Thế giới và thị trường nông sản trong thế kỷ 21
Bước vào thế kỷ 21, nông nghiệp thế giới đã phải đối diện
với nhiều khó khăn thách thức vô cùng to lớn. Trước hết là sự cạnh tranh gay
gắt giữa công nghiệp và nông nghiệp về đất đai. Đô thị hoá đã làm đất nông
nghiệp càng lúc càng thu hẹp dẫn đến tình trạng khan hiếm đất canh tác. Tình
hình sản xuất manh mún càng ngày càng phổ biến làm giá thành nông sản càng
lúc càng bị đội lên cao. Hai là yêu cầu của thị trường có khuynh hướng
nghiêng về phía chất lượng và những mặt hàng bổ dưỡng. Ba là những thay đổi
về khí hậu, mất cân bằng trong đa dạng sinh học, phát triển đến chóng mặt
trong công nghệ sinh học … đã dấy lên mối quan tâm của giới tiêu thụ về môi
trường và tài nguyên thiên nhiên, hình thành những đòi hỏi về tính bền vững
trong nông nghiệp. Cuối cùng là để bảo vệ mình, giới tiêu thụ đã xây dựng
một chế độ kiểm tra chất lượng khắt khe – gọi là quy trình nông nghiệp tốt
GAP (Good Agricultural Practice) – để bảo đảm tính an toàn vệ sinh thực
phẩm. GAP ra đời có mục đích hướng dẫn những thực hành tốt nhằm ngăn ngừa
nhiễm bẩn thực phẩm, đồng thời cũng đã trở thành một công cụ làm rào cản
ngăn chận sự thâm nhập nông sản của nước khác.
Những khó khăn thách thức đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến các
quốc gia Á Phi nghèo nàn, làm nông sản của họ trở nên mất giá trị, không bán
được hoặc phải bán rẻ cho những công ty siêu quốc gia. Những công ty này gia
công lại, bán lấy lời nhờ thương hiệu nổi tiếng của họ.
Để sống còn, nông nghiệp thế giới phải thay đổi. Công nghiệp
hóa, Hiện đại hoá, Bền vững hoá và An toàn vệ sinh đã và đang trở thành
chiến lược cho chính sách phát triển nông nghiệp của hầu hết các nước trên
thế giới. Trong đó sản xuất nông nghiệp phải luôn hướng đến 4 yêu cầu quan
trọng:
1. Sản xuất lượng hàng hoá lớn dạng công nghiệp;
2. Chất lượng cao và bổ dưỡng;
3. An toàn vệ sinh; và
4. Giá rẻ cạnh tranh.
Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam tham gia Tổ chức Thương Mại
Thế Giới WTO, làm thành viên thứ 150 của tổ chức này.
1. Nông nghiệp Viêt Nam trên bước đường hội nhập
Lợi ích cụ thể mà WTO mang lại cho Việt Nam là một thị
trường nông sản có trị giá 669 tỉ USD/năm. Nhưng để chen chân vào thị trường
này, Việt Nam phải cạnh tranh với 149 thành viên khác, trong đó có những
thành viên có nền nông nghiệp cực cao. Nói khác đi, nông dân Việt Nam phải
ngay tức khắc đối đầu với nhiều khó khăn thách thức cực kỳ khó khăn để bảo
đảm nông sản Việt Nam lúc nào cũng thoả mãn 4 yêu cầu nói trên. Làm sao để
sản xuất một lượng hàng hoá lớn, có chất lượng cao, bảo đảm an toàn vệ sinh
nhưng vẫn có giá rẻ để cạnh tranh ?
Đối với Việt Nam, trong mọi thời kỳ, nông nghiệp bao giờ
cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong bước phát triển về kinh tế và
xã hội của đất nước. Tuy chỉ có hơn 7 triệu ha trồng lúa, 1 triệu ha trồng
dừa, cao su, trà, cà phê và 1.4 ha trồng rau hoa quả nhưng trong khoảng hơn
10 năm trở lại đây, nông dân ta đã không ngừng nâng cao sản xuất, đưa Việt
Nam trở thành một trong những “đại gia” xuất khẩu nông sản của thế giới.
Chúng ta đã xuất những mặt hàng quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến việc
cấu thành giá bán của thị trường thế giới. Gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hồ
tiêu là những mặt hàng như thế (Bảng 1).
Bảng 1. Thị truờng nhập khẩu thế giới và một số mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào năm 2005. (Nguồn:
FAO/http://unstats.un.org/unsd/default.htp).
Hàng hoá |
Thị trường thế giới ( USD ) |
Xuất khẩu Việt Nam ( USD ) |
Xuất khẩu Việt Nam
( Thị phần % ) |
Rau & Quả |
97.900.226.000 |
260.000.000 |
0 |
Hoa |
80.000.000.000 |
10.000.000 |
0 |
|
|
|
|
Gạo |
9.249.026.000 |
1.400.000.000 |
15 |
Cà phê |
7.548.041.000 |
750.000.000 |
10 |
Cao su |
7.488.707.000 |
780.000.000 |
10 |
Chè |
3.059.002.000 |
98.900.000 |
3 |
Hạt điều |
1.569.312.000 |
418.000.000 |
27 |
Hồ tiêu |
511.307.000 |
120.000.000 |
24 |
Thế giới |
669.063.000.000 |
3.957.780.000 |
0,6 |
Bảng 2. Xuất khẩu rau quả và trái cây của Việt Nam sang
Trung Quốc, 2000-2004.
Năm |
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
Xuất khẩu sang TQ, triệu USD (% xuất
khẩu Việt Nam sang TQ) |
120,5 (57%) |
142,0 (43%) |
121,5
(56%) |
67,1
(37%) |
24,9
(13%) |
Tổng số xuất khẩu, triệu USD |
213,1 |
329,9 |
218,5 |
182,5 |
186,8 |
Tuy nhiên khi quan sát các ngành
hàng sản xuất và thị trường xuất khẩu, chúng ta thấy
nông nghiệp Việt Nam đã có những bất cập như sau:
1. Mặc dù phát triển vượt bậc về
ngành lúa nước, cà phê, cao su, hạt điều và hồ tiêu
nhưng đây là những mặt hàng thô, không có nhiều lợi
nhuận;
2. Các mặt hàng chủ lực của ta có
thị trường xuất khẩu không lớn, lúa gạo, cà phê, cao
su có thị trường nhập khẩu không quá 10 tỷ USD/năm .
Hạt điều và hồ tiêu thì cũng không quá 2 tỷ USD/năm.
Trong khi đó Rau quả và Hoa có thị trường rất lớn;
cả trăm tỷ mỗi thứ, thì ít được phát triển;
3. Do tốc độ đô thị hoá tăng nhanh,
hàng năm các thành phố lớn bị mất diện tích đất nông
nghiệp rất lớn (Hà Nội khoảng 1.000 ha/năm, thành
phố Hồ Chí Minh 1.200 ha/năm…). Diện tích nông
nghiệp ven đô càng ngày càng manh mún. Ở nông thôn
tình trạng manh mún cũng phổ biến vì dân ở nông thôn
chia đất cho con cháu, bám vào nông nghiệp để sống.
Hoặc nếu không thì bỏ lên đô thị, đất bị hoang hoá!
4. Đô thị hoá tăng nhanh đã gây áp
lực tăng năng suất và hệ số quay vòng của đất. Việc
áp dụng bất cứ phương pháp sản xuất nào miễn có thể
tăng năng suất, giải toả áp lực trên, là giải pháp
nguy hiểm, đưa đến sự lạm dụng phân bón, thuốc BVTV
làm cho mức độ bền vững môi trường và an toàn vệ
sinh thực phẩm càng ngày càng kém đi. Báo cáo của Bộ
Y Tế (2006) cho biết trong khoảng thời gian từ 2001
– 2005, đã có khoảng 23.000 người bị ngộ độc thực
phẩm trong đó có lý do vì ăn rau. Một trong những
nguyên nhân là dư lượng thuốc BVTV cao, có khi cao
gấp 5-10 lần quá ngưỡng cho phép MRL. Tình trạng
thường xuyên ngộ độc do ăn Rau làm nẩy sinh tâm lý
sợ ăn rau, nếu không giải quyết kịp thời sẽ có khả
năng tạo thành một nền văn hoá “không ăn rau”của
người Việt.
5. Nông sản Việt Nam đang có triệu
chứng không phát triển tốt ở thị trường xuất khẩu.
Nga đã lưu ý Việt Nam về độ tồn lưu thuốc kháng sinh
trong cá basa (VnEconomy 13/3/2007), hơn hai triệu
bao cà phê (60kg/bao) bị trả vì chất lượng kém
(VnEconomy 6/6/2007), và ngày 25/6/2007, Đại sứ đặc
mệnh toàn quyền Nhật Bản Norio Hattori đã gửi đến Bộ
trưởng Bộ Thủy sản Việt Nam lưu ý vấn đề tồn dư
kháng sinh trong thủy hải sản xuất khẩu sang Nhật:
"Từ năm ngoái đến năm nay, liên tiếp tìm thấy chất
kháng sinh bị cấm theo luật vệ sinh thực phẩm của
Nhật trong mực và tôm xuất khẩu từ Việt Nam. Nếu
trong thời gian tới cũng tiếp tục phát sinh các
trường hợp vi phạm thì cơ quan phụ trách kiểm dịch
của Nhật Bản bắt buộc phải xem xét áp dụng biện pháp
cấm nhập khẩu".
Việc Nhật Bản cảnh báo cấm nhập khẩu
hàng thuỷ sản là một báo động nghiêm trọng, nếu
không cương quyết giải quyết nhanh và dứt điểm,
không những Việt Nam mất đi hàng tỷ đô la xuất khẩu,
thương hiệu và uy tín của mặt hàng thuỷ sản "Made in
Viet Nam” bị thương tổn, mà phản ứng “dây chuyền”
kéo theo những mặt hàng nông sản xuất khẩu khác như
gạo, cà phê, trà, hạt điều, tiêu… vốn là những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chiếm đến 20%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, mới là những
hậu quả cực kỳ nghiêm trọng.
2. Việt kiều và khả năng đóng góp cho đất nước
Học tập, sống và làm việc lâu năm ở những nước đã phát
triển, nơi mà nền kinh tế bao giờ cũng dựa trên nền sản xuất dạng công
nghiệp với hàng hoá lớn, chất lượng cao và an toàn vệ sinh, trí thức Việt
kiều rõ ràng đã quen và có khả năng, nếu không nói là có ưu thế so với đồng
nghiệp trong nước, giúp Việt Nam ở bất cứ ngành nghề nào, hội nhập nhanh vào
thị trường quốc tế. Cũng nhờ sống lâu năm ở nước ngoài, quen với môi trường
làm việc, trí thức Việt kiều khâu rất nhanh mối liên hệ quốc tế.
Không có sự khác biệt hoặc kẻ hở nào với đối tác nước ngoài
khi có sự thảo luận về hợp tác, tổ chức, điều hành, công nghệ cao, thậm chí
cả tầm nhìn chiến lược về ngành nghề của mình, do vậy lôi kéo nhanh những dự
án hợp tác quốc tế, kể cả việc kêu gọi đầu tư. Ngoài ra, vốn được rèn luyện
trong nghịch cảnh, trí thức Việt kiều cũng có tính thích ứng cao, rất nhanh
trong việc tìm lời giải cho những bài toán khó.
Tóm lại trí thức Việt kiều là những
người có chất lượng khoa học và kỷ năng như những
“ông tây bà đầm”, nhưng nói tiếng Việt khá hơn khi
làm việc, khi giao tế và khi đứng trên bục giảng ở
Việt Nam.
3. Việt kiều và con đường trở về
đóng góp cho quê hương
Tuy nhiên sự trở về đóng góp của trí
thức Việt kiều không hề là một cuộc trở về có trải
thảm đỏ. Việt kiều phải kinh qua những con đường khá
khó khăn như sau:
1. Quá trình thủ tục làm hồ sơ nhiêu
khê. Điều này dễ làm nản lòng những người vốn bận
rộn, tất bật “trăm công ngàn việc” như những anh chị
em hiện làm việc ở đại học, viện nghiên cứu, công
ty.
2. Kiến thức, kỷ năng và kinh nghiệm
của Việt kiều chỉ được phát huy tối đa nếu được làm
việc trong một cơ quan có cơ chế “đặc biệt”.
3. “Đột phá” là một yêu cầu mà những
người trong nước luôn chờ đợi ở trí thứcViệt kiêu.
Nếu cho rằng đột phá là những công trình có thể
“chuyển biến rõ rệt, để lại dấu ấn trong một lĩnh
vực, một cơ sở nghiên cứu khoa học quan trọng” nào
đó thì sẽ... không có một Việt kiều nào có thể làm
được. Bởi vì đột phá trong khoa học cũng là công
trình mang tính cách mạng, dám nghĩ dám làm. Trong
khi đó, Việt Nam đã có sẵn những tổ chức với một cơ
chế xuyên suốt từ trên xuống dưới rồi. Sự đóng góp
của Việt kiều như thể một con vít, một bánh xe – giả
sử có tốt hơn – cũng chỉ giúp cổ máy ấy trơn tru
hơn, chạy ngon hơn, để hội nhập nhanh hơn vào cộng
đồng thế giới.
4. Về cuộc sống cá nhân, trí thức
Việt kiều phải sẵn sàng tư thế “sống nhà thuê, đi xe
máy”. Nhà nước có chính sách giúp trí thức Việt kiều
nhanh chóng hoà nhập. Nhưng sử dụng được chính sách
này lại phải một lần nữa kinh qua một quá trình thủ
tục làm hồ sơ cực kỳ nhiêu khê. Việt kiều làm gì có
thì giờ và biết cách để làm những công việc như vậy!
Tạm thay lời kết
Việt Nam là quê hương của chúng ta.
Nhưng đấy là một xã hội – bên những mặt được – còn
có nhiều mặt chưa được, mà thị trường nhân dụng là
mặt chưa được của Việt Nam. Ví dụ như ngành nông
nghiệp trong case study này, mặc dù có rất nhiều
điều bất cập cần phải làm ngay để góp tay với 70%
dân nông thôn, tức 58 triệu người, đối mặt với những
khó khăn thách thức nói trên. Vậy mà không ai biết
Bộ nông nghiệp/Sở nông nghiệp có cần tuyển nhân viên
không? Nếu có thì cần những chuyên viên nào, cho bộ
sở nào?
Tuy nhiên nếu ở nước ngoài chúng ta
đã phải kiên trì theo dõi job market hàng tháng trởi
để tìm một việc làm. Chúng ta đã phải đắn đo suy
nghĩ để viết một CV ngắn gọn nhưng nêu bật được
những kỷ năng và kinh nghiệm của mình cho thích hợp
với cái “position” mình nhắm đến ở đại học, viện
nghiên cứu hay một công ty. Thì ở Việt Nam chúng ta
cũng phải làm y như vậy. Cho nên dù ở trình độ nào,
nhà nghiên cứu đầu ngành hay chỉ mới ra trường, trí
thức Việt kiều cũng phải xem thị trường nhân dụng
Việt Nam như nước sở tại. Phải nghiêm chỉnh nghiên
cứu tình hình ngành nghề của mình ở Việt Nam để biết
tình hình khoa học kỹ thuật đã đến đâu, chúng ta
phải làm gì, ở đâu, với ai. Khi đã nghiên cứu nghiêm
túc, trí thức Việt kiều sẽ thấy Việt Nam cũng có một
kiểu làm, một hệ thống tuyển dụng dễ hiểu y như
những quốc gia khác trên thế giới.
Làm theo phong cách của các nước
tiên tiến cộng thêm với nhận thức mình đang làm việc
cho quê hương đất nước, trí thức Việt kiều sẽ thấy
chúng ta sẽ có rất nhiều việc - không làm được dài
hạn thì ngắn hạn - để đóng góp cho dân tộc. Vì tiếng
“hello” chúng ta chào đón phái đoàn đối tác nước
ngoài có khác với đồng nghiệp trong nước. Chúng ta
có khả năng có thể làm cho cuộc gặp gỡ khác đi: có
khi nhẹ nhỏm thoải mái hơn, có khi bớt quan cách
hơn, có khi thân thiện hơn nhưng cũng có khi “shut
up” được những lộng ngôn của mấy “ông tây” hợm
hĩnh... Những cuộc gặp gỡ đấy tuy gọn nhẹ. Những
đóng góp nghiên cứu đấy tuy không (chưa?) để lại dấu
ấn – trừ những scientific paper viết bằng tiếng Anh
đăng ở báo nước ngoài – đã mang về nhiều hợp tác
quốc tế trị giá hàng triệu đô la. Rõ ràng Việt kiều
đang cùng với trí thức trong nước góp phần thay đổi
hình ảnh – nếu chưa phải là nền khoa học kỹ thuật –
thì chí ít cũng thay đổi diện mạo của trí thức Việt
Nam trước con mắt của các nhà khoa học bạn. Và của
thế giới.
Hợp quần được nội lực về tri thức
của người trong và ngoài nước. Đấy không phải là một
“đột phá” sao?
Trung Tâm Xuất Sắc
Rau Hoa Quả-Viện Khoa học Nông
nghiệp Việt Nam -Vĩnh Quỳnh, Thanh
Trì, Hà Nội
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Quốc Vọng