Kính thưa các vị khách quí và các anh chị Việt kiều,
hôm nay tôi rất vinh hạnh được tham dự Hội thảo “Phát huy nguồn lực trí thức
Việt kiều đóng góp vào công cuộc phát triển TP.HCM”. Bài phát biểu của tôi
chú trọng đến 2 vấn đề: xây dựng đại học và sản xuất thực tế.
I.
XÂY DỰNG ĐẠI HỌC
1. Ý nghĩa
đại học
Nhận thức về vai trò
và chức năng của đại học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây
dựng đại học để định hướng chương trình và phương pháp đào tạo phù
hợp. Sự khác biệt của đại học giữa các quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa
trên nhận thức này.
Hiện nay, ở nhiều quốc gia, cách dạy và cách học còn
mang ý nghĩa từ chương, nhưng tuyệt đại đa số các nước phát triển,
giáo dục đại học đều hướng đến mục tiêu xây dựng con người có kiến thức, khả
năng và suy nghĩ đáp ứng được nhu cầu của xã hội, những người đóng
vai trò nòng cốt đối với việc xây dựng phát triển xã hội. Trong các nước
đang phát triển, một đại học chỉ được đánh giá cao khi đào tạo được nguồn
nhân lực dồi dào có khả năng đóng góp tốt cho xã hội của quốc gia
đó.
2. Kinh
nghiệm của Nhật bản trong vấn đề xây dựng đại học
Nhật bản hiện nay có khoảng 500 trường đại học đào
tạo hệ từ 4 năm, nhưng nếu kể cả những trường đoản kỳ đại học (hệ 2
năm) con số này lên tới khoảng 900 trường. Kể từ khi Minh trị
Thiên Hoàng canh tân nước Nhật, mô hình các trường đại học mới bắt đầu
được xây dựng, bao gồm cả đại học của Nhà nước lẫn tư nhân. Thời kỳ này,
7 trường đại học nổi tiếng của Nhật gọi là trường “đế quốc đại học” trải
dài từ Hokkaido đến miền nam Kyushu, đều thuộc sự quản lý của Nhà nước và
đã đào tạo được rất nhiều nhân tài cho Nhật bản trong đó phải kể đến đội
ngũ công nhân viên nhà nước. Trong số các trường đại học tư thục, 2
trường có qui mô lớn nhất là đại học Keio và Waseda, ngoài ra một số
trường danh tiếng và có truyền thống lịch sử trong việc đào tạo nhân tài
còn có các đại học Doshisha, Tokyo Joshi Ika, Tsudajuku và Nihon Joshi. Đặc
biệt, Tokyo Joshi Ika, Tsudajuku và Nihon Joshi là những trường chuyên
đào tạo phụ nữ thành nhân tài của Nhật bàn.
Hệ thống các trường đại học công lập và tư nhân đều
trực thuộc sự quản lý của Bộ Giáo dục Nhật bản. Tại Nhật, chương
trình sách giáo khoa từ bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
đều được Bộ Giáo dục kiểm định và ban hành đồng bộ
trên toàn nước Nhật, tuy nhiên đối với giáo dục đại học, Bộ Giáo dục cho
các trường tự quyết định chương trình và phương pháp đào tạo.
Các trường đại học cũng thành lập nhiều học khoa, tổ
chức nhiều chuyên ngành: khoa học xã hội, khoa học nhân văn, kỹ thuật
công nghiệp, nông nghiệp, y khoa, dược, sư phạm,… Do số trường đại học tăng
nhanh chóng và chương trình đào tạo độc lập, các trường phải cạnh tranh
nhau bằng cách thiết kế nội dung tốt và có đầu ra là sinh viên sau tốt
nghiệp sẽ là những người có thực lực đóng góp cho xã hội. Trường nào
không đạt được mục tiêu này thì không thu hút được sinh viên và thậm chí có
trường phải đóng cửa.
Do việc xác định mục tiêu chính của đào tạo là đóng góp
nhân tài cho xã hội Nhật, nên các đại học ở Nhật ít khi nghĩ đến vị thế
của nhà trường trong thứ bậc quốc tế. Ngay cả trường Đại học lớn nhất
và danh tiếng nhất Nhật bản là Tokyo, nếu xếp hạng thuộc trong khoảng 20
trường hàng đầu của thế giới nhưng người Nhật vẫn không quan tâm đến thứ
tự đó. Cho nên, các đại học được đánh giá cao ở Nhật là những trường mà
sinh viên xuất thân từ đó có đóng góp nổi bật cho xã hội, cho guồng máy nhà
nước, và trong công nghiệp - sản xuất.
3. Đại
học và xã hội
Tôi có nhiều kinh nghiệm về hệ thống đại học của Nhật bản và cũng có một số
hiểu biết về đại học ở Mỹ. Đại học ở Mỹ cũng chủ trương đào tạo nhân tài cho
xã hội. Các trường ở Mỹ như Havard, Yale, Princeton, MIT, Stanford, UC
Baley, UCLA,… đều là những trường danh tiếng trong việc đào tạo nhân tài cho
xã hội Mỹ. Cho nên chúng ta cần nhận ra là đại học phải gắn liền với xã
hội, không thể tách rời xã hội và người dân sở tại. Đại học muốn đóng
vai trò quan trọng trong xã hội thì chương trình và nội dung không nên
bất di bất dịch mà có những điều chỉnh thay đổi thích hợp, dựa trên những
kinh nghiệm từ quá khứ và phân tích được chiều hướng phát triển xã hội,
để đáp ứng thích hợp và kịp thời nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội trong
tương lai.
Vì lẽ đó, tôi nghĩ rằng đại học ở Việt nam cần có sự cạnh tranh giữa các
trường đại học và cải tiến đại học theo những kinh nghiệm hữu ích từ các
quốc gia phát triển trên thế giới. Đại học phải là nơi đào tạo sinh
viên có chất lượng hơn là số lượng. Bằng cấp chỉ là phương tiện tạo cơ
hội cho thực tài phát triển.
II. SẢN XUẤT THỰC TẾ:
Ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, vấn đề sản xuất
thực tế trên qui mô lớn là rất khó. Một chu trình sản xuất trong
phòng thí nghiệm khác xa so với sản xuất trên qui mô lớn ngoài xã hội.
Người ta thường phân biệt khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng, nhưng
trên thực tế đây là 2 bộ phận gắn liền với nhau, không thể tách rời.
Khoa học cơ bản hỗ trợ cho khoa học ứng dụng, giải thích các sự kiện, từ đó
đề ra phương hướng thật sự để ứng dụng. Vấn đề chủ yếu là hướng đi và
lương tâm của người làm khoa học để hướng tới ứng dụng.
Xã hội Việt nam chúng ta quá coi trọng bằng cấp, kỹ
sư, thạc sĩ, tiến sĩ. Tiến sĩ chẳng qua chỉ là
một người đã được đào tạo và huấn luyện để có thể nghiên cứu độc lập, Tiến
sĩ không phải là bến đỗ cuối cùng mà chỉ là ga bắt đầu. Người tiến sĩ
nếu dùng không khéo chỉ tạo nhiều ý nghĩ viễn vông không thực tế, và có
thể lãng phí công sức, thời gian và tiền của cho những ý tưởng, dự án xa rời
thực tế, không có giá trị kể cả cơ bản lẫn ứng dụng.
Ở các nước phát triển như Nhật, Mỹ, bằng cấp chỉ là
một tài liệu tham khảo chứ không phải là tài liệu đánh giá. Tiêu
chuẩn đánh giá chính là thực tài của cá nhân ấy. Ông Ibuka là người
sáng lập công ty Sony nổi tiếng thế giới như hiện nay, cũng chỉ là
người tốt nghiệp kỹ sư. Ông Honda chỉ là một người thợ sửa xe, không
hề tốt nghiệp đại học nhưng xây dựng được công ty Honda tầm cỡ thế giới
như hiện nay. Bill Gates - người thành lập công ty Microsoft lừng lẫy
toàn cầu, hay Stevens Jobb là người sang lập ra Macintoh và Ipod đều là
những người bỏ học đại học giữa chừng. Hay nói đến Việt nam, thần đèn
Nguyễn Cẩm Lũy chỉ là người
xuất thân từ gia đình nông dân, chỉ học hết lớp 4 nhưng làm được những công
việc mà kỹ sư công chánh không làm được.
Cho nên chúng ta cần
chú trọng đến kiến thức, thực tài chứ không phải bằng cấp. Tôi được biết
nhiều anh chị Việt kiều làm trong đại học nhưng có
kiến thức sản xuất thực tế đồng thời cũng có nhiều anh chị giữ vị trí quan
trọng trong các công ty hàng đầu ở các nước phát triển.
Chúng ta nên cố gắng mời những anh chị này hợp tác
với trong nước, vấn đề là cộng tác như thế nào.
Tôi nghĩ rằng để thu hút các anh chị Việt kiều
trong sản xuất thực tế,
Nhà nước cần tạo nhiều cơ hội để các anh chị này
cộng tác với công ty nhà nước hoặc công ty tư nhân trên cơ sở phát huy khả
năng và đóng góp cho sản xuất.
Vấn đề thù lao không phải là chính nhưng để công
bằng, cần có biện pháp phân bổ lợi nhuận phù hợp
từ doanh thu các sản phẩm cụ thể được các anh chị Việt kiều đóng góp công
sức để sản xuất.
III. KẾT
LUẬN - ĐỀ NGHỊ CỤ THỂ
Như chúng ta đã biết, Trung Quốc là quốc gia thứ ba trên
thế giới đã bắn hỏa tiễn lên mặt trăng. Thành tựu này một phần là nhờ vào
kiến thức và sự góp sức của các Hoa kiều ở nước ngoài về cộng tác. Trung
Quốc ngày nay phát triển rất mạnh về Khoa học- Kỹ thuật (KH-KT): IT, máy
móc, dược phẩm; cạnh tranh không chỉ về lượng mà đang bắt đầu chú trọng vào
phẩm chất của sản phẩm để cạnh tranh trên thương trường thế giới. Những
thành quả này đều có công sức đóng góp của các Hoa kiều trở về các nước phát
triển, đặc biệt từ Mỹ. Nam Triều Tiên cũng đã rất thành công trong vấn đề
xây dựng KH-KT, nhờ vào việc thu hút kiều dân của họ từ nước ngoài về đóng
góp cho đất nước từ hơn 20 năm qua. Sự thành công của Nam Triều Tiên và
Trung Quốc là nhờ vào sự kết hợp hài hòa giữa lòng yêu thương và hỗ trợ
thích đáng về kinh tế cho người trở về.
Việt nam chúng ta có số lượng người Việt định cư hay
làm việc ở nước ngoài không phải là ít, đặc biệt trong số đó nhiều anh chị
Việt kiều giữ trọng trách tại các trường đại học và các công ty hàng đầu
trên toàn thế giới, có kinh nghiệm và khả năng
khoa học kỹ thuật cao, hơn nữa rất có tâm huyết cải cách giáo dục, xây dựng
đất nước. Thu hút sự hợp tác của các nhà khoa học gốc Việt ở nước ngoài
là vấn đề được đặt ra từ nhiều năm qua, và đã có nhiều nỗ lực thực
hiện, như đã có nghị quyết 36 của Bộ chính trị về việc này, nhưng thực
tế cho tới nay, việc huy động này vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.
Ở góc độ cá nhân, tôi xin đề nghị một số giải pháp
trong việc thu hút các anh chị Việt kiều góp sức cho giáo dục đại học như
sau:
1.
Cần tổ chức những lớp học dài hạn cho những người có
thể về nước cộng tác từ 6 tháng – 1 năm hoặc những lớp học ngắn hạn
cho những người chỉ có thể về nước trong 1 tuần- 10 ngày.
2.
Cách đây 5 năm, tôi đã kiến nghị biện pháp lệch pha (trong đó thời
gian của niên học trong nước trùng với thời gian nghỉ hè, nghỉ đông ở các
nước phát triển); nhưng tiếc rằng chưa được hưởng ứng. Nếu làm được điều
này, chúng ta có thể tận dụng được thời gian và sức lực của các anh chị Việt
kiều từ nước ngoài và cả các giáo sư người nước ngoài cộng tác tại các
trường đại học trong nước. Điều thuận lợi là hầu hết các giáo sư ở các nước
phát triển đều có ngân sách cho họ dự Hội nghị quốc tế hoặc giảng bài, họ
không thiếu kinh phí đi lại. Chỉ cần lo chi phí ăn ở, xe cộ; tiền bồi dưỡng
là không cần thiết.
3.
Cùng với việc đào tạo sinh viên đại học, chúng ta cũng nên tổ chức đào
tạo hệ trung cấp ngắn hạn trong 2 năm để xây dựng hạ tầng cơ sở mà hiện
nay ta còn yếu.
4.
Gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin, việc học có thể chủ động và tiện lợi hơn rất nhiều
nhờ các giáo trình được thu vào trong những phương tiện nghe nhìn cá nhân
như băng hình, băng tiếng, đĩa CD-ROM, phần mềm vi tính, Internet. Điển
hình như kỹ thuật thu DVD cũng khá đơn giản, không tốn kém và mất nhiều thời
gian. Chỉ cần trang bị khoảng 30.000USD cho thiết bị và một cơ sở nho nhỏ là
có thể thực hiện thu DVD được. Theo kinh nghiệm của tôi, trong vòng
khoảng 2 giờ đồng hồ có thể hoàn tất thu 1
bài giảng, nội dung giảng nên được soạn dưới dạng powerpoint.Với biện pháp
thu DVD, những kiến thức cập nhật trong bài
giảng của các giáo sư nước ngoài và các anh chị Việt kiều trong những lần về
nước ngắn ngủi, có thể được phát hành rộng rãi khắp đất nước, kể cả những
vùng sâu vùng xa mà trước đây rất thiệt thòi trong việc tiếp cận thông tin,
cũng như khá tiện lợi cho các sinh viên tại chức (vừa làm vừa học).
5.
Nhà nước nên có chính sách cụ thể và tích cực nhằm tạo điều kiện cho các
nhà khoa học gốc Việt ở nước ngoài có cơ hội giảng dạy, như là visa lưu
trú ngắn hạn cũng như dài hạn cho các anh chị, sắp đặt chỗ ăn ở, xe cộ và
giúp giải quyết các vấn đề cá nhân, gia đình để giúp các anh chị thoải mái
trong công việc.
Tôi hy vọng sau Hội nghị hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu, phân tích cụ thể hơn và có những biện pháp phù hợp thực tế. Tôi xin
dứt lời và chúc Hội nghị thành công.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Văn Chuyển