳng hạn, phải biết
một lô thứ mà chẳng dính dáng gì đến cục nước đá đó
cả. Những mô hình của Faraday, dựa trên các lò xo, dây
dẫn và nhựa được bố trí trong không gian, về căn bản là
cơ học và do đó có thể được biểu diễn bằng hình
học sơ cấp. Tôi nghĩ rằng ngày hôm nay chúng ta đã hiểu
được tất cả những gì có thể hiểu được bằng cách
chấp nhận quan điểm đó. Nhưng những cái mà chúng ta đã
phát minh ra trong vòng một trăm năm trở lại đây rất khácvà
rất mù mờ tới mức chỉ có toán học mới cho phép đưa
chúng ta tiến lên được.
Điều đó phải chăng có nghĩa
là chỉ có một số rất ít người mới có khả năng tham
gia vào sự tiến bộ của khoa học hoặc thậm chí đơn
giản chỉ là hiểu được những cái đã làm ra ?
ít nhất thì hiện nay người
ta cũng chưa tìm được phương tiện nào để tiếp cận các
bài toán, làm cho chúng trở nên dễ hiểu hơn. Có lẽ chỉ
cần dạy những vấn đề đó sớm lên chăng ? Ông biết đấy,
nói toán học – một môn được mệnh danh là “trừu tượng”
- rất khó là không thực đúng đâu. Hãy lấy ví dụ
trường hợp lập trình trên máy tính chẳng hạn, nó cũng
đòi hỏi một lôgic tinh tế lắm chứ. Nó cũng đã từng là
loại công việc mà các bậc cha mẹ trước kia nghĩ rằng
chỉ dành cho những bộ óc lớn. Thề mà ngày hôm nay nó đã
trở thành một phần của đời sống hàng ngày và là một
phương tiện kiếm sống như biết bao công việc khác. Chỉ
cân con cái họ đặt tay vào chiếc máy tính là chúng sẽ mê
mẩn ngay và sẽ rút ra từ đó đủ thứ điên rồ và
tuyệt vời.
ấy là chưa kể những quảng cáo
về các lớp dạy lập trình nhan nhản ở khắp nơi !
Đúng như thế. Tôi không nghĩ
rằng lại có, một bên, là một nhúm người kỳ dị có
khả năng hiểu được toán học và, một bên, là những người
bình thường. Toán học là một trong số những phát minh
của nhân loại, do đó, về độ phức tạp, nó không thể vượt
quá những cái mà con người có thể hiểu được. Một
lần tôi có đọc trong một quyển sách về toán học một câu
như thế này: “ Cái mà một gã điên làm ra thì những gã
điên khác đều có thể làm được”. Các lý thuyết của
chúng ta về Tự nhiên có vẻ như là trừu tượng và làm
cho những người không được học chúng cảm thấy khiếp
sợ, nhưng cũng không nên quên rằng những kẻ làm ra chúng
là những gã điên khác. Cũng cần phải thông cảm với sự
cường điệu, với khuynh hướng làm cho tất cả những lý
thuyết đó đều quá sâu xa hơn là trên thực tế. Một
lần khác, tôi với con trai – hồi đó cháu đang theo học
triết học – cùng đọc một đoạn trong cuốn sách của
Spinoza. Lập luận trong đó hoàn toàn chẳng có gì là cao siêu
cả, nhưng nó lại được che đậy bằng một mớ những
thuộc ngữ, những thực thể và các thứ tầm phào khác, đến
nỗi sau một lát cả hai cha con tôi đều phì cười. Ông có
thể cho rằng tôi nói hơi quá. Ai lại dám đi cười
một nhà triết học tầm cỡ như Spinoza ! Nhưng ở đây
Spinoza chẳng có lý do nào để biện minh cả. Vào cùng
thời đó có Newton, có Harvey - người đã nghiên cứu sự
tuần hoàn của máu -, có rất nhiều người mà nhờ các phương
pháp phân tích của họ, khoa học đã phát triển. Ông cứ
lấy bất cứ một mệnh đề nào của Spinoza và biến nó thành
một mệnh đề có ý nghĩa ngược lại rồi quan sát xung
quanh mình xem, tôi đố ông có thể nói được mệnh đề nào
là đúng, mệnh đề nào là sai. Người ta cứ để mình bị
huyễn hoặc vì Spinoza đã có dũng cảm tiếp cận những
vấn đề quan trọng, nhưng thử hỏi ông ta dùng sự có dũng
cảm ấy để làm gì nếu như nó chẳng mang lại kết quả
nào ?
Trong các sách giáo khoa nổi
tiếng của ông, các nhà triết học và những lời bình
luận của họ thường bị ông phê phán...
Cái làm cho tôi không thể nào
chịu được không phải là triết học mà là thứ thông thái
rởm. Chỉ giá như các nhà triết học đừng lên mặt làm
ra vẻ quá nghiêm trọng, chỉ giá như họ có thể nói thế
này: “ Đó là điều tôi nghĩ, nhưng ngài A ngài B nào đó
lại nghĩ khác và điều đó cũng khá đích đáng”. Nhưng
không ! Họ lại lợi dụng thực tế là có thể không có
hạt cơ bản tối hậu để khuyến khích chúng cứ ở yên
đó, và đây là cái mà họ nói một cách trịnh trọng: “Tư
duy của các anh chưa đạt tới đủ độ sâu của sự vật,
hãy để tôi cho các anh một định nghĩa vể thế giới
trước đã”. Không đời nào ! Tôi đã quyết định dứt
khoát là sẽ khám phá thế giới mà không cần tới cái định
nghĩa đó của họ.
Làm thế nào mà ông biết được
bài toán này hay bài toán khác có thể bõ công để lao vào
?
Ngay từ thời học trung học tôi
đã có ý niệm rằng cần phải nhân tầm quan trọng của
một bài toán với xác suất giải được nó. Đó chính là
loại ý tưởng nên gieo vào đầu óc của một đứa bé có
thiên hướng kỹ thuật, vì đối với nó tất cả đều
phải có thể được tối ưu hoá. Trong bất cứ hoàn cảnh
nào, khi người ta biết kết hợp hai yếu tố đó (tức
tầm quan trọng của bài toán và khả năng giải được nó
- ND) một cách thích hợp thì người ta sẽ không tiêu phí
đời mình để húc đầu vào một bài toán mà mình không
thể giải được cũng như không hơi đâu đi giải những bài
toán nhỏ nhoi mà những người khác cũng có thể làm được.
Hãy lấy ví dụ về trường
hợp bài toán mà ông đã được giải Nobel cùng với
Schwinger và Tomonaga, các ông mỗi người đã tiếp cận nó
một cách khác nhau. Vậy có phải bài toán đó đã đến lúc
đặt biệt chín mùi hay không?
Điện động lực học lượng
tử đã được Dirac và một số người khác phát minh vào
cuối những năm 1920, chỉ ít lâu sau khi Cơ học lượng tử
ra đời. Về căn bản, lý thuyết của họ là đúng, nhưng
khi tiến hành tính toán thì họ vấp phải những phương trình
rất phức tạp và khó giải. Phép gần đúng bậc nhất thì
ngon lành không có vấn đề gì, nhưng khi định tìm kết
quả chính xác hơn bằng cách tính thêm những hiệu chỉnh
bậc cao thì họ lại làm xuất hiện những đại lượng vô
hạn, cái mà người ta gọi là “các phân kỳ”. Trong
suốt 20 năm, đây là một thực tế phổ biến tới mức người
ta có thể tìm thấy trong bất cứ cuốn sách nào về lý
thuyết lượng tử.
Chính khi đó Lamb và Rutherford
đã công bố các kết quả đo của mình về sự dịch của
các mức năng lượng điện tử trong nguyên tử hydrogen. Trước
đấy, người ta có thể hài lòng với những đánh giá thô
của lý thuyết, nhưng giờ đây phải đối mặt với một
con số rất chính xác. Hình như là một ngàn sáu mươi megahertz hay đại loại như vậy. Và ai cũng có chung một ý nghĩ:
“ Cần phải giải quyết cái bài toán quái quỷ này.”
Xuất phát từ giá trị thực
nghiệm đó, Hans Bethe đã tiến hành một cách tính nhanh,
trong đó ông sắp xếp sao cho hiệu ứng này bù trừ cho
hiệu ứng kia để thử khử đi các phân kỳ, những số
hạng có xu hướng tăng vô hạn sẽ bị chặn lại bằng cách
như vậy ở một giá trị dường như chấp nhận được. Và
ông đã thu được con số xấp xỉ một ngàn megahertz. Tôi
nhớ là ông đã cho mời một số người đến chỗ ông ở
Corneil, nhưng vì phải vắng mặt do công chuyện, ông đã
gọi điện thoại cho chúng tôi và chia sẻ với tôi
về những ý tưởng mà ông vừa nảy ra trong lúc ngồi trên
tàu hoả. Sau khi trở về ít lâu, ông có giảng cho chúng tôi
về vấn đề này, trong đó ông đã chỉ cho chúng tôi cách
làm thế nào để tránh đươc các phân kỳ bằng thủ tục
vừa nói ở trên. Nhưng vì tất cả vẫn còn quá mù mờ và
có vẻ hơi tùy tiện, nên ông nói với chúng tôi rằng sẽ
rất tốt nếu có ai đó làm lại lại chuyện này một cách
thật đàng hoàng. Vào cuối buổi học, tôi tìm gặp ông và
nói: “ Cũng dễ thôi ! Tôi biết cách làm rồi”. Và
ông thấy đấy, tôi đã bắt tay nghiên cứu vấn đề đó
ngay từ năm học cuối cùng của tôi ở MIT (Massachuset
Institute of Technology – một trong số những trường đại
học nổi tiếng nhất của Mỹ - ND). Ngay thời gian đó tôi
thậm chí còn biên soạn xong cả một lời giải nhưng
...tất nhiên là sai ! Sự đóng góp của chúng tôi, gồm
Schwinger, Tomonaga và tôi, là ở chỗ tìm ra được một phương
cách biến thủ tục của Bethe thành một phương pháp tính
chặt chẽ, hay nói theo thuật ngữ chuyên môn là thoả mãn
được yêu cầu bất biến tương đối từ đầu đến
cuối. Tomonaga đã chỉ ra được một phương pháp khả dĩ,
Schwinger thì đang xây dựng một phương pháp khác. Còn tôi
tới gặp Bethe để trình với ông phương riêng của mình.
Điều khôi hài là lúc đó tôi không làm sao giải được
cụ thể một bài toán thực tế, dù là đơn giản nhất
trong lĩnh vực đó. Lẽ ra tôi phải tập làm điều đó trước
đã mới phải, nhưng tôi lại quá bận tâm về lý
thuyết riêng của mình...Nói một cách ngắn gọn là tôi không
thể thấy những ý tưởng của mình có ổn hay không. Bethe
và tôi cùng nhau tính ngay trên bảng...và chúng tôi đã không
tìm được kết quả đúng. Thậm chí còn tồi tệ hơn cả
trước. Tôi trở về nhà và quyết định phải tập luyện
trên các ví dụ. Sau khi làm thử như thế, tôi trở lại
gặp Bethe và chúng tôi lại cùng nhau tính lại, và lần này
thì mọi chuyện ...thật tốt đẹp. Chúng tôi không bao giờ
hiểu được lần đầu tiên chúng tôi đã phạm sai lầm ở
đâu. Có thể là một lỗi ngớ ngẩn nào đó cũng nên...
© http://vietsciences.free.fr Phạm Văn Thiều dịch |