Ở đại học việc tự học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng.
Một trong những nguồn kích thích sự tự học chính là việc nghiên cứu
khoa học. Không đâu xa, ngay trong chính những kiến thức chúng ta
học hàng ngày vẫn còn vô số những điều cần tư duy, cần sự nghiên
cứu. Thực tế không ít những giải thương Nobel bắt nguồn từ những
câu hỏi “ngớ ngẫn” của sinh viên. Bài viết sau được phỏng dịch một
phần của bài báo “ A Topological Look at the Quantum Hall Effect”
đăng trên tạp chí Physics Today – August 2003. Hiệu ứng này các bạn
được học trong môn “Nhập môn vật lý chât rắn” và chắc các bạn không
ngờ là nó được tìm ra bởi cậu sinh viên Hall, và giải thưởng Nobel
năm 1985 đã trao cho hiệu ứng Hall lượng tử ….
Câu chuyện về hiệu ứng
Hall bắt đầu từ một sai lầm của James Clerk Maxwell
(1831-1879)
Trong cuốn “Luận
về thuyết
Điện từ”
xuất bản lần đầu tiên năm 1873, Maxwell đã thảo luận
về sự thay đổi
dòng điện dưới tác dụng của
từ trường. Trong đó ông cho rằng: “Cần đặc biệt lưu ý rằng
lực
(gây ra bởi điện trường)
đặt lên
dây dẫn sẽ không tác dụng trực tiếp
lên dòng điện mà tác động lên dây dẫn mang dòng điện đó.”
Năm 1878, Edwin Herbert Hall (1855 - 1938),
một sinh viên của trường ĐH Johns Hopkins, đọc quyển sách trên trong
một khóa học do giáo sư
Henry Rowland
(1848-1901)
dạy. Hall hỏi ý kiến Rowland về nhận xét của Maxwell. Vị giáo sư này
trả lời rằng ông “nghi ngờ tính xác thực của kết luận đó của Maxwell
và ông cũng đã từng vội vã
tiến hành một thí nghiệm kiểm chứng…
và đã
không thành công.”
Hall quyết định
tiến hành một cuộc thí nghiệm khác theo cách khác nhằm đo lường
từ
trở (magneto-resistance),
có nghĩa là đo
sự thay đổi của điện trở theo
từ trường đặt vào.
Như ngày nay chúng ta đã biết, đó là một cuộc thí nghiệm phức
tạp
hơn thí nghiệm của giáo sư Rowland
nhiều, và cũng đã thất bại. Có vẻ như khẳng định của
Maxwell là đúng.
Tuy nhiên, sau
đó Hall quyết định làm lại thí nghiệm của Rowland. Theo sự chỉ dẫn
của người thầy giàu kinh nghiệm này,
Hall thay thế dây dẫn kim loại ban đầu bằng một lá vàng mỏng.
Việc này
đã
bù lại cho một thiếu sót của thí nghiệm Rowland. Nguyên nhân
ở chổ lúc đó chỉ có thể tạo ra
từ trường yếu
trong điều kiện phòng thí nghiệm. Vì vậy hiệu ứng chỉ có thể
quan sát được nếu kim loại dẫn điện rất tốt như vàng.
Và đúng như vậy, điều
đó đã làm nên chuyện.
Biểu đồ do Hall lập ra để khảo sát mà giờ đây được coi là hiệu ứng
Hall được trình bày ở trong bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào về
lý thuyết chất rắn..
Hall nhận thấy rằng trái ngược với khẳng định của
Maxwell, từ trường luôn làm thay đổi sự phân bố điện tích, và vì vậy
làm lệch kim của điện kế nối
với các mặt bên của dây dẫn điện. Hiệu điện thế ngang giữa các mặt
được gọi là điện thế Hall. Độ dẫn điện Hall về bản chất chính là
bằng cường độ
dòng điện theo chiều dọc chia cho
điện thế ngang này.
Phát hiện này đã mang lại cho Hall một chỗ làm
tại trường Harvard. Công trình
của ông được xuất bản năm 1879, năm Maxwell mất vào tuổi 48.
Hai năm sau đó, sách
của Maxwell được tái bản lần hai vào
năm 1881, trong đó có một chú thích lịch sự ở cuối trang của nhà
xuất bản là:
“Ông
Hall đã phát hiện rằng một từ trường ổn định có thể làm thay đổi
chút ít sự phân bố dòng điện trong phần lớn các dây dẫn, vì vậy
tuyên bố của Maxwell
chỉ được xem như là gần đúng.”
Ở
đây chúng ta thấy
rằng cường độ và ngay cả dấu
của điện thế Hall phụ thuộc vào tính chất của nguyên liệu làm nên
dây dẫn – lá vàng mỏng trong thí nghiệm của Hall.
Điều này đã làm cho hiệu ứng Hall trở thành
một công cụ dự
đoán quan trọng trong việc khảo sát các hạt
dẫn mang điện. Ví dụ như
việc
đưa đến
lý thuyết
về lỗ trống
tích điện dương như là
hạt mang
điện trong chất rắn. Mặc
dù Maxwell đã sai lầm, ông cũng đã khơi dậy một nghiên cứu thành
công và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong vật lý.
Một thế kỷ sau, hiệu ứng Hall lại được chú ý như nguồn sinh lực cho
các nghiên cứu vật lý mới. Năm 1980, tại phòng thí nghiệm từ trường
mạnh Grenoble tại Pháp, Klaus Von Klitzing (sinh năm 1943, giải
Nobel năm 1985) nghiên cứu điện dẫn Hall cho khí điện tử hai
chiều ở nhiệt độ rất thấp. Ông ta tìm thấy rằng , xét về bản chất,
thì điện dẫn Hall là hàm của cường độ từ trường vuông góc với mặt
phẳng của khí điện tử và được mô tả dưới dạng đồ thị hình bậc thang
của các đoạn ngang liên tục. Với một độ chính xác hoàn toàn bất ngờ,
những giá trị liên tiếp tăng dần của điện dẫn Hall luôn là bội số
nguyên của một hằng số cơ bản tự nhiên:
e2/h = 1/ (25 812.807 572 Ω)
bất kể những chi tiết hình học khác nhau của thí nghiệm hay những
điểm không thuần chất của vật liệu dùng làm thí nghiệm. Klaus Von
Klitzing đã đoạt giải Nobel vật lý năm 1985 vì đã khám phá ra hiệu
ứng lượng tử Hall và độ chính xác của hiệu ứng này đã cung cấp cho
các nhà đo lường học một chuẩn cao cấp cho đơn vị điện trở.
Hiệu ứng Hall lượng tử cũng dẫn đến một phương pháp đo lường trực
tiếp hằng số cấu trúc tinh tế e2/hc với độ chính xác hiển
nhiên cho ra giá trị 1/137.0360. 0300(270). Phương pháp khác dựa
trên việc đo moment từ dị thường của điện tử thực sự cho hằng số cấu
trúc tinh tế một kết quả chính xác hơn. Tuy nhiên phương pháp này
đòi hỏi một nỗ lực tính toán khổng lồ - gồm hơn 1,000 giản đồ Feynman
(Richard P. Feynman
([1918-1988],
Nobel Vật lý năm 1965)
và việc mắc sai lầm khi tính toán rất dễ xảy ra.
Làm sao chúng ta có thể giải thích được độ chính xác đáng kinh ngạc
của sự lượng tử hóa trong hiệu ứng Hall lượng tử khi mà độ chính xác
này không phụ thuộc vào ngẫu nhiên của vật liệu thí nghiệm ? Ở đây
rõ ràng một điều là các mẫu vật khác nhau có các tạp chất khác nhau,
cấu trúc hình học khác nhau và mật độ điện tử khác nhau. Một trong
những tiến bộ về mặt lý thuyết phát sinh từ câu hỏi này là việc phát
hiện ra rằng điện dẫn Hall khi ở trạng thái bình ổn có liên quan đến
tính chất tôpô của không gian..Hiện nay người ta đã tìm ra mối liên
hệ giữa hiệu ứng Hall lương tử với bất biến tôpô đặc trưng bằng các
số Chern.
Các bạn muốn hiểu sâu hơn về vấn đề này có thể đọc tiếp bài báo trên
tạp chí Physics Today. Ở đây người viết chỉ muốn đế cập đến lịch sử
tìm ra hiệu ứng để thấy rằng sinh viên có thể làm được nhiều điều
ngoài việc giải các bài tập ở lớp. Xin kết thúc bài viết này bằng
một câu chuyện vui về sinh viên
Một lần nọ ở cuộc thi vấn đáp cậu sinh viên nhận được câu hỏi: Hãy
chỉ ra phương pháp dùng phong vũ biểu để đo chiều cao của một cao
ốc. Tất nhiên ở đây giáo sư muốn sinh viên nhớ đến sự liên hệ giữa
áp suất khí quyển với chiều cao. Đo áp suất suy ra được chiều cao.
Tuy nhiên câu trả lới của sinh vịên như sau : Ta lấy sợi dây chỉ ,
đem buộc vào phong vũ biểu sau đó đứng trên cao ốc thả xuống dưới,
đo chiều dài sợi dây sẽ biết được chiều cao. Vị giáo sư : cần đưa ra
cách đo có áp dụng tính chất vật lý. Sinh viên tra lời : Ta ném cái
phong vũ biểu tứ trên cao ốc xuông đất. Dùng đồng hồ bấm giây
đo thời gian chạm đất ta tim được
h = 1/2 gt²
Giáo sư: cần có phương pháp sử dụng tính chất của phong vũ biểu.
Sinh viên : ta co thể sử dụng chiều cao của phong vũ biểu bằng cách
dựng đứng phong vũ biểu. Đo bóng của phong vũ biểu và bóng của cao
ốc do mặt trới chiếu xuống. Biết chiều cao của phong vũ biểu ta suy
ra chiều cao của cao ốc. Cuộc đối đáp còn kéo dài và cậu sinh viên
đưa ra trên mười cách đo khác nhau. Cuối cùng không chịu nổi, vị
giáo sư nói : cần đưa ra cách đơn giản nhất và sử dụng trực tiếp cái
phong vũ biểu. Sinh viên : nếu thế thi mình đem cái phong vũ biểu
này biếu cho người quản lý cao ốc và nhờ anh ta cho xem bản thiết kế
chắc chắn sẽ có câu trả lời chính xác. ….
Cậu sinh viên đó sau này trở thành nhà vật lý vĩ đại, nếu tác giả
không nhầm thì đó chính là Niels Bohr,
được giải Nobel Vật lý năm 1922 và câu chuyện do
Ernest Rutherford (1871-1937)
kể.
Rutherford với thí nghiệm lừng danh bắn phá nguyên tử
lá vàng bằng chùm hạt alpha và đã tìm ra cấu trúc nguyên tử
nên đã được giải Nobel Hóa học năm 1910.
Kết luận : hãy sáng tạo ngay khi còn là sinh
viên
Lê Văn Hoàng
Tiến Sỹ Khoa Học
ĐH Sư phạm Tp. HCM, khoa Vật lý
Email: hoanglv@hcm.fpt.vn
|