<
về trang
chính
>
SƠ LƯỢC QUÁ
TRÌNH PHÁT
TRIỂN
Hán ngữ là
một ngôn ngữ
thuộc ngữ
tộc Hán-Tạng
(Sino-Tibetan).
Ngữ tộc này
còn bao gồm
hai nhánh
lớn:
Tạng-Miến
(Tibeto-Burman)
và Hán. Ngữ
tộc Hán Tạng
còn bao gồm
các ngôn ngữ
Thái và
Nê-pal
(Nepalese).
Còn
có một
thuyết khác:
Hán ngữ là
ngôn ngữ độc
lập trong
đại ngữ tộc
Indo-Sinitic.
Ngữ tộc này
còn bao gồm
các ngôn
ngữ: Thái,
Tây Tạng,
Miến Điện
(Burmese),
Mèo (Miao),
Lolo, và các
ngôn ngữ
nhóm
Mon-Khmer.
Tuy Hán ngữ
nổi tiếng là
một trong
các
ngôn
ngữ cao niên
nhất, nhưng
chưa ai trả
lời được Hán
ngữ được bao
nhiêu tuổi,
vì câu hỏi
lớn hơn về
nguồn gốc
của dân tộc
này vẫn chưa
giải đáp
nổi.
Cứ theo
truyền
thuyết thì
Phục Hi
伏
羲
(một ông vua
truyền
thuyết)
khoảng 3000
năm trước Công
Nguyên
(=
tcn)
vì chứng
kiến những
ký hiệu
huyền bí
trên lưng
con long mã
xuất hiện
nơi sông
Hoàng Hà nên
đã truyền
một vị đại
quan tên là
Thương Hiệt
倉頡 tạo ra
chữ viết.
Cũng theo
truyền
thuyết, Phục
Hi vẽ ra bát
quái, coi
như tiền
thân của chữ
viết. Còn
Thương Hiệt
là hữu sử
quan của
Hoàng Đế
(cũng là ông
vua truyền
thuyết) chứ
không phải
của Phục Hi.
Lại có một
thuyết khác,
gọi là
«Thương
Hiệt tác thư»
倉
頡
作
書
(Thương Hiệt
sáng tác chữ
viết):
Thương Hiệt
đã quan sát
các hiện
tượng thiên
nhiên và bắt
chước các
dấu vết của
động vật,
cây cỏ, chim
chóc, tinh
tú mà tạo ra
chữ Hán.
Thông thường
người ta chỉ
nhắc đến
Thương Hiệt
mà bỏ sót
Trở Tụng, tả
sử quan của
Hoàng Đế. Từ
điển Từ
Hải
giảng nơi
mục từ Trở
Tụng rằng: «Thời
của Hoàng
Đế, Trở Tụng
là quan tả
sử, Thương
Hiệt là quan
hữu sử, cùng
tạo ra văn
tự; nhưng
đời nay
nhiều người
biết có
Thương Hiệt
mà ít người
biết có Trở
Tụng.»
(Hoàng Đế
thời Trở
Tụng vi tả
sử, Thương
Hiệt vi hữu
sử, đồng tác
văn tự; đãn
kim thế đa
tri hữu
Thương Hiệt,
tiển tri hữu
Trở Tụng
黃 帝 時 沮 誦 為
左 史
,
倉 頡 為 右 史
,
同 作 文 字
;
但 今 世 多 知 有
倉 頡
,
鮮 知 有 沮 誦
).
Từ điển
Từ Hải
còn
trích dẫn
Tứ Thể Thư
Thế của
Vệ Hằng
衛 恆
rằng: «Trở
Tụng là sử
quan của
Hoàng Đế, là
người đầu
tiên tạo ra
thư khế,
quản lý vạn
sự.» (Trở
Tụng, Hoàng
Đế sử, thuỷ
tác thư khế,
kỷ cương vạn
sự
沮 誦
,
黃 帝 史
,
始 作 書 契
,
紀 綱 萬 事
).
Văn tự Trung
Quốc là một
thành tựu
văn hoá quan
trọng đến
nỗi tương
truyền rằng
khi hệ văn
tự này hoàn
thành thì
ban đêm thần
sầu quỉ
khốc, sấm
chớp nổi
dậy, và ngũ
cốc trên
trời đổ
xuống như
mưa. Tất
nhiên ngày
nay rất hiếm
người tin
vào điều đó,
nhưng sự
thần bí hoá
thành tựu
này chẳng
qua là đề
cao tính
chất quan
trọng của
nó. Văn tự
là thành tựu
quan trọng,
bởi vì chữ
viết và các
dụng cụ ghi
chép – dao
khắc, bút,
sơn, mực,
lụa, thẻ tre
(trúc giản),
thẻ gỗ (mộc
giản), giấy
– đã giúp
con người
ghi nhớ sự
việc trong
lao động và
sinh hoạt,
nhưng quan
trọng hơn cả
là họ có thể
ghi chép
được quá khứ
của mình
cũng như lưu
giữ các kiến
thức và kinh
nghiệm để
truyền lại
cho hậu
nhân. Nhờ đó
mà con người
có lịch sử
thành văn.
Những bài
học lịch sử
và kiến thức
cũng như sự
minh triết
của cổ nhân
bao ngàn năm
qua đã cải
thiện con
người hoang
dã của hôm
qua để thành
người văn
minh của hôm
nay. Giả sử
không có văn
tự con người
hẳn không
biết quá khứ
dằng dặc bao
ngàn năm của
mình. Một
khi sau lưng
chỉ là bóng
tối, thì
trước mặt
hẳn không có
triển vọng
gì.
Các nhà ngữ
học Trung
Quốc hiện
nay đã bác
bỏ thuyết «Thương
Hiệt tác thư»
倉
頡
作
書
ấy.
Họ cho rằng
Thương Hiệt
chẳng qua
chỉ là hệ
thống lại
các chữ Hán
có sẵn mà
thôi. Những
khai quật
khảo cổ cho
thấy chữ Hán
cổ xưa nhất
là Giáp
Cốt Văn
甲骨文
được khắc
trên mai rùa
và xương thú
(giáp =
quy giáp
龜
甲
: mai rùa;
cốt = thú
cốt
獸
骨
: xương
thú),
xuất hiện từ
đời Thương
商
(1766-1122
tcn).
Đời
Chu
周
(1122-221
tcn) sử dụng
chữ Đại
Triện
大
篆
. Đời Tần
秦
(221-206
tcn), Tần
Thủy Hoàng
Đế
秦始皇帝
thống nhất
sáu nước,
thừa tướng
Lý Tư
李
斯
thống nhất
văn tự, chữ
Tiểu Triện
小
篆
và chữ Lệ
隸
được sử
dụng. Các
chữ Khải
楷,
Hành
行,
Thảo
草
được phát
triển từ đời
Hán
漢
(206 tcn-221
cn) đến đời
Tấn
晉
(265-420).
Năm 1949,
đảng Cộng
Sản Trung
Quốc cầm
quyền, chủ
trương giản
hóa văn tự
và chữ giản
thể được phổ
biến cho đến
nay tại Hoa
Lục.
LƯỢC SỬ HỆ
PHIÊN ÂM
PINYIN
Việc phiên
âm Hán tự đã
có tự bao
giờ? Trước
hết phải kể
từ các thừa
sai dòng Tên
(Jesuit
missionaries)
xuất hiện ở
Trung Quốc
cuối thế kỷ
XVI. Họ học
thông thạo
Hán ngữ tại
khu vực hải
cảng của
Macao với
lối phiên âm
Latin do
chính họ
sáng chế. Họ
rất được
trọng vọng ở
triều đình
Bắc Kinh.
Người Trung
Quốc dẫu có
đánh giá cao
cách phiên
âm Latin ấy
nhưng cũng
khó vận dụng
được vì thật
sự cách
phiên âm này
chỉ thích
hợp cho
người Tây
phương học
Hán ngữ. Sau
đó, các mục
sư Tin Lành
có nhiều cải
tiến hơn
trong việc
dạy dân
chúng vùng
duyên hải
học Hán ngữ
bằng cách
phiên âm
Latin. Nhưng
bản thân
người Trung
Quốc vẫn
chưa nỗ lực
cải cách các
phương thức
phiên âm ấy
để biến đổi
cái văn tự
biểu ý
(ideographic
characters)
truyền thống
của họ thành
một văn tự
biểu âm
(phonetic
script).
Hai thế kỷ
sau đó, cuộc
cách mạng kỹ
nghệ ở Tây
phương đã
buộc người
Trung Quốc
nghĩ đến
việc hiện
đại hóa, một
việc mà Nhật
Bản đã tự
nguyện tiến
hành và đã
thành công.
Cải cách văn
tự càng trở
nên bức
thiết trước
những tiện
ích như điện
tín, máy
đánh chữ,
máy in hiện
đại, cũng
như trước
nhu cầu
giảng dạy
khoa học tự
nhiên cho
học sinh.
Trong khi
người Trung
Quốc lúng
túng với văn
tự biểu ý
của mình thì
người Nhật
từ lâu đã
nghĩ ra cách
dùng hệ
thống ký âm
gọi là
Kana (Giả
danh
假名:
gồm Phiến
giả danh
[katakana]
片假名
và Bình
giả danh
[Hiragana]
平假名song
hành với
Kanji
漢字
(tức là
những Hán tự
vay mượn của
Trung Quốc
đọc theo âm
Nhật).
Từ năm 1912
đến 1949
người Trung
Quốc đã cố
gắng hướng
về một quốc
ngữ với giản
hóa tự. Đáng
tiếc những
nỗ lực ấy đã
bị chựng lại
vì những
người bảo
thủ không
muốn văn tự
tổ tiên
truyền lại
bị xuyên tạc
cải biên
cũng như
không muốn
tiếng Quan
Thoại
官話
(Mandarin)
trở thành
Quốc Ngữ
國語.
Trong thời
kỳ này, hệ
thống Chú Âm
Phù Hiệu
注音符號
ra đời, gồm
khoảng 40 ký
hiệu chế
biến từ một
số nét Hán
tự, nhưng
vẫn chỉ là
một cách
phiên âm bên
cạnh Hán tự
truyền thống
(tức là chữ
phồn thể)
chứ không
thể đứng độc
lập được.
Phong trào
giáo dục đại
chúng những
năm 1920 đã
đề ra 1000
Hán tự cơ
bản để dạy
người mù
chữ. Đó có
phải là khởi
điểm cho
những người
mù chữ để họ
phát triển
thành 5000
Hán tự sau
này, hay đó
có phải là
một thứ Hán
ngữ cơ bản
bao quát mọi
tình huống
viết lách
thông
thường?
Những nghi
tình này dẫn
đến phương
án Latin hóa
Hán tự. Năm
1926 Quốc
Ngữ La Mã Tự
được khởi
thảo và được
Bộ Giáo Dục
công bố năm
1928. Đặc
điểm của
Quốc Ngữ La
Mã Tự là
không dùng
những ký
hiệu bên
ngoài chữ để
biểu thị bốn
thanh điệu,
mà dùng một
vài mẫu tự
Latin nằm
ngay trong
chữ. Đây là
một hệ thống
phiên âm
chính xác
nhưng khó
học khó nhớ
vì thế nó
cũng dừng
lại ở chức
năng phiên
âm mà thôi
chứ không
thể tiến xa
hơn như là
một văn tự
riêng biệt.
Khoảng năm
1930, tại
Liên Xô một
thứ Hán ngữ
Latin hóa
được chế tác
cho người
Trung Quốc
sống ở Liên
Xô. Nó được
gọi là
Latin thoại
拉丁話
và rồi được
phổ biến
nhanh chóng
tại Trung
Quốc, đặc
biệt là
những khu
vực do Cộng
Sản kiểm
soát. Chính
quyền Quốc
Dân Đảng vẫn
tiếp tục
giảng dạy
Hán ngữ phồn
thể. Tiếng
Quan Thoại
được chuẩn
hóa để trở
thành Quốc
Ngữ đồng
thời Latin
thoại được
chỉnh lý và
cải danh
thành Pinyin
(Bính Âm)
năm 1956.
Pinyin được
sử dụng khắp
nơi như
trong trường
học, chỗ
công cộng,
v.v... với
niềm hy vọng
của nhà cầm
quyền là nó
sẽ trở thành
một ngôn ngữ
hẳn hoi. Đầu
năm 1956,
Hội đồng
Chính phủ
Bắc Kinh đưa
ra một danh
sách gồm 515
Hán tự giản
thể, coi như
bước đầu của
một phương
án giản hóa
toàn diện.
Chính quyền
Đài Loan hết
sức khó chịu
thứ giản thể
tự này và
nghiêm cấm
các văn hóa
phẩm du nhập
từ Trung
Quốc vào Đài
Loan không
chỉ vì lý do
chính trị mà
còn vì e
ngại sự phổ
biến giản
thể tự.
Xét về mặt
ngữ học,
tiếng Quan
Thoại chỉ là
một phương
ngữ (a
regional
speech
dialect).
Cho dù được
chấp nhận
làm Quốc Ngữ
nhưng nó
chưa thể
giải quyết
những khó
khăn lâu đời
giữa khẩu
ngữ hằng
ngày với
ngôn ngữ văn
chương. Từ
khoảng thế
kỷ XII một
số tác phẩm
văn học chủ
yếu là tiểu
thuyết và ca
kịch đã được
viết bằng
một văn
phong bình
dân giản dị.
Giới nho sĩ
và quan chức
thường khinh
miệt (hoặc
giả vờ khinh
miệt) các
sản phẩm ấy
vì văn ngôn
文言
mới là ngôn
ngữ bắt buộc
trong giới
sĩ phu và
quan trường,
một ngôn ngữ
mà người
bình dân ít
học không
tài nào hiểu
được. Người
ta ngờ rằng
việc duy trì
sự khu biệt
giữa khẩu
ngữ bình dân
(bạch thoại
白話)
với văn ngôn
dường như là
một
phương thức
để bảo vệ
giai cấp
(a means of
class
protection)
mặc dầu họ
chẳng trưng
dẫn được
chứng cớ gì.
Mãi đến cuối
Đệ Nhất Thế
Chiến phong
trào cách
mạng văn học
xảy ra, kêu
gọi hãy lấy
tiểu thuyết
với văn
phong bình
dân giản dị
làm mực
thước và
khuyến khích
sử dụng bạch
thoại trong
việc viết
lách. Về sau
những người
Cộng Sản hết
sức ủng hộ
phong trào
này và cải
danh bạch
thoại thành
phổ thông
thoại
普通話
với giản
thể tự
簡体字
và dùng song
hành với
Pinyin.
Như vậy,
Pinyin có
một quá
trình phát
triển khá
dài, bắt đầu
từ Latin
thoại
-
một hệ thống
được chế tác
và phổ biến
ở vùng cực
Đông Liên Xô
khoảng năm
1930
-
rồi khoảng 4
năm sau được
chấp nhận ở
Trung Quốc
với tên
Tân văn tự
新文字.
Quốc Dân
Đảng phớt lờ
Pinyin,
nhưng Pinyin
hết sức phổ
biến ở vùng
Tây Bắc
Trung Quốc
do Cộng Sản
kiểm soát.
Năm 1952 một
ủy ban được
thành lập để
nghiên cứu
cải cách văn
tự. Đến năm
1958, Pinyin
trở thành hệ
thống phiên
âm chính
thức của
Trung Hoa
Nhân Dân
Cộng Hòa
Quốc.
SƠ LƯỢC CHỮ
GIẢN THỂ
1. Khái quát
Bên cạnh Hán
ngữ Latin
hóa là Hán
ngữ giản hóa
(simplified
Chinese
characters).
Sự giản hóa
(simplification)
có ưu điểm
giúp việc
viết chữ mau
hơn vì giản
lược số nét
bút của
những chữ
nhiều nét,
như chữ
long
龍
(16 nét)
giản thành
龙
(5 nét), chữ
dụ
籲
(32 nét)
giản thành
吁
(6 nét). Tuy
nhiên người
ta ngờ rằng
mục đích của
sự giản hóa
nhằm vào
phương diện
chính trị
hơn là
phương diện
ngữ học, bởi
vì nhiều vấn
đề ngữ học
đã nảy sinh
từ việc giản
hóa này.
Thực chất sự
giản hóa này
cũng chẳng
mới mẻ gì vì
tự ngàn xưa
người Trung
Quốc đã biết
cách giản
lược số nét
bút của chữ
Hán, và tạo
ra một thư
thể gọi là
thảo thư
草書
bao gồm
chương thảo
章草,
kim thảo
今草
và cuồng
thảo
狂草
với các đại
thư gia tiêu
biểu như
Trương Chi
張芝,
Trương Húc
張旭,
Hoài Tố
懷素
, và đặc
biệt là
thảo thánh
nhị vương
草聖二王
tức cha con
Vương Hi Chi
王羲之
và Vương
Hiến Chi
王獻之.
Thảo thư của
nhị Vương đã
trở thành
chuẩn mực
cho thế nhân
nghiên tập
kể từ đời
Đông Tấn
(317–420)
đến nay và
gọi là
chương thảo
章草.
Trương Húc
và Hoài Tố
được gọi là
cuồng
thảo nhị
tuyệt 狂草二絕
hay điên
Trương túy
Tố
顛張醉素
(Trương Húc
điên, Hoài
Tố say).
Nhưng thảo
thư chỉ là
một thư thể
mang tính
cách nghệ
thuật và mức
độ sử dụng
cũng chỉ
trong phạm
vi giao tiếp
thân quen
(informal
communication).
Hầu hết
trong công
văn chứng từ
người ta
không được
phép dùng
thảo thư, mà
phải dùng
khải thư
楷書
còn gọi chữ
chân
真.
Như vậy giản
thể tự hiện
đại và chữ
thảo truyền
thống có
những dị
biệt như
sau:
* Giản thể
tự được dùng
chính thức
và có tính
bắt buộc tại
Hoa Lục
trong mọi
giao dịch
giấy tờ,
công văn,
chứng từ,
trong học
đường, nơi
công cộng,
và trên các
phương tiện
truyền thông
đại chúng.
Từ xưa đến
nay thảo thư
không được
dùng với
cách thức
như trên, mà
chỉ dùng
trong thư từ
thân mật,
các tư liệu
cá nhân, và
chủ yếu là
trong các
tác phẩm thư
pháp. Hiện
nay không
phải người
Trung Quốc
nào cũng đọc
được chữ
thảo.
* Người
Trung Quốc
kế thừa
nguyên tắc
của chữ thảo
nhưng sáng
tạo ra chữ
giản thể gần
như khác hẳn
chữ thảo.
Tuy vậy ta
có thể thấy
một số nét
của giản thể
tự là vay
mượn ở chữ
thảo, như bộ
phận (讠)
bên trái chữ
ngữ
语
chính là một
thảo phù
草符
thay cho
ngôn
言,
túc
足,
thần
臣,
thất (sơ)
疋,
vân
云,
vong
亡
nhưng trong
chữ giản thể
nó chỉ thay
cho ngôn
言
mà thôi. Chữ
dữ
与
giản thể
chính là vay
mượn từ chữ
thảo của
dữ
與
phồn thể .
* Chữ giản
thể ước
chừng 1000
chữ nhưng
mỗi chữ Hán
đều có chữ
thảo riêng.
* Mỗi chữ
thảo cố gắng
gói gọn
trong một
nét, nhất là
cuồng thảo,
nhưng chữ
giản thể ít
nét nhất là
2 nét và có
5 chữ là:
xưởng
厂
(廠),
bặc
卜
(蔔),
nhi
儿
(兒)
, kỷ
几
(幾),
và liệu
了(膫).
2. Nguyên
tắc giản hóa
Hán tự
Muốn nhận
dạng giản
thể nhanh và
tương đối
chính xác,
ta cần nhớ
nguyên tắc
giản hóa như
sau:
Giản hóa dựa
trên sự đồng
âm:
Như
chữ lý
里
/lĭ/ (dặm)
phồn thể
được dùng để
giản hóa chữ
lý
裏
(ở trong)
trên cơ sở
đồng âm.
Tương tự,
chữ diện
面
/miàn/ (mặt)
phồn thể
cũng là giản
thể của
miến
麵;
chữ hậu
后
/hòu/ (hoàng
hậu) phồn
thể cũng là
giản thể của
hậu
後(phía
sau).
Giản hóa dựa
vào sự hội
ý:
Hội ý
會意
là một trong
sáu cách tạo
chữ (lục
thư
六書)
mà Hứa Thận
許慎
định nghĩa:
«Tỉ
loại hợp
nghị, dĩ
kiến chỉ
huy.»
比類合誼以見指撝
(so sánh
các loại cho
hợp nhau mà
chỉ ra ý
nghĩa).
Như chữ
chiêm
占
gồm khẩu
口
(miệng)
và
bốc
卜
(bói), hợp
nghĩa là bói
xem lành dữ.
Dựa vào sự
hội ý, chữ
bảo
寶
nghĩa là
quý báu
được giản
hóa thành
宝,
gồm miên
宀
và ngọc
玉,
ngụ ý trong
nhà có ngọc
tức là có
của báu hay
sự quý báu.
Giản hóa
dựa vào sự
hài thanh:
Hài thanh
諧聲
còn gọi là
hình thanh
形聲
cũng là một
cách khác
của lục thư
mà Hứa Thận
định nghĩa
là:
«Dĩ
sự vi danh,
thủ thí
tương thành.»
以事為名取譬相成
(lấy sự
làm tên, lấy
thí dụ mà
thành).
Chữ cấu tạo
bằng hình
thanh hay
hài thanh
gồm một bộ
phận chỉ
nghĩa và một
bộ phận chỉ
âm, như chữ
mộc
沐
/mù/ (tắm
gội) lấy
thủy
氵
chỉ nghĩa và
mộc
木
/mù/
chỉ
âm. Chữ
ưu
優
/yōu/
(ưu
tú) có bộ
phận chỉ âm
là ưu
憂
/yōu/ (ưu
sầu) và đồng
âm với
vưu
尤.
Ưu
憂
giản hóa
thành
忧
nên
優
giản hóa
thành
优.
Giản hóa
bằng cách bỏ
bớt một số
nét:
Như điện
電
(điện) giản
thành
电,
khai
開
(mở ra) giản
thành
开.
Vân
雲
(mây) giản
thành
云.
Chữ có những
thành phần
giống nhau
như trùng
蟲
(côn trùng)
giản thành
虫,
ngoại trừ
chữ tinh
晶,
sâm
森,
phẩm
品,
v.v...
Giản hóa
bằng cách
thay một
nhóm nét
bằng một vài
nét:
Như đoạn
斷
(cắt đứt),
biên
邊
(biên giới),
loạn
亂
(hỗn loạn)
và lao
勞
(lao động)
giản thành
断,
边,
乱,
và
劳.
Giản hóa
bằng cách
tạo một phù
hiệu thay
cho nhiều
nhóm nét
khác nhau:
Như phù hiệu
又
thay cho bộ
phận bên
trái của các
chữ
鄧
(đặng:
họ Đặng),
雞
(kê:
gà),
戲
(hí:
giỡn),
難
(nan:
khó),
勤
(khuyến:
khuyên bảo),
對
(đối:
đúng, đối
xứng) để có
các giản thể
tự
邓,
鸡,
戏,
难,
劝,
对.
Phù hiệu
又
còn thay
鳥
(điểu:
chim) và
堇
(cẩn:
rau cần)
trong chữ
phụng
鳳
(chim
phượng) và
cận
僅
(chỉ có,
nhưng) để
giản thành
凤
và
仅.
Giản hóa
bằng cách
tạo hẳn chữ
mới thật ít
nét:
Như linh
靈
(linh
thiêng) và
thể
體
(hình thể)
bị thay thế
bằng
灵
và
体.
3. Sự bất
toàn của chữ
Giản thể
Chẳng có một
hệ thống văn
tự nào mà
không có sự
bất toàn.
Cho nên giản
thể tự vẫn
không tránh
khỏi sự bất
toàn dù rằng
số lượng chữ
chẳng có bao
nhiêu. Sự
giản hóa nảy
sinh những
khiếm khuyết
và sự thiếu
nhất quán
của giản thể
tự:
Vấn đề giả
tá:
Giả
tá là rắc
rối cố hữu
của Hán tự
mà Hứa Thận
định nghĩa:
«Giả
tá giả, bản
vô kỳ tự, y
thanh thác
sự.»
假借本無其字依
聲托事
(Giả tá là
vốn chưa có
chữ nhưng
dựa vào âm
thanh để gởi
sự). Học giả
đời Thanh là
Du Việt
俞樾
từng cảnh
giác rằng:
«Độc
cổ nhân thư,
bất ngoại hồ
chính cú
đậu, thẩm tự
nghĩa, thông
cổ văn giả
tá. Nhi tam
giả chi
trung, thông
giả tá vưu
yếu.»
讀古人書不外乎正句讀審字義通古
文假借而三者之中通假借尤要
(Đọc sách
người xưa
[cần chú ý]
không ngoài
[ba điều]:
Đọc đúng
[phạm vi]
câu văn [tức
là ngắt câu
cho đúng bởi
cổ văn viết
không chấm
câu, gọi là
bạch văn
白文],
tra xét đúng
nghĩa chữ,
và tinh
thông chữ
giả tá trong
cổ văn.
Trong ba
điều ấy,
tinh thông
giả tá là
tối quan
trọng).
Trong cổ
tịch, đặc
biệt là cổ
tịch thời
Tiên Tần
Lưỡng Hán,
hiện tượng
giả tá xuất
hiện đầy
rẫy. Không
thông thạo
giả tá thì
người đọc sẽ
hiểu sai tự
nghĩa.
Kinh Dịch
nơi quẻ Càn
có câu
現龍在田
mà các nhà
chú giải đều
đồng ý chữ
現
hiện
phải đọc là
見
kiến.
現
là giả tá tự
của
見.
Bản nghĩa
của
見
là nhìn
thấy và
nó là giả tá
nghĩa của
現.
Bản kinh
Dịch hiện
hành còn ít
chữ giả tá
so với bản
Bạch Thư
Chu Dịch
帛書周易
(Chu Dịch
viết trên
lụa) mà
người ta
khai quật
được ở ngôi
Hán mộ số 3
tại Mã Vương
Đôi
馬王堆
thuộc Trường
Sa
長沙
(tỉnh Hồ Nam
湖南,
Trung Quốc)
năm
1972-1974.
Trong
Luận Ngữ
và Mạnh
Tử ta
còn thấy
說
là giả tá tự
của
悅
và
由
là giả tá tự
của
猶.
Sơ lược về
giả tá như
trên để ta
thấy rằng
việc giản
hóa tự trên
cơ sở đồng
âm đã sinh
sôi thêm
hiện tượng
giả tá trong
Hán ngữ hiện
đại. Rõ
ràng,
后
(hậu:
hoàng hậu),
面
(diện:
mặt),
里
(lý:
dặm) là giả
tá tự của
後
(hậu:
sau),
麵
(miến:
bánh mì,
mì),
裏(lý:
bên trong).
Xét về mặt
ngữ nghĩa
học
(semantics)
mỗi chữ (tự
字)
có ba yếu tố
hình
形
âm
音
nghĩa
義
để khu biệt
nhau. Thực
chất có chữ
lại đa hình,
đa âm, và đa
nghĩa vốn dĩ
gây rối loạn
cho người
học thế mà
sự giả tá ở
giản thể tự
lại làm nhoè
đi thêm cái
ranh giới
hình và
nghĩa của
chữ khiến
người học
càng thêm
loạn tâm rối
trí.
Thiếu nhất
quán:
Giản
thể tự bộc
lộ sự thiếu
nhất quán
như sau:
* Nói chung
ta có thể
phỏng đoán
chữ giản thể
chưa biết
nhờ một số
chữ giản thể
đã biết. Như
貝
(bối),
見
(kiến),
頁
(hiệt),
門
(môn),
車
(xa),
馬
(mã),
鳥
(điểu),
thường giản
thành
贝,
见,
页,
门,
车,
马,
鸟
cho dù đứng
riêng thành
chữ hoặc là
bộ phận của
một chữ. Ta
đã biết
又
thay cho một
bộ phận của
các chữ
鄧
(đặng),
雞
(kê),
戲
(hí),
難
(nan),
勤
(khuyến),
對
(đối)
để có các
giản thể tự
邓,
鸡,
戏,
难,
劝,
对.
Nhưng
又
lại không
dùng thay
cho
登
trong những
chữ
凳,
澄,
磴,
瞪,
蹬,
簦,
鐙,
đặc biệt
燈
thì giản
thành
灯.
Yếu tố
又
còn thay
堇
trong chữ
僅
để giản
thành
仅
trừ các chữ
謹,
蓳,
瑾,
饉,
槿,
廑,
勤,
覲,
斳,
螼.
* Bộ phận
chỉ âm
咼
giản thành
寸
hoặc
呙
hoặc giữ
nguyên. Các
chữ
過,
撾
giản thành
过,
挝;
các chữ
渦,
窩,
蝸,
萵,
禍
giản thành
涡,
窝,
蜗,
莴,
祸;
nhưng
騧,
緺
không giản
gì cả.
* Ngược lại,
một ký hiệu
có thể thay
cho nhiều
nhóm nét như
bộ phận bên
trong các
chữ
區,
風,
岡,
鹵
bị thay bằng
ký hiệuㄨ
để có các
chữ giản thể
là
区,
风,
冈,
卤.
* Bộ phận
chỉ âm /o/
hay /u/ ở
bên phải của
các chữ
補,
僕,
撲
bị giản
thành
卜
để được
补,
仆,
扑
vậy mà bộ
phận chỉ âm
trong các
chữ
匍,
埔,
蒲,
濮,
璞
thì không bị
giản.
* Chữ
親
giản thành
亲
nhưng chữ
襯
giản thành
衬.
* Các chữ
陽,
楊,
揚,
湯,
傷
có bộ phận
chỉ âm (ở
bên phải)
giống nhau
nhưng giản
khác nhau:
阳,
杨,
扬,
汤,
伤.
Vấn đề bộ
thủ:
Bộ thủ là
một yếu tố
quan trọng
của Hán tự,
giúp việc
tra cứu
tương đối dễ
dàng vì
nhiều chữ
được gom
thành nhóm
có chung một
bộ thủ. Từ
đời Hán, Hứa
Thận phân
loại chữ Hán
thành 540
nhóm hay còn
gọi là 540
bộ. Thí dụ,
những chữ
論
(luận),
謂
(vị),
語
(ngữ)
đều liên
quan tới
ngôn ngữ,
lời nói, đàm
luận v.v...
nên được xếp
chung vào
một bộ, lấy
言
(ngôn:
nói) làm bộ
thủ. Đến đời
Minh, Mai
Ưng Tộ
梅膺祚
xếp gọn lại
còn 214 bộ
thủ và được
dùng làm
chuẩn cho
đến nay.
Phần lớn các
bộ thủ của
214 bộ đều
là chữ tượng
hình và hầu
như dùng làm
bộ phận chỉ
ý nghĩa
trong các
chữ theo cấu
tạo hình
thanh (hay
hài thanh).
Mỗi chữ hình
thanh gồm bộ
phận chỉ ý
nghĩa (hay
nghĩa phù
義符)
và bộ phận
chỉ âm (hay
âm phù
音符).
Đa số Hán tự
là chữ hình
thanh, nên
tinh thông
bộ thủ là
một điều
kiện thuận
lợi tìm hiểu
hình-âm-nghĩa
của Hán tự.
Tuy nhiên
214 bộ
truyền thống
này cũng có
những điều
bất hợp lý,
và vài hệ
thống bộ thủ
cải cách đã
ra đời chẳng
hạn 132 bộ
thủ của
Lục Y Ngôn
陸衣言
và Giang
Trọng Quỳnh
江仲瓊
phân loại
Hán tự theo
nét hay nhóm
nét đầu tiên
nên sự tra
cứu rất
nhanh chóng.
Sự giản hóa
Hán tự gây
thêm rắc rối
về bộ thủ:
* Bộ thủ bị
thay đổi:
寫
(tả:
viết; bộ
宀)
giản thành
写
(bộ
冖)
護
(hộ:
giúp; bộ
言)
giản thành
护
(bộ
扌).
* Bộ thủ bị
bỏ bớt:
電
(điện:
điện lực)
giản thành
电;
殺
(sát:
giết) giản
thành
杀;
術
(thuật:
cách thức)
giản thành
术.
* Bộ thủ
cùng với vài
nét khác bị
bỏ bớt:
聲
(thanh:
âm thanh)
giản thành
声;
從
(tòng:
theo) giản
thành
从;
滅
(diệt:
tiêu diệt)
giản thành
灭.
* Bộ thủ mất
vì trọn chữ
bị thay
trọn:
備
(bị:
đầy đủ; bộ亻)
giản thành
备;
農
(nông:
nghề nông;
bộ
辰)
giản thành
农;
歲
(tuế:
năm; bộ
止)
giản thành
岁;
買
(mãi:
mua; bộ
貝)
giản thành
买;
關
(quan:
quan hệ; bộ
門)
giản thành
关.
Vậy thì sự
giản hóa đã
phớt lờ bộ
thủ, nhưng
hậu quả là
người ta
lúng túng
khi tra một
chữ mới mà
không biết
âm và nghĩa.
Hầu hết các
tự điển hay
từ điển Hán
ngữ tại Hoa
Lục đều xếp
các mục tự
(entries)
theo âm
pinyin. Nếu
không biết
âm pinyin
thì người
tra đành
chịu thua.
Để gỡ rối,
người soạn
tự điển
hay từ điển
phải đính
thêm các
bảng tra
theo tổng số
nét, hoặc
tra theo nét
bút đầu
tiên, và sau
cùng phải
miễn cưỡng
kèm thêm
bảng tra
theo bộ thủ
khoảng 189
bộ và rất
khác với
bảng tra 214
bộ truyền
thống. Ngoài
ra việc đếm
nét của bộ
thủ dễ bị
lầm, như bộ
thảo
艹
cũ đếm là 4
nét thì bộ
thảo
艹
mới kể là 3
nét. Rồi tự
điển hay từ
điển cũng
phải tra
được cả giản
thể lẫn phồn
thể nên
diệp (lá
cây) giản
thể
叶
thì cho vào
bộ khẩu
口
còn diệp
phồn thể
葉
thì cho vào
bộ thảo
艹.
Nói gọn,
việc giản
hóa Hán tự
có cả ưu lẫn
khuyết.
Nhưng con
người còn
chưa hoàn
hảo được thì
một sản phẩm
do con người
tạo tác cũng
chỉ là
hướng về sự
hoàn hảo
mà thôi.
Thói quen và
sự nhẫn nại
sẽ giúp ta
tinh thông
hai thể giản
và
phồn.
LƯỢC SỬ CHỮ
GIẢN THỂ
Sự giản hóa
(simplification)
chữ
Hán do Nhà
nước Trung
Quốc tích
cực đề ra
ngay từ khi
cầm quyền
năm 1949 và
chính thức
công bố
Hán Tự Giản
Hóa Phương
Án
汉字简化方案
vào tháng
giêng năm
1956.
Thực tế,
giản hóa Hán
tự là một
quá trình
tiệm tiến từ
lâu đời.
Những chữ
Hán giản hóa
thường gọi
là phá
thể
破体,
tiểu tả
小写,
giản thể tự
简体字,
giản dị tự
简易字,
giản tự
简字,
thủ tả tự
手写字,
tục thể tự
俗体字,
v.v... đối
ứng với chữ
nguyên thể
đầy đủ nét
là phồn
thể tự
繁体字.
Chữ giản thể
đã xuất hiện
trước thời
Nam Bắc
Triều
南北朝
(420-581);
đến đời
Đường
唐
(618-907) và
Tống
宋
(960-1279)
thì dần dần
tăng thêm và
phần lớn lưu
hành trong
dân gian.
Trong các
tác phẩm thư
pháp cổ đại,
những bia
khắc, ván
khắc in khai
quật được,
và trên mặt
các chuông
đồng cổ đại
người ta có
thể thấy lác
đác một vài
chữ giản thể
thông thường
như: sư
师,
vạn
万,
quốc
国,
vân
云,
lễ
礼,
khí
气,
môn
门,
vi
为,
bảo
宝,
la
罗,
lưu
刘,
hoan
欢,
nan
难,
tề
齐,
đương (đang)当,
hội
会,
phong
风,
loạn
乱,
biện
办,
thính
听,
tòng
从,
chúng
众,
vô
无,
v.v...
Như vậy từ
giáp cốt
văn
甲骨文
cho đến chữ
khải
楷
mà ngày nay
chúng ta
đang dùng,
xu hướng
diễn biến
của Hán tự
hơn 3000 năm
qua là từ
phức tạp đến
giản dị.
Bảng chữ
giản thể
hiện hành do
Nhà nước
Trung Quốc
quy định
chẳng qua là
kết quả của
sự hệ thống,
chỉnh lý và
bổ sung các
chữ giản thể
đã lưu hành
từ lâu trong
dân gian.
Những năm
Dân Quốc đầu
tiên, một số
học giả như
Lục Phí Quỳ
陆费逵,
Tiền Huyền
Đồng
钱玄同,
Lục Cơ
陆基,
Lê Cẩm Hy
黎锦熙,
Dương Thụ
Đạt
杨树达,
Trần Hạc Cầm
陈鹤琴,
Hồng Thâm
洪深,
Trần Vọng
Đạo
陈望道,
v.v... đã đề
xướng dùng
chữ giản thể
vì sự tiện
lợi của nó.
Tháng 8 năm
1935, Bộ
Giáo Dục của
chính phủ
Quốc Dân
Đảng (国民党政府教育部)
công bố một
bảng kê các
chữ Hán giản
thể gọi là
Đệ nhất
phê giản thể
tự biểu
第一批简体字表
gồm 324 chữ.
Đây là lần
thứ nhất chữ
giản thể
được chính
thức ban
hành. Nhưng
giới văn
nhân học giả
cực lực phản
đối chữ giản
thể cho nên
tháng 2 năm
1936 bảng kê
chữ giản thể
bị phế bỏ
sau 6 tháng
ban hành.
Tuy nhiên
trong dân
gian nhiều
người vẫn
thích dùng
chữ giản thể
để viết chữ
cho nhanh.
Trong thời
chiến tranh
kháng Nhật,
khu vực giải
phóng do
Đảng Cộng
Sản Trung
Quốc lãnh
đạo, chữ
giản thể
được lưu
hành và
nhiều chữ
mới được tạo
thêm.
Đến năm
1949, khi
nước Cộng
Hoà Nhân Dân
Trung Hoa
thành lập,
Đảng và
chính phủ
càng coi
trọng công
tác giản hóa
Hán tự, nên
đề ra phương
án giản hóa
chữ Hán gọi
là Hán tự
giản hóa
phương án
汉字简化方案.
Năm 1950, Ty
Giáo Dục Xã
Hội thuộc Bộ
Giáo Dục của
Chính Phủ
Nhân Dân
Trung Ương (中央人民政府教育部社会
教育司)
biên soạn
Thường dụng
giản thể tự
đăng ký biểu
常用简体字登记表
gồm 555 chữ
Hán giản thể
thông dụng.
Sau khi
trưng cầu
dân ý, năm
1951 chính
phủ ban hành
một bảng kê
các chữ Hán
giản thể gọi
là Đệ
nhất phê
giản thể tự
biểu
第一批简体字表
gồm 555 chữ
(khác với
bảng kê
trước đây
vào năm 1935
của Bộ Giáo
Dục thuộc
chính phủ
Quốc Dân
Đảng, chỉ có
324 chữ).
Ngày 5 tháng
2 năm 1952,
Trung
Quốc văn tự
cải cách
nghiên cứu
ủy viên hội
中国文字改革研究委员会
được thành
lập. Trên cơ
sở Đệ
nhất phê
giản thể tự
biểu
第一批简体字表
, tổ chức
này đã nhiều
lần thảo
luận và tu
sửa, để rồi
đến năm 1954
một phương
án dự thảo
được đưa ra
gọi là
Hán tự giản
hóa phương
án (thảo án)
汉字简化方案(草案)
bao gồm ba
điểm: 1. Dự
thảo 798 chữ
giản thể; 2,
Đề nghị phế
bỏ 400 chữ
dị thể
异体字;
3. Dự thảo
giản hóa các
chữ Hán
thiên bàng
偏旁
(tức là chữ
Hán làm bộ
phận đứng
một phía của
chữ).
Tháng 12 năm
1954,
Trung Quốc
văn tự cải
cách ủy viên
hội
中国文字改革委员会
(trực thuộc
Quốc Vụ
Viện
国务院)
được thành
lập để
chuyên trách
công tác
giản hóa Hán
tự (tổ chức
này đến ngày
16 tháng 12
năm 1985 thì
đổi tên là
Quốc gia
ngữ ngôn văn
tự công tác
ủy viên hội
国家语言文字工作委员会).
Ngày 13
tháng 7 năm
1955,
Quốc Vụ Viện
thành lập
Hán tự giản
hóa phương
án thẩm đính
ủy viên hội
汉字简化方案审订委员会
để đánh giá
phương án
giản hóa chữ
Hán. Tháng 9
năm 1955,
Trung Quốc
văn tự cải
cách ủy viên
hội
中国文字改革委员会
đề xuất một
bản tu chính
thảo án,
trong ba
điểm nêu ra
trước đây
thì bỏ hai
điểm sau,
còn điểm thứ
nhất (là đề
nghị 798 chữ
Hán giản
thể) nay rút
xuống còn
512 chữ,
ngoài ra
thêm 56 chữ
Hán thiên
bàng
偏旁.
Từ ngày 15
đến 23 tháng
10 năm 1955,
Trung
Quốc văn tự
cải cách ủy
viên hội
và Bộ
Giáo Dục
liên kết mở
ra hội nghị
toàn quốc về
cải cách văn
tự (gọi là
Toàn quốc
văn tự cải
cách hội
nghị
全国文字改革会议)
để thảo luận
và tu chính
thảo án.
Kết quả là
512 chữ giản
thể tăng lên
là 555 chữ
và 56 chữ
Hán thiên
bàng
偏旁
giảm xuống
còn 54 chữ.
Sau khi có
được sự thẩm
định và hiệu
đính của
Hán tự giản
hóa phương
án thẩm đính
ủy viên hội,
ngày 28
tháng 01 năm
1956 Quốc Vụ
Viện đã mở
hội nghị
khoáng đại
lần thứ 23
để thông qua
Hán tự giản
hóa phương
án. Ngày
31 tháng 01
năm 1956,
Nhân Dân
Nhật Báo
đăng nghị
quyết của
Quốc Vụ Viện
về việc công
bố Hán tự
giản hóa
phương án
(nhan đề bài
báo là:
Quan vu công
bố
«Hán
tự giản hóa
phương án»
đích quyết
nghị
关于公布
«汉字简化方案的»
决议)
đồng thời
đăng Hán
tự giản hóa
phương án
汉字简化方案
gồm 555 chữ
giản thể và
56 chữ Hán
thiên bàng.
Tháng 5 năm
1964,
Trung Quốc
văn tự cải
cách ủy viên
hội xuất
bản Giản
hóa tự tổng
biểu
简化字总表,
gồm ba bảng
biểu: Biểu 1
gồm 352 chữ
giản hóa
không làm bộ
phận
thiên bàng
cho chữ
khác; biểu 2
gồm 132 chữ
hoặc đứng
riêng hoặc
làm bộ phận
thiên
bàng cho
chữ khác và
14 chữ chỉ
làm thiên
bàng;
bảng 3 gồm
1754 chữ
khai triển
từ bảng 2.
Như vậy
tổng biểu
có 2238 chữ
giản thể.
Trong thời
Cách mạng
Văn hóa
(thường gọi
là Văn
Cách
文革),
Trung
Quốc văn tự
cải cách ủy
viên hội
buộc phải
đình chỉ,
đến năm 1972
mới khôi
phục công
tác. Tháng 5
năm 1975, tổ
chức này đề
ra một
thảo án
mới gọi là
Đệ nhị
thứ Hán tự
giản hóa
phương án
(thảo án)
第二次汉字简化方案(草案),
gởi cho Quốc
Vụ Viện thẩm
duyệt. Sau
đó, ngày 20
tháng 5 năm
1977, tổ
chức này lại
gởi tiếp một
báo cáo để
xin ý kiến
nói về thảo
án trên,
nhan đề:
Quan vu
«đệ
nhị thứ Hán
tự giản hóa
phương án
(thảo án)»
đích thỉnh
thị báo cáo
关于
«第二次汉字简化方案(草案)»
的请示报告.
Ngày 31
tháng 10 năm
1977, Quốc
Vụ Viện chỉ
đạo cho đăng
tải đệ
nhị thứ Hán
tự phương án
(thảo án)
này trên các
nhật báo của
tỉnh, thành,
khu tự trị
để trưng cầu
ý kiến của
quảng đại
quần chúng,
của các giới
công, nông,
binh và nhân
sĩ. Nhưng
thảo án 2
này không
được nghiên
cứu chu đáo
và do đó bị
phản đối
kịch liệt.
Thí dụ: Chữ
vũ
舞
giản thành
午
(ngọ),
khiến vũ
hội
舞会
bị hiểu nhầm
là ngọ
hội
午会
(hội nghị
lúc trưa)
bởi vì cả
hai đều pháy
ấm là
/wǔhùi/; chữ
linh
齡
(trong
niên linh
年齡:
tuổi tác)
giản thành
令
(lệnh),
khiến
quân linh
軍齡
(tuổi lính)
/jūnlíng/ dễ
bị hiểu nhầm
là quân
lệnh
军令
/jūnlìng/,
chữ bang
幫
(trong
bang trợ
幫助,
bang phái
幫派)
giản thành
bang
邦
(đồng nghĩa
với quốc
國);
ba chữ
phó
副,
phó
傅,
phụ
腐
(trong
phó thực
副食,
phó nghiệp
副業,
phó chức
副職,
sư phó
師傅,
đậu phụ
豆腐)
đều giản
thành phó
付;
chữ
đình
停
(trong
đình chỉ
停止)
giản thành
仃
(đinh),
nhầm với
đinh
trong
linh đinh
伶仃;
v.v...
Thảo án 2
gây thêm hỗn
loạn trong
chữ Hán. Do
đó ngày 4
tháng 3 năm
1978, các
học giả
Vương Lực
王力,
Hồ Dũ Chi
胡愈之,
Chu Hữu
Quang
周有光
và 20 học
giả nổi
tiếng khác
đã yêu cầu
Quốc Vụ Viện
phế bỏ thảo
án 2. Mãi
đến ngày 24
tháng 6 năm
1986, Quốc
Vụ Viện ra
thông tri
phế bỏ thảo
án 2.
Sau khi thảo
án 2 bị phế
bỏ, chữ giản
thể vẫn bị
dùng hỗn
loạn, ngoài
những chữ
được quy
định, dân
gian còn tự
sáng tạo
thêm chữ mới
rất tùy
tiện. Cho
nên vào các
ngày 27
tháng 3, 01
và 10 tháng
4 năm 1978,
Quốc gia ngữ
ngôn văn tự
công tác ủy
viên hội
liên tiếp
phát ba
thông tri:
1/. thông
tri quy định
viết các địa
danh; 2/.
thông tri
quy định sử
dụng chữ Hán
trên truyền
hình, radio,
trong điện
ảnh; 3/.
thông tri
quy định sử
dụng chữ Hán
trên các
bảng hiệu
tiệm buôn,
bảng hiệu
công ty,
thương tiêu,
bao bì sản
phẩm, quảng
cáo.
Ngày 24
tháng 6 năm
1986, Quốc
Vụ Viện ra
thông tri
yêu cầu các
nhật báo lớn
như Nhân Dân
Nhật Báo
人民日报,
Quang Minh
Nhật Báo
光明日报
đăng lại
Giản hóa tự
tổng biểu
简化字总表.
Ngày 10
tháng 10 năm
1986,
Quốc gia ngữ
ngôn văn tự
công tác ủy
viên hội
điều chỉnh
lại Giản
hóa tự tổng
biểu năm
1964, và
tổng biểu
mới gồm
có 2235 chữ.
Ngày 26
tháng 01 năm
1988,
Quốc gia ngữ
ngôn văn tự
công tác ủy
viên hội
và Quốc
gia giáo dục
ủy viên hội
công bố
Hiện đại Hán
ngữ thường
dụng tự biểu
现代汉语常用字表
gồm 3500 chữ
Hán thường
dùng hiện
nay, trong
đó có 1116
chữ giản hóa
(chiếm 31.9
%). ●
|