Nguyên
tác: "The Nobel Prize in Physics
1901-2000" cuả
Erik B. Karlsson
Dạ Trạch dịch
thuật và hiệu đính
Vật lý là gì?
Vật lý được coi là một
môn khoa học cơ bản nhất của khoa học tự
nhiên. Vật lý nghiên cứu những thành phần cơ
bản nhất của vật chất và các tương tác giữa
chúng cũng như nghiên cứu về các nguyên tử
và việc tạo thành phân tử và chất rắn. Vật
lý cố gắng đưa ra những mô tả thống nhất về
tính chất của vật chất và bức xạ, bao quát
rất nhiều loại hiện tượng. Trong một số ứng
dụng, vật lý rất gần với hóa học cổ điển và
trong một số ứng dụng khác nó thường liên
quan chặt chẽ đến các đối tượng nghiên cứu
của các nhà thiên văn học. Các xu hướng của
vật lý hiện nay đang hướng đến vi sinh học.
Mặc dù hóa học và thiên
văn học là các ngành khoa học hoàn toàn độc
lập, nhưng cả hai đều coi vật lý là cơ sở
trong nghiên cứu các lĩnh vực, khái niệm và
công cụ của các vấn đề khoa học. Phân biệt
cái nào là vật lý và hóa học trong một số
lĩnh vực thường là rất khó. Điều này cũng
được minh chứng vài lần trong lịch sử của
các giải Nobel. Dưới đây sẽ nhắc đến một số
giải Nobel về hóa học đặc biệt là những giải
có liên hệ rất chặt chẽ đến các công trình
mà những người đoạt giải Nobel vật lý thực
hiện. Đối với thiên văn học, tình huống lại
khác vì không có giải Nobel cho thiên văn
học nên ngay từ đầu, những phát kiến của
thiên văn học được trao giải Nobel về vật
lý.
Từ vật lý cổ điển đến
vật lý lượng tử
Năm 1901, khi giải Nobel
đầu tiên được trao thì các lĩnh vực của vật
lý cổ điển đã dựa trên một nền tảng vững
chắc do các nhà vật lý và hóa học vĩ đại của
thế kỉ thứ 19 tạo nên. Hamilton đã đưa ra
những công thức mô tả động học của vật rắn
từ những năm 1830. Carnot, Joule, Kelvin và
Gibbs đã phát triển nhiệt động học tới mức
cực kì hoàn thiện trong nửa cuối của thế kỉ
đó.
Các phương trình nổi
tiếng của Maxwell đã được chấp nhận như là
một mô tả tổng quát về các hiện tượng điện
từ và có thể ứng dụng trong bức xạ quang học
và sóng radio lúc bấy giờ mới được Hetz phát
hiện.
Tất cả mọi thứ, bao gồm
cả các hiện tượng sóng, có vẻ như là rất phù
hợp với bức tranh vật lý được dựng trên
chuyển động cơ học của các thành phần của
vật chất tự thể hiện trong các hiện tượng vĩ
mô khác nhau. Một số nhữung nhà quan sát
cuối thể kỉ 19 cho rằng, những việc cho các
nhà vật lý làm tiếp theo là giải quyết những
vấn đền nhỏ trong một vấn đề lớn đã được xây
dựng gần hết.
Tuy vậy, sự thỏa mãn về
bức tranh vật lý đó kéo dài không được bao
lâu. Thời điểm bước sang thế kỉ mới là thời
điểm quan sát các hiện tượng mà vật lý lúc
bấy giờ không lý giải được và những ý tưởng
cực mới về cơ sở của vật lý lý thuyết được
đưa ra. Chúng ta cần nhìn lại một sự trùng
hợp lịch sử mà có thể ngay cả chính Alfred
Nobel cũng không thấy trước được, đó là việc
trao giải thưởng Nobel đã bắt đầu đúng lúc
để có thể ghi công những đóng góp nổi bật mở
ra thời đại mới của vật lý vào giai đoạn đó.
Một trong những hiện
tượng không giải thích được của vài năm cuối
cùng của thế kỉ 19 đó là việc
Wilhelm Conrad Rontgen, người
được trao giải Nobel vật lý đầu tiên (1901)
phát hiện ra tia X vào năm 1895. Lại nữa,
năm 1896
Antoine Henri Becquerel phát hiện
ra hiện tượng phóng xạ và hai vợ chồng nhà
bác học
Marie và Pierre Curie tiếp tục
nghiên cứu bản chất của hiện tượng này. Lúc
bấy giờ, người ta chưa hiểu nguồn gốc của
tia X, nhưng người ta nhận ra rằng sự tồn
tại của hiện tượng đó che dấu một thế giới
các hiện tượng mới (mặc dù lúc đầu người ta
chưa thấy những ứng dụng thực tiễn trong
việc chẩn đoán bệnh của tia X). Nhờ công
trình về hiện tượng phóng xạ, Becquerel vợ
chồng Curie được trao giải Nobel năm 1903
(một nửa giải cho Becquerel và một nửa cho
vợ chồng Curie). Cùng với công trình của
Ernest Rutherford (người đạt giải
Nobel về hóa học năm 1908) người ta hiểu
rằng thực ra nguyên tử bao gồm một hạt nhân
rất nhỏ chứ không phải là một phần tử không
có cấu trúc như người ta từng nghĩ như trước
đây. Người ta còn thấy một số hạt nhân
nguyên tử lại không bền, chúng có thể phát
ra các bức xạ anpha, betha và gamma. Đó là
cuộc cách mạng lúc bấy giờ, cùng với nhiều
công trình vật lý khác, con người đã vẽ ra
những bức tranh đầu tiên về cấu trúc nguyên
tử.
Năm 1897, Joseph J.
Thomson phát hiện các tia phát ra từ ca-tốt
trong một ống chân không là những hạt có
mang điện tích. Ông đã chứng minh rằng, các
tia này gồm những hạt rời rạc mà sau này
chúng ta gọi là các hạt điện tử. Ông đã đo
tỉ số giữa khối lượng của hạt và điện tích
(âm) của hạt đó và thấy rằng giá trị đó chỉ
bằng một phần rất nhỏ so với giá trị dự đoán
của các nguyên tử mang điện. Và ngay sau đó
người ta thấy rằng các hạt có khối lượng nhỏ
bé mang điện tích âm đó phải là những viên
gạch cùng với hạt nhân mang điện tích dương
đã tạo nên tất cả các loại nguyên tử.
Thomson nhận giải Nobel vào năm 1906. Trước
đó một năm (1905), Phillip E.A. von Lenard
đã làm sáng tỏ rất nhiều tính chất thú vị
của những tia phát ra từ ca-tốt như là khả
năng đi sâu vào những tấm kim loại và tạo ra
huỳnh quang. Sau đó, vào năm 1912, Robert A.
Millikan lần đầu tiên đo chính xác điện tích
của điện tử bằng phương pháp giọt dầu
(oil-drop), và điều này dẫn ông đến giải
Nobel năm 1923. Millikan cũng được trao giải
cho những công trình về hiệu ứng quang điện.
Vào đầu thế kỉ 20, các
phương trình của Maxwell đã có mặt được vài
chục thập kỉ, nhưng rất nhiều câu hỏi vẫn
chưa được giải đáp: môi trường nào là môi
trường trung gian dẫn chuyền sóng điện từ
(trong đó có cả ánh sáng) và các hạt tải
điện có phải là nguyên nhân của sự phát xạ
ánh sáng hay không? Albert A. Michelson đã
phát triển một phương pháp giao thoa, theo
phương pháp này thì khoảng cách giữa hai vật
thể có thể được đo bằng số các bước sóng ánh
sáng (hoặc là những phần nhỏ của chúng).
Điều này làm cho việc xác định chiều dài
chính xác hơn trước đó rất nhiều. Rất nhiều
năm sau, Văn phòng đo lường quốc tế (Bureau
International de Poids et Mesures) ở Paris
đã định nghĩa đơn vị mét trên cơ sở số các
bước sóng của một bức xạ đặc biệt thay cho
định nghĩa trước đây là chiều dài của một
tấm platin. Dùng chiếc giao thoa kế đó,
Michelson và W. Morley đã tiến hành thí một
nghiệm nổi tiếng, thí nghiệm đó kết luận
rằng vận tốc của ánh sáng không phụ thuộc
vào chuyển động tương đối của nguồn sáng và
người quan sát. Thí nghiệm này bác bỏ giả
thuyết trước đó coi ê-te (ether) là môi
trường truyền ánh sáng. Michelson nhận giải
thưởng Nobel năm 1907.
Các cơ chế phát xạ ánh
sáng bởi các hạt tải điện đã được Hendrik A.
Lorentz nghiên cứu. Ông cũng là người đầu
tiên áp dụng các phương trình của Maxwell
vào việc dẫn điện trong vật chất. Lý thuyết
của ông có thể được áp dụng vào bức xạ gây
ra bởi dao động giữa các nguyên tử, và vào
bối cảnh đó, lý tuyết có thể giải thích một
thí nghiệm cực kì quan trọng. Vào năm 1896,
Pieter Zeeman khi nghiên cứu về các hiệu ứng
điện từ của ánh sáng đã tìm ra một hiện
tượng quan trọng, đó là vạch phổ của Natri
khi bị đốt cháy trong một từ trường mạnh bị
tách thành nhiều vạch. Hiện tượng này có thể
được giải thích rất chi tiết bằng lý thuyết
của Lorentz khi lý thuyết này được áp dụng
cho các dao động của các điện tử. Lorentz và
Zeeman chia nhau giải Nobel năm 1902, thậm
chí trước cả Thomson (phát hiện ra điện tử).
Sau đó, Johannes Stark chứng minh ảnh hưởng
trực tiếp của điện trường lên phát xạ ánh
sáng nhờ việc phát ra một chùm các nguyên tử
(chùm tia a-nốt gồm các nguyên tử hoặc phân
tử) trong một điện trường mạnh. Ông đã quan
sát được sự tách phức tạp của các vạch phổ
cũng như dịch chuyển Doppler phụ thuộc và
vận tốc của nguồn phát. Stark nhận giải
Nobel năm 1919.
Với bối cảnh đó, việc xây
dựng một mô hình chi tiết của nguyên tử, một
vấn đề đã tồn tại như một khái niệm từ thời
cổ đại nhưng được coi là một thành phần
không có cấu trúc trong vật lý cổ điển, có
thể được thực hiện. Bắt đầu từ giữa thế kỉ
19, người ta đã có một tài liệu thực nghiệm
đó là những vạch phổ đặc trưng phát ra trong
những vùng có thể nhìn thấy được từ những
loại nguyên tử khác nhau. Bức xạ tia X đặc
trưng do Charles G. Barkla (Nobel 1917) phát
hiện bổ sung thêm cho tài liệu đó. Barkla
phát hiện điều đó sau khi Max von Laue
(Nobel 1914) xác định bản chất sóng của bức
xạ và nhiễu xạ tia X. Phát hiện của Laue trở
thành một nguồn thông tin quan trọng về cấu
trúc bên trong của nguyên tử.
Tia X đặc trưng của
Barkla là những chùm tia thứ cấp, đặc trưng
cho mỗi nguyên tố, phát bức xạ từ những ống
phát tia X (nhưng không phụ thuộc vào công
thức hóa học của mẫu). Karl Manne G.
Siegbahn nhận thấy rằng đo phổ tia X đặc
trưng của tất cả các nguyên tố sẽ cho biết
một cách có hệ thống các lớp điện tử kế tiếp
được thêm vào như thế nào khi đi từ các
nguyên tố nhẹ tới các nguyên tố nặng. Ông đã
thiết kế các máy đo quang phổ cực kì chính
xác cho mục đích này. Và nhờ đó người ta xác
định được sự khác nhau về năng lượng của các
lớp điện tử khác nhau và các qui tắc cho
việc dịch chuyển bức xạ giữa các lớp đó. Ông
nhận giải Nobel vật lý năm 1924. Tuy vậy,
hóa ra là để hiểu sâu hơn cấu trúc của
nguyên tử, người ta cần nhiều hơn rất nhiều
những khái niệm thông thường của vật lý cổ
điển mà khó ai có thể tưởng tượng nổi.
Vật lý cổ điển coi chuyển
động là liên tục cũng như việc trao đổi năng
lượng cũng là liên tục. Vậy thì tại sao các
nguyên tử lại phát ra những bức xạ có một
đỉnh cực đại? Ở đây, một vấn đề có nguồn gốc
từ cuối thế kỉ thứ 19 đã cho những đầu mối
quan trọng để giải thích thắc mắc trên.
Wilhelm Wien nghiên cứu về bức xạ của “vật
đen” (black-body) từ những vật rắn nóng
(tương phản với bức xạ của các nguyên tử khí
có phân bố tần số liên tục). Sử dụng điện
động học cổ điển (classical
electrodynamics), ông đi tới một biểu thức
cho phân bố tần số của bức xạ này và cho sự
dịch chuyển của bước sóng có cường độ cực
đại khi nhiệt độ của một vật đen bị thay đổi
(định luật dịch chuyển Wien, rất hiệu quả
trong việc xác định nhiệt độ của mặt trời
chẳng hạn). Ông được trao giải Nobel năm
1911.

Hình1: (từ trái) Rongent (1845-1923),
Thomson(1856-1940), Bohr(1885-1962), và
Planck(1858-1947)
Tuy vậy, Wien không thể
rút ra một công thức phân bố phù hợp với
thực nghiệm cho cả hai vùng bước sóng dài và
bước sóng ngắn. Vấn đề đó vẫn không được
giải quyết cho đến khi Max K. E. L. Planck
đưa ra một ý tưởng hoàn toàn mới là năng
lượng phát xạ chỉ phát ra từng lượng gián
đoạn, có một giá trị nhất định gọi là lượng
tử (quanta). Một lượng tử năng lượng có giá
trị lớn khi bước sóng nhỏ và có giá trị nhỏ
khi bước sóng lớn (lượng tử năng lượng bằng
hằng số Plank nhân với tần số của lượng tử
đó). Đây được coi là sự ra đời của vật lý
lượng tử. Wien nhận giả Nobel năm 1911 và
Plank nhận ít năm sau đó, vào năm 1918. Các
bằng chứng quan trọng chứng minh ánh sáng
phát ra theo từng lượng tử năng lượng cũng
được củng cố bằng lời giải thích của Albert
Eistein về hiệu ứng quang điện (được Hetz
quan sát lần đầu tiên vào năm 1887). Hiệu
ứng quang điện bao gồm phần mở rộng của lý
thuyết Plank. Einstein nhận giải Nobel vật
lý năm 1921 (trao giải năm 1922) về hiệu ứng
quang điện và về “những đóng góp cho vật lý
lý thuyết” (điều đó ám chỉ một bối cảnh
khác).
Trong các thí nghiệm sau
này, James Franck và Gustav L. Hertz đã
chứng minh hiệu ứng quang điện ngược
(inverse of the photoelectric effect, tức là
khi một điện tử va chạm với một nguyên tử
thì cần một năng lượng tối thiểu để sinh ra
các lượng tử ánh sáng với năng lượng đặc
trưng phát ra từ va chạm đó) và chứng minh
tính đúng đắn của lý thuyết Plank và hằng số
Plank. Franck và Hertz cùng nhận giải Nobel
năm 1926. Cũng vào khoảng thời gian đó,
Arthur H. Compton (người nhận nửa giải Nobel
vật lý năm 1927) nguyên cứu sự mất mát năng
lượng của quang tử (photon, lượng tử sóng
điện từ) tia X khi tán xạ lên các hạt vật
chất và cho thấy rằng các lượng tử của chùm
tia X có năng lượng lớn hơn năng lượng của
ánh sáng nhìn thấy 10.000 lần và chúng cũng
tuân theo các qui tắc lượng tử. Charles T.
R. Wilson (xem dưới đây) nhận một nửa giải
Nobel năm 1927 vì tạo ra dụng cụ quan sát
tán xạ năng lượng cao có thể được dùng để
chứng minh tiên đoán của Compton.
Với khái niệm cơ sở về
lượng tử hóa năng lượng, tình hình vật lý đã
thúc đẩy những cuộc phiêu lưu tiếp theo vào
thế giới bí ẩn của vật lý vi mô. Cũng giống
như một số nhà vật lý nổi tiếng trước đó,
Niels H. D. Bohr làm việc với mô hình hành
tinh nguyên tử trong đó các điện tử quay
xung quanh hạt nhân. Ông thấy rằng các vạch
phổ sắc nét phát ra từ các nguyên tử có thể
được giải thích bằng cách cho rằng điện tử
quay xung quanh hạt nhân trên các quĩ đạo
tĩnh đặc trưng bởi một mô men góc bị lượng
tử hóa (bằng một số nguyên lần hằng số Plank
chia cho 2*pi). Ông cũng cho thấy năng lượng
phát xạ chính bằng sự khác nhau giữa các
trạng thái năng lượng bị lượng tử hóa đó.
Giả thiết ông đưa ra có xuất phát điểm từ
vật lý cổ điển hơn là từ lý thuyết của
Plank. Mặc dầu giả thiết trên chỉ giải thích
được một số đặc điểm đơn giản của quang phổ
và nguồn gốc của nó nhưng người ta cũng sớm
chấp nhận nó vì phương pháp của Bohr là một
điểm khởi đầu đúng đắn, ông nhận giải Nobel
năm 1922.
Hóa ra là muốn hiểu sâu
hơn tính chất của bức xạ và vật chất (cho
đến lúc bấy giờ người ta vẫn coi đó là hai
thực thể hoàn toàn riêng biệt) người ta cần
thêm những tiến bộ về mô tả lý thuyết của
thế giới vi mô. Năm 1923, Louis-Victor P. R.
de Broglie đã phát biểu rằng các hạt vật
chất cũng có những tính chất sóng và sóng
điện từ cũng thể hiện những tính chất của
các hạt dưới dạng các quang tử. Ông đã phát
triển các công thức toán học cho tính lưỡng
tính này, trong đó có một công thức mà sau
này gọi là “bước sóng de Broglie” cho các
hạt chuyển động. Các thí nghiệm ban đầu của
Clinton J. Davisson đã chỉ ra rằng thực ra
các điện tử thể hiện tính chất phản xạ giống
như các sóng khi đập vào một tinh thể và các
thí nghiệm này được lặp lại nhiều lần chứng
minh giả thiết lưỡng tính của de Broglie.
Một thời gian sau George P. Thomson (con
trai của J. J. Thomson) đã đưa ra nhiều thí
nghiệm đã được cải tiến rất nhiều cho biết
hiện tượng tán xạ khi các điện tử năng lượng
cao đi sâu vào trong các tấm kim loại. De
Broglie nhận giải Nobel năm 1929 và sau đó
Davisson và Thomson chia nhau giải Nobel năm
1937.
Điều cần làm là phải đưa
ra các phương trình toán học mô tả một lý
thuyết mới thay thế cho cơ học cổ điển mà lý
thuyết đó giải thích đúng đắn các hiện tượng
ở qui mô nguyên tử và bức xạ của chúng. Từ
năm 1924 đến 1926 là khoảng thời gian phát
triển cao độ trong lĩnh vực này. Erwin
Schrödinger phát triển thêm ý tưởng của de
Broglie và viết một bài báo cơ bản về “Lượng
tử hóa như là một bài toán trị riêng” vào
đầu năm 1926. Ông đã tạo ra một cái gọi là
“cơ học sóng” (wave mechanics). Nhưng một
năm trước đó Werner K. Heisenberg đã bắt đầu
một phương pháp toán học hoàn toán khác gọi
là “cơ học ma trận” (matrix mechanics) và
bằng cách đó ông cũng thu được các kết quả
tương tự như các kết quả mà Schrödinger đưa
ra sau đó. Cơ học lượng tử mới của
Schrodinger và Heisenberg là một sự khởi đầu
căn bản từ bức tranh cảm tính của các quĩ
đạo cổ điển trong nguyên tử. Nó cũng ngụ ý
rằng có những giới hạn tự nhiên trong việc
xác định chính xác đồng thời các đại lượng
vật lý (hệ thức bất định Heisenberg -
Heisenberg's uncertainty relations).

Hình2:(từ trái) Lamb(1913- ),
Kusch(1911-1993) Schrödinger(1887-1961), và
Dirac(1902-1984)
Heisenberg được trao giải
Nobel năm 1932 cho việc phát triển cơ học
lượng tử, trong khi đó Schrödinger và Paul
A. M. Dirac cùng nhận giải vào năm sau đó.
Cơ học lượng tử của Schrodinger và
Heisenberg đúng đối với các vận tốc và năng
lượng tương đối thấp của chuyển động “quĩ
đạo” (orbital) của các điện tử hóa trị trong
nguyên tử. Nhưng các phương trình đó không
thỏa mãn các yêu cầu được xác định từ các
nguyên lý của Eistein cho các hạt chuyển
động nhanh. Dirac đã sửa đổi các công thức
khi tính đến lý thuyết tương đối hẹp của
Eistein và cho thấy rằng một lý thuyết như
vậy không chỉ bao gồm những thông số tương
ứng cho sự tự quay của điện tử xung quanh
mình nó gọi là spin (do đó giải thích mô men
từ nội tại của điện tử và cấu trúc tinh tế
quan sát được trong phổ nguyên tử) mà còn
tiên đoán sự tồn tại của một loại hạt hoàn
toàn mới gọi là các phản hạt (antiparticles)
có khối lượng bằng khối lượng của điện tử
nhưng mang điện tích dương. Phản hạt đầu
tiên của điện tử do Carl D. Anderson (được
trao một nửa giải Nobel năm 1936) phát hiện
năm 1932 được gọi là positron.
Giải Nobel những năm sau
đó được trao cho những người có đóng góp
quan trọng khác cho sự phát triển của cơ học
lượng tử. Max Born, thầy của Heisenberg vào
những năm đầu của thập niên 20 có những công
trình quan trọng về mô tả toán học và giải
thích vật lý. Ông nhận một nửa giải nobel
vào năm 1954 cho công trình của ông về ý
nghĩa thống kê của hàm sóng. Wolfgang Pauli
đã đưa ra nguyên lý loại trừ (exclusion
principle – mỗi trạng thái lượng tử chỉ có
thể có một điện tử mà thôi) dựa trên cơ sở
lý thuyết bán cổ điển của Bohr. Sau này,
người ta cũng thấy nguyên lý Pauli liên quan
đến tính đối xứng của hàm sóng của các hạt
có spin bán nguyên nói chung gọi là các hạt
fermion để phân biệt với các hạt boson có
spin là một số nguyên lần của hằng số Plank
chia cho 2*pi. Nguyên lý loại trừ có nhiều
hệ quả quan trọng trong nhiều lĩnh vực của
vật lý và Pauli nhận giải Nobel năm 1945.
Việc nghiên cứu spin của
điện tử tiếp tục mở ra những chân trời mới
trong vật lý. Các phương pháp chính xác để
xác định mô men từ của các hạt tự quay đã
được phát triển vào những năm 30 và 40 cho
nguyên tử và hạt nhân (do Stern, Rabi, Bloch
và Purcell thực hiện, xem phần dưới). Năm
1947 họ đã đạt đến một độ chính xác mà
Polykarp Kusch có thể phát biểu rằng mô men
từ của một điện tử không có giá trị đúng như
Dirac tiên đoán mà khác đi một đại lượng rất
nhỏ. Vào cùng thời gian đó Willis E. Lamb
cũng nghiên cứu một vấn đề tượng tự về spin
của điện tử tương tác với các trường điện từ
bằng việc nghiên cứu cấu trúc tinh tế (fine
structure) của quang phổ phát ra từ nguyên
tử Hidro với các phương pháp cộng hưởng tần
số radio có độ phân giải rất cao. Ông quan
sát thấy rằng sự tách cấu trúc tinh tế luôn
luôn sai khác với giá trị của Dirac một
lượng đáng kể. Các kết quả này làm cho người
ta phải xem lại các khái niệm cơ bản đằng
sau những ứng dụng lý thuyết lượng tử vào
các hiện tượng điện từ, một lĩnh vực đã được
Dirac, Heisenberg và Pauli khởi đầu nhưng
vẫn còn một vài khiếm khuyết. Kusch và Lamb
cùng nhận giải Nobel năm 1955.
Trong điện động học lượng
tử (quantum electrodynamics – gọi tắt là
DDHLT), lý thuyết nhiễu loạn lượng tử mô tả
các hạt tích điện tương tác thông qua trao
đổi các quang tử. Mô hình cũ của DDHLT chỉ
bao gồm trao đổi quang tử riêng lẻ, nhưng
Sin-Itiro Tomonaga, Julian Schwinger và
Richard P. Feynman nhận ra rằng tình huống
lại phức tạp hơn rất nhiều vì tán xạ điện
tử-điện tử có thể bao gồm trao đổi một vài
quang tử. Một điện tích điểm “trần trụi”
không tồn tại trong bức tranh của họ. Điện
tích luôn tạo ra một đám các cặp hạt-phản
hạt ảo (virtual particle-antiparticle) ở
xung quanh nó, do đó, mô men từ hiệu dụng
của nó thay đổi và thế năng Coulomb cũng bị
biến đổi tại các khoảng cách ngắn. Các tính
toán từ mô hình này đã tái tạo lại các dữ
liệu thực nghiệm của Kusch và Lamb với một
độ chính xác ngạc nhiên và mô hình DDHLT mới
được coi là một lý thuyết chính xác nhất đã
từng có. Tomonaga, Schwinger và Feynman cùng
nhận giải Nobel vật lý năm 1965.
Bước phát triển này của
DDHLT có một tầm quan trọng vĩ đại nhất
trong việc mô tả các hiện tượng vật lý năng
lượng cao. Khái niệm sinh cặp từ trạng thái
chân không của một trường lượng tử
(quantized field) là một khái niệm cơ sở
trong lý thuyết trường hiện đại của các
tương tác mạnh và của sắc động học lượng tử
(quantum chromodynamics).
Khía cạnh cơ bản khác của
cơ học lượng tử và lý thuyết trường lượng tử
là tính đối xứng của các hàm sóng và các
trường. Các tính chất đối xứng tương ứng với
trao đổi hạt đồng nhất thì dựa trên nguyên
lý loại trừ Pauli nói ở trên, nhưng các đối
xứng tương ứng với các biến đổi không gian
cũng trở nên quan trọng không kém. Năm 1956,
Lý Chính Đạo (Tsung-Dao Lee) và Dương Chấn
Ninh (Chen Ning Yang) đã chỉ ra rằng các
tương tác vật lý có thể không tuân theo đối
xứng gương (tức là, chúng có thể khác nhau
khi hệ tọa độ quay trái hoặc quay phải).
Điều này có nghĩa là tính chất “chẵn lẻ” của
hàm sóng, kí hiệu là “P” không được bảo toàn
khi hệ chịu một tương tác như vậy và tính
chất đối xứng gương có thể bị thay đổi. Công
trình của hai ông là điểm khởi đầu cho một
nghiên cứu chuyên sâu về các hiệu ứng như
vậy và ngay sau đó người ta thấy rằng phân
rã của hạt betta và pi thành hạt muy do
tương tác yếu gây ra không bảo toàn tính
chẵn lẻ (xem thêm phần dưới). Lý và Dương
cùng nhận giải Nobel năm 1957. (*Bổ sung:
các định luật bảo toàn đều được rút ra từ
các tính chất đối xứng. Tính đối xứng và
đồng nhất của không gian và thời gian làm
cho năng lượng, xung lượng, mô men xung
lượng được bảo toàn. Do đó, tính đối xứng và
bảo toàn liên hệ chặt chẽ – ND*)
Các tính chất đối xứng
khác của cơ học lượng tử có liên hệ với sự
thay thế của các hạt bằng các phản hạt (gọi
là giao hoán điện tích – charge conjugation,
kí hiệu là “C”). Trong các trường hợp chuyển
đổi phóng xạ mà Lý và Dương nghiên cứu,
người ta thấy rằng mặc dù tính chẵn lẻ không
được bảo toàn, nhưng vẫn tồn tại một đối
xứng trong đó các hạt và phản hạt phá vỡ
tính chẵn lẻ theo các cách trái ngược nhau
hoàn toàn và do đó toán tử tổ hợp C*P bảo
toàn tính đối xứng. Nhưng nguyên lý bảo toàn
C*P đó kéo dài không được bao lâu cho đến
khi James W. Cronin và Val L. Fitch phát
hiện sự phân rã của hạt “meson K” vi phạm
nguyên lý trên, mặc dù sự vi phạm đó trong
một qui mô rất nhỏ. Cronin và Fitch đưa ra
phát hiện này vào năm 1964 và họ cùng nhau
nhận giải Nobel năm 1980. Hệ quả của phát
hiện trên (bao gồm các câu hỏi về tính đối
xứng của các quá trình tự nhiên khi đảo
ngược thời gian – gọi là đối xứng T) vẫn
được thảo luận cho đến ngày nay và đã chạm
đến những nền tảng sâu nhất của vật lý lý
thuyết bởi vì đối xứng P*C*T luôn được coi
là bảo toàn.
Người ta biết rằng trường
điện từ có tính chất gọi là “đối xứng
chuẩn” (gauge symmetry), tức là các phương
trình trường giữ nguyên dạng ngay cả khi các
thế năng điện từ được nhân lên với các hằng
số pha cơ học lượng tử nhất định. Người ta
không biết tương tác yếu (weak interaction)
có tính chất như thế cho đến những năm 1960,
khi Sheldon L. Glashow, Abdus Salam, và
Steven Weinberg đưa ra lý thuyết thống nhất
tương tác yếu và tương tác điện từ. Họ cùng
nhau chia giải Nobel năm 1979 về lý thuyết
thống nhất này và đặc biệt là tiên đoán của
họ về một loại tương tác yếu đặc biệt được
điều hòa bởi “dòng neutron – neutron
current” đã được thực nghiệm kiểm chứng mới
gần đây. Giải Nobel vật lý cuối cùng của thế
kỉ 20 được trao cho Gerhardus 't Hooft và
Martinus J. G. Veltman. Họ đã tìm ra cách để
tái chuẩn hóa lý thuyết “điện-yếu”
(electro-weak), và loại bỏ các điểm kì dị
trong các tính toán lượng tử (giống như
DDHLT đã giải quyết bài toán với tương tác
Coulomb). Công trình của họ cho phép tính
toán chi tiết đóng góp của tương tác yếu vào
tương tác của các hạt nói chung, chứng minh
tính hiệu quả của các lý thuyết dựa trên bất
biến chuẩn cho tất cả các tương tác vật lý
cơ bản.
Cơ học lượng tử và phần
mở rộng của nó là lý thuyết trường lượng tử
là một trong những thành tựu vĩ đại của thế
kỉ 20. Bản phác thảo con đường từ vật lý cổ
điển đến vật lý hiện đại đã dẫn chúng ta đi
được một chặng đường dài đến một bức tranh
cơ bản và thống nhất về các hạt và các lực
trong tự nhiên. Nhưng vẫn còn rất nhiều việc
phải làm và cái đích vẫn còn ở xa phía
trước. Ví dụ còn phải thống nhất lực
điện-yếu với lực hạt nhân “mạnh” và với lực
hấp dẫn. Nhưng ở đây, người ta nhận thấy
rằng mô tả lượng tử của thế giới vi mô có
một ứng dụng cơ bản khác: đó là tính toán
các tính chất hóa học của các hệ phân tử
(đôi lúc được mở rộng cho sinh học phân tử)
và của cấu trúc chất rắn, những ngành mà đã
thu được một số giải Nobel về vật lý và hóa
học.
Từ thế giới vi mô đến
thế giới vĩ mô
Phần trước “Từ vật lý cổ
điến đến vật lý lượng tử” đã đưa chúng ta đi
từ các hiện tượng của thế giới vĩ mô mà
chúng ta gặp hàng ngày tới thế giới lượng tử
của các nguyên tử, điện tử và hạt nhân. Bắt
đầu từ nguyên tử, các công trình của những
người đạt giải Nobel đã cho chúng ta hiểu
biết sâu sắc hơn thế giới hạ nguyên tử
(subatomic) và các thành phần nhỏ bé của nó.
Chúng ta cũng nhận thấy
rằng, chỉ trong nửa đầu thế kỉ 20, khám phá
tính chất của thế giới vi mô của các hạt và
tương tác mới là cần thiết để hiểu lịch sử
cấu thành và tiến hóa của những cấu trúc lớn
hơn của vũ trụ - thế giới vĩ mô. Tại thời
điểm hiện tại, vật lý, vật lý thiên văn và
vũ trụ học liên hệ với nhau rất chặt chẽ,
dưới đây sẽ trình bày một vài ví dụ.
Một mối liên hệ khác liên
kết các thực thể nhỏ nhất và lớn nhất trong
vũ trụ của chúng ta là lý thuyết tương đối
của Albert Einstein. Einstein đưa ra lý
thuyết tương đối hẹp của mình lần đầu tiên
vào năm 1905 (special theory of relativity)
với phương trình cho biết mối liên hệ giữa
khối lượng và năng lượng E=mc2. Và vào thập
kỉ tiếp theo, ông tiếp tục đưa ra lý thuyết
tương đối rộng (general theory of
relativity) liên hệ lực hấp dẫn với cấu trúc
của không gian và thời gian. Tất cả các tính
toán khối lượng hiệu dụng của các hạt năng
lượng cao, của các biến đổi năng lượng trong
phân rã phóng xạ cũng như các tiên đoán của
Dirac về sự tồn tại của phản hạt, đều dựa
trên lý thuyết tương đối của ông. Lý thuyết
tương đối rộng là cơ sở cho các tính toán
chuyển động trên thang vĩ mô của vũ trụ, kể
cả giả thiết về tính chất của hố đen.
Eistein nhận giải Nobel vào năm 1922 lại do
công trình về hiệu ứng quang điện thể hiện
bản chất hạt của ánh sáng. (*Có lẽ ủy ban
trao giải thưởng đã quá thận trọng khi không
trao giải Nobel cho ông về lý thuyết tương
đối. Họ sợ rằng, một lý thuyết quan trọng
như vậy, nếu sai có thể để lại một hậu quả
rất lớn, chính vì thế Eistein được trao giải
vì hiệu ứng quang điện, một vấn đề kém quan
trọng hơn nhiều so với thuyết tương đối -
ND*).
Các nghiên cứu của
Becquerel, vợ chồng Curie và Rutherford làn
nảy sinh các câu hỏi: đâu là nguồn năng
lượng của hạt nhân phóng xạ để có thể duy
trì việc phát xạ anpha, betha và gamma trong
khoảng thời gian rất dài mà một vài người
trong số họ đã quan sát được? hạt anpha là
gì và hạt nhân có tạo thành từ hạt này hay
không? Câu hỏi đầu tiên (có vẻ như là vi
phạm định luật bảo toàn năng lượng, một
trong những định luật quan trọng nhất của
vật lý) đã có câu trả lời từ lý thuyết biến
tố (transmutation theory) của Rutherford và
Frederick Soddy (Nobel hóa học 1921). Họ đã
theo dõi rất chi tiết một chuỗi các phân rã
phóng xạ khác nhau và so sánh năng lượng
phát ra với sự thay đổi về khối lượng của
hạt nhân mẹ và hạt nhân con. Họ tìm thấy
rằng hạt nhân thuộc một nguyên tố hóa học có
thể có các khối lượng khác nhau gọi là các
“đồng vị” (isotope). Một giải Nobel cũng
được trao vào năm 1922 cho Francis W. Aston
về việc tách phổ-khối lượng
(mass-spectroscopic) của một số lớn các đồng
vị của các nguyên tố không phóng xạ. Cùng
lúc đó Marie Curie cũng nhận giải Nobel lần
thứ hai (lần này về hóa học) về phát hiện ra
các nguyên tố hóa học radium và polonium.
Khối lượng của các đồng
vị đều là một số nguyên lần khối lượng của
proton, proton do Rutherford phát hiện lần
đầu tiên khi ông chiếu tia anpha và hạt nhận
nguyên tử Ni-tơ. Nhưng các đồng vị không thể
chỉ được tạo thành từ các proton được vì mỗi
nguyên tố hóa học chỉ có một giá trị tổng
điện tích hạt nhân. Thông thường các proton
chỉ chiếm không đến một nửa khối lượng hạt
nhân, điều đó có nghĩa là một số thành phần
không mang điện cũng có mặt trong hạt nhân.
James Chadwick lần đầu tiên tìm thấy chứng
cứ cho hạt đó, gọi là hạt neutron khi ông
nghiên cứu các phản ứng hạt nhân năm 1932.
Ông nhận giải Noebel vật lý năm 1935.
Ngay sau phát hiện của
Chadwick, Enrico Fermi và một số người khác
cũng bắt tay vào nghiên cứu neutron như là
một phương pháp để tạo ra các phản ứng hạt
nhân mà có thể gây ra phóng xạ “nhân tạo”.
Fermi thấy rằng xác suất của các phản ứng
cảm ứng-hạt nhân (neutron-induced reactions,
không bao gồm biến đổi nguyên tố) tăng lên
khi neutron bị làm chậm đi và điều này cũng
đúng cho các nguyên tố nặng giống như với
các nguyên tố nhẹ, trái ngược với phản ứng
cảm ứng các hạt mang điện (*ví dụ như
proton*). Ông nhận giải Nobel vật lý năm
1938.
Một nhánh của vật lý gọi
là “vật lý hạt nhân” đã được hình thành dựa
trên giả thiết hạt nhân được tạo thành từ
các proton và neutron và một vài thành tựu
quan trọng đã được ghi nhận bằng các giải
Nobel. Ernest O. Lawrence, người nhận giải
Nobel vật lý năm 1939 đã xây máy gia tốc đầu
tiên trong đó các hạt được gia tốc dần dần
bằng việc gia tăng năng lượng cho hạt sau
mỗi vòng quay trong từ trường. Bằng các máy
gia tốc này ông có thể gia tốc các hạt nhân
tới các năng lượng cao mà ở đó các phản ứng
hạt nhân có thể xảy ra và ông đã thu được
kết quả mới rất quan trọng. Ngài John D.
Cockcroft và Ernest T. S. Walton đã gia tốc
các hạt bằng việc tác động trực tiếp một
điện thế rất cao và các ông cũng được trao
giải vào năm 1951 cho công trình nghiên cứu
về biến tố (*nguyên tố mẹ biến đổi thành
nguyên tố con thông qua phóng xạ*).
Otto Stern nhận giải
Nobel vật lý năm 1943 cho các phương pháp
thực nghiệm của ông để nghiên cứu tính chất
từ của hạt nhân, đặc biệt là xác định mô men
từ của proton. Isidor I. Rabi làm tăng độ
chính xác lên hai bậc trong việc xác định mô
men từ vủa hạt nhân bằng kĩ thuật cộng hưởng
tần số radio, và do đó, ông nhận giải Nobel
vật lý năm 1944. Các tính chất từ của hạt
nhân cung cấp các thông tin quan trọng để
hiểu chi tiết proton và neutron tạo nên hạt
nhân như thế nào. Sau đó, vào nửa cuối của
thế kỉ một vài nhà vật lý lý thuyết được
trao giải cho những công trình về mô hình
hóa lý thuyết các hệ nhiều hạt như vậy:
Eugene P. Wigner (nửa giải), Maria
Goeppert-Mayer (một phần tư) and J. Hans D.
Jensen (một phần tư) vào năm 1963 và Aage N.
Bohr, Ben R. Mottelson và L. James Rainwater
vào năm 1975. Chúng ta sẽ trở lại những công
trình này trong phần “Từ đơn giản đến phức
tạp”.
Ngay từ năm 1912 Victor
F. Hess (giải Nobel năm 1936 cùng với Carl
D. Anderson) thấy rằng các bức xạ có khả
năng đi sâu vào vật chất có thể đến với
chúng ta từ khoảng không ngoài vũ trụ. “Bức
xạ vũ trụ” này được ghi nhận bằng các buồng
ion hóa và sau này là buồng mây (cloud
chamber) Wilson (người được nhắc đến ở phần
trước). Các tính chất của các hạt có thể
phỏng đoán từ các vạch cong của các hạt để
lại trong buồng ion hóa dưới tác dụng của từ
trường mạnh bên ngoài. Theo cách đó, C. D.
Anderson đã phát hiện ra positron. Anderson
và Patrick M. S. Blackett cho thấy rằng, tia
gamma (cần một năng lượng quang tử ít nhất
bằng hai lần me*c2, me là khối lượng điện
tử) có thể sinh ra các cặp điện tử-phản điện
tử và ngược lại, điện tử và phản điện tử có
thể hủy nhau tạo ra chính tia gamma bị mất
đi. Blackett nhận giải Nobel vật lý năm 1948
cho việc phát triển buồng mây sau này và các
phát minh mà công đã thực hiện đển làm việc
đó.
Mặc dù sau này, các máy
gia tốc được phát triển nhiều, bức xạ vũ trụ
vẫn là nguồn các hạt năng lượng cao chủ yếu
trong vài thập kỉ (và hạt từ bức xạ vũ trụ
có năng lượng lớn hơn năng lượng của các hạt
tạo ra từ các máy gia tốc lớn nhất trên trái
đất, mặc dù cường độ của bức xạ vũ trụ rất
nhỏ) và nó đã cung cấp những hình ảnh ban
đầu của một thế giới hạ hạt nhân mà lúc bấy
giờ con người hoàn toàn chưa biết. Một loại
hạt mới gọi là meson được phát hiện năm 1937
có khối lượng xấp xỉ 200 lần khối lượng điện
tử (nhưng nhẹ hơn proton 10 lần). Năm 1946,
Cecil F. Powell đã làm sáng tỏ hiện tượng
trên và cho rằng thực ra là có nhiều hơn một
loại hạt như vậy tồn tại. Một trong số đó có
tên là “meson pi” phân rã thành một hạt khác
gọi là “meson muy”. Powell nhận giải Nobel
vật lý năm 1950.
Lúc bấy giờ các nhà lý
thuyết đang nghiên cứu về lực mà giữ proton
và neutron lại trong hạt nhân. Năm 1935,
Hideki Yukawa giả thiết rằng lực tương tác
“mạnh” (strong force) có thể được truyền
bằng các hạt trao đổi (*có hai loại hạt: hạt
thực có spin bán nguyên và hạt truyền tương
tác hay còn gọi là hạt trao đổi, hạt có spin
nguyên, ví dụ hạt gravion là hạt truyền
tương tác hấp dẫn – ND*), giống như lực điện
từ được giả thiết được truyền thông qua trao
đổi các quang tử ảo trong lý thuyết trường
lượng tử. Yukawa cho rằng một hạt như vậy
phải có khối lượng khoảng 200 lần khối lượng
của điện tử để giải thích tầm tác dụng ngắn
của lực tương tác mạnh mà thực nghiệm tìm
ra. Hạt meson pi mà Powell tìm ra có các
tính chất phù hợp để có thể là “hạt Yukawa”.
Ngược lại, hạt meson muy lại có các tính
chất hoàn toàn khác (và tên của nó sau này
được đổi thành “muon”). Yukawa nhận giải
thưởng Nobel vật lý năm 1949. Mặc dù các
nghiên cứu sau này chỉ ra rằng cơ chế của
lực tương tác mạnh phức tạp hơn bức tranh
của Yukawa rất nhiều nhưng ông vẫn được coi
là người tiên phong trong nhiên cứu các hạt
truyền tương tác mạnh.
Có thêm các hạt mới được
phát hiện vào những năm 1950, từ bức xạ vũ
trụ cũng như từ các va chạm của các hạt được
gia tốc. Vào cuối những năm 50, các máy gia
tốc có thể đạt năng lượng vài tỉ eV
(electron-volt), tức là các cặp hạt với khối
lượng bằng khối lượng của proton có thể được
tạo ra từ chuyển đổi năng lượng-khối lượng.
Phương pháp này được nhóm nghiên cứu của
Owen Chamberlain và Emilio Segrè sử dụng khi
lần đầu tiên họ đã xác định và nghiên cứu
phản proton vào năm 1955 (họ chia nhau giải
Nobel năm 1959). Các máy gia tốc năng lượng
cao cũng cho phép cũng cho phép nghiên cứu
cấu trúc của proton và neutron chi tiết hơn
trước đó rất nhiều và Robert Hofstadter có
thể phân biệt chi tiết cấu trúc điện từ của
các nucleon nhờ quan sát tán xạ của chúng
lên các điện tử năng lượng cao. Ông nhận nửa
giải Nobel vật lý năm 1961.
Hạt này kế tiếp hạt kia,
các hạt meson mới và các phản hạt tương ứng
của chúng đã xuất hiện nhờ các vết trên các
phim chụp hoặc các máy thu hạt tích điện. Sự
tồn tại của hạt neutrino tiên đoán từ lý
thuyết của Pauli vào những năm 30 cũng đã
được ghi nhận. Các bằng chứng trực tiếp thực
nghiệm đầu tiên về hạt neutrino được C. L.
Cowan và Frederick Reines cung cấp vào năm
1957 nhưng mãi đến năm 1995, công trình đó
mới được trao một nửa giải Nobel (lúc đó
Cowan đã chết, ông chết năm 1984). Neutrino
cũng có mặt trong các quá trình liên quan
đến tương tác “yếu” (như là phân rã của hạt
betha và hạt meson pi thành hạt muon) và khi
cường độc chùm hạt tăng lên, các máy gia tốc
có thể tạo ra các chùm neutrino thứ cấp.
Leon M. Lederman, Melvin Schwartz và Jack
Steinberger đã phát triển phương pháp này
vào những năm 60 và chứng minh rằng hạt
neutrino đi kèm trong phân rã meson pi thành
muon không đồng nhất với các neutrino liên
quan đến các điện tử trong phân rã hạt
betha, chúng là hai hạt riêng biệt gọi là
hạt “neutrino điện tử” và “neutrino muon”.
Bây giờ, các nhà vật lý
có thể bắt đầu phân biệt một số thứ tự trong
các hạt: hạt điện tử (e), hạt muon (muy),
neutrino điện tử (nuy e), neutrino muon (nuy
muy) và các phản hạt của chúng đã được tìm
thấy và chúng thuộc cùng một lớp gọi là
“lepton”. Các hạt trên không tương tác bởi
lực tương tác mạnh, ngược lại, các hạt
proton, neutron, meson và hyperon (tập hợp
các hạt có khối lượng lớn hơn khối lượng của
proton) lại được xác định bởi lực tương tác
mạnh. Các hạt lepton được mở rộng khi Martin
L. Perl và nhóm nghiên cứu của ông đã phát
hiện ra hạt lepton “tau” có khối lượng lớn
hơn điện tử và muon. Perl chia giải Nobel
với Reines vào năm 1995.
Tất cả các lepton vẫn
được coi là các hạt cơ bản, tức là chúng
giống như các điểm và không có cấu trúc nội,
nhưng đối với proton,… thì lại không phải
vậy. Murray Gell-Mann và những người khác cố
gắng phân loại các hạt tương tác rất mạnh
(gọi là các “hardron”) thành các nhóm có các
liên hệ và kiểu tương tác giống nhau.
Gell-Mann nhận giải Nobel năm 1969. Hệ thống
của ông dựa trên giả thiết rằng tất cả các
hạt đều được tạo thành từ các hạt nguyên tố
gọi là các hạt “quark”. Bằng chứng thực về
việc các nucleon được tạo thành từ các hạt
giống như quark đến từ công trình của Jerome
I. Friedman, Henry W. Kendall và Richard E.
Taylor. Họ “nhìn thấy” các hạt cứng bên
trong các lepton khi nghiên cứu tán xạ không
đàn hồi của các điện tử (các điện tử có năng
lượng lớn hơn năng lượng mà Hofstadter có
thể dùng trước đó) lên các lepton. Do đó, họ
cùng nhau chia giải Nobel năm 1990.
Người ta hiểu rằng tất cả
các hạt tương tác mạnh đều được tạo thành từ
các quark. Vào giữa những năm 70, một hạt có
thời gian sống rất ngắn được phát hiện một
cách độc lập bởi nhóm của Burton Richter và
Samuel C. C. Ting. Đó là một loại hạt quark
chưa được biết vào lúc đó và được đặt tên là
“đẹp” (charm). Hạt quark này không có mối
liên hệ nào đến hệ thống các hạt cơ bản và
Burton và Ting chia nhau giải Nobel năm
1976. Mô hình chuẩn trong vật lý hạt phân
chia các hạt thành 3 họ, họ thứ nhất gồm: 2
quark (và các phản quark) và hai lepton,
trong mỗi lepton đều có các quark “thuận”
(up) và “nghịch” (down), điện tử và neutrino
điện tử; họ thứ hai gồm: quark “lạ”
(strange) và quark “đẹp”, muon và neutrino
muon; họ thứ ba gồm: quark thuận, quark
ngược, tau và tau neutrino. Các hạt truyền
tương tác trong tương tác điện yếu là các
quang tử, hạt Z và hạt boson W và trong
tương tác mạnh là các hạt gluon.
Năm 1983, Carlo Rubbia và
nhóm nghiên cứu của ông đã chứng minh sự tồn
tại của các hạt W và Z bằng buồng va chạm
proton-phản proton với năng lượng đủ cao để
tạo ra các hạt rất nặng đó. Rubbia chia giải
năm 1984 với Simon van der Meer, người có
những phát minh quan trọng trong việc xây
dựng buồng va chạm đó. Họ cũng suy đoán rằng
có các hạt khác có thể được tạo ra tại các
năng lượng cao hơn năng lượng của các máy
gia tốc hiện thời, nhưng đến giờ không có
bằng chứng thực nghiệm nào về điều đó.
Vũ trụ học là một ngành
khoa học nghiên cứu về cấu trúc và tiến hóa
của vũ trụ chúng ta và các đối tượng trên
nấc thang vĩ mô trong đó. Các mô hình được
xây dụng trên các tính chất của các hạt cơ
bản đã biết và các tương tác của chúng cũng
như tính chất của không-thời gian và hấp
dẫn. Mô hình vụ nổ lớn mô tả một kịch bản có
thể cho sự tiến hóa của vũ trụ tại những
thời điểm đầu tiên. Một trong những tiên
đoán của mô hình đó là sự tồn tại của nền
bức xạ vũ trụ mà đã được Arno A. Penzias và
Robert W. Wilson tìm ra vào năm 1960. Họ
cùng nhận giải Nobel vật lý năm 1978. Bức xạ
này là tàn dư của các quá trình va chạm được
giả thiết xuất hiện vào các giai đoạn rất
sớm sau vụ nổ lớn. Nhiệt độ cân bằng tại
thời kì hiện tại của vũ trụ là 3 độ Kenvin.
Nhiệt đó đó gần như đồng nhất theo tất cả
các hướng quan sát khác nhau; các sai khác
nhỏ khỏi giá trị đồng nhất đang được nghiên
cứu và sẽ nói cho chúng ta biết nhiều hơn về
lịch sử sớm nhất của vũ trụ của chúng ta.
Khoảng không vũ trụ được
ví như một đấu trường lớn cho các hạt tương
tác với nhau vì ở đó các điều kiện đặc biệt
(mà không thể tạo ra trong một phòng thí
nghiệm trên trái đất) có thể được tạo ra một
cách tự phát. Các hạt có thể được gia tốc
tới các năng lượng cao hơn bất kì máy gia
tốc nào trên trái đất, các phản ứng hạt nhân
xảy ra bên trong các ngôi sao, và lực hấp
dẫn có thể nén các hạt đến mật độ cực cao.
Hans A. Bethe lần đầu tiên mô tả
chu kì Hydro và các-bon trong đó năng lượng
được giải phóng trong các ngôi sao bởi sự
kết hợp của proton thành hạt nhân Hê-li. Vì
đóng góp này, ông nhận giải Nobel vật lý vào
năm 1967.
Subramanyan Chandrasekhar đã tính
toán lý thuyết quá trình tiến hóa của các
ngôi sao, đặc biệt là các ngôi sao sẽ kết
thúc cuộc đời của mình ở một trạng thái gọi
là “sao lùn trắng” (white dwarf). Dưới
một số điều kiện đặc biệt, sản phẩm cuối
cùng có thể là “sao neutron”, một vật
thể cực đặc trong đó tất cả các proton biến
thành neutron. Trong các vụ nổ siêu sao
(supernova), các nguyên tố nặng được tạo ra
trong quá trình tiến hóa của các sao sẽ bay
vào trong khoảng không vũ trụ.
William A. Fowler đã làm sáng tỏ rất chi
tiết cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm (sử
dụng các máy gia tốc) các phản ứng hạt nhân
quan trọng nhất trong các ngôi sao và sự
hình thành các nguyên tố nặng. Fowler và
Chandrasekhar cùng nhận giải Nobel vật lý
năm 1983.
Ánh sáng nhìn thấy và bức
xạ vũ trụ không phải là các sóng điện từ duy
nhất mà có thể đến với chúng ta từ khoảng
không vũ trụ. Tại các bước sóng dài hơn,
thiên văn vô tuyến cung cấp các thông tin về
các vật thể vũ trụ mà chúng ta không thể
quan sát được bằng phổ quang học.
Ngài Martin Ryle đã phát triển
một phương pháp trong đó các tín hiệu từ vài
kính thiên văn đặt cách xa nhau có thể kết
hợp với nhau để làm tăng độ phân giải của
bản đồ nguồn sóng radio từ bầu trời.
Antony Hewish và nhóm nghiên cứu của ông
đã thực hiện một phát minh rất ngẫu nhiên
vào năm 1964 khi sử dụng kính thiên văn của
Ryle: các vật thể không xác định gọi là
pulsar phát ra các xung tần số sóng radio
với tốc độ lặp lại rất xác định. Những vật
thể này ngay sau đó được xác định là các sao
neutron, hoạt động như các ngọn hải đăng
quay rất nhanh phát ra sóng radio bởi vì
chúng là những cục nam châm rất mạnh. Ryle
và Hewish chia giải Nobel vật lý năm 1974.
Năm 1974 cuộc tìm kiếm
pulsar là đối tượng chính của các nhà thiên
văn vô tuyến, nhưng một bất ngờ khác đã đến
vào mùa hè năm đó khi
Russell A. Hulse và
Joseph H. Taylor, Jr.
đã chú ý đến sự điều biến chu kì của tần số
các xung của một pulsar mới được phát hiện
gọi là PSR 1913+16. Đó chính là pulsar đôi
đầu tiên được ghi nhận, nó được đặt tên như
vậy bởi vì sao neutron phát ra sóng radio là
một thành phần trong một hệ sao đôi có kích
thước gần bằng nhau. Các quan sát trên 20
năm về hệ sao này cho thấy bằng chứng của
sóng hấp dẫn. Sự suy giảm
của tần số quay rất
phù hợp với các tính toán dựa trên lý
thuyết của Einstein về mất mát năng lượng
gây ra do phát ra sóng hấp dẫn. Hulse và
Taylor chia nhau giải Nobel vật lý vào năm
1993. Tuy vậy việc thu trực tiếp sóng hấp
dẫn trên trái đất vẫn chưa được thực hiện.
Từ đơn giản đến phức
tạp
Nếu tất cả các tính chất
của các hạt cơ bản cũng như các lực tương
tác giữa chúng đã được biết rất chi tiết thì
liệu có thể đoán được tính chất của các hệ
gồm các hạt như vậy không? Việc tìm kiếm các
thành tố cơ bản của tự nhiên và tìm kiếm các
mô tả lý thuyết tương tác giữa chúng (ở tầm
vĩ mô cũng như vi mô) đã được khuyến khích
một phần bởi một học thuyết giản hóa luận
(reductionistic). Tất cả các nhà khoa học
không cho rằng có tồn tại một phương pháp
tổng hợp ngay cả về mặt nguyên lý. Nhưng
thậm chí nếu nó đúng thì các tính toán tính
chất của hệ phức cũng nhanh chóng trở thành
bất khả thi khi số hạt và tương tác trong hệ
tăng lên. Do đó người ta mô tả hệ nhiều hạt
phức bằng các mô hình đơn giản hóa, trong
đó, chỉ các đặc điểm quan trọng nhất của các
thành phần các hạt và tương tác được dùng
như là các điểm khởi đầu. Người ta thường
xuyên thấy rằng các hệ phức thể hiện các đặc
điểm được gọi là các “tính chất chung” mà
không thể đoán được từ các tương tác cơ bản
giữa các thành phần của chúng.
Hạt nhân nguyên tử
Các hệ phức đầu tiên từ
quan điểm của các nhà giản hóa luận là thành
phần cấu thành hạt nhân, tức là các neutron
và proton được tạo thành từ các quark và
gluon. Hệ thứ hai là các hạt nhân nguyên tử,
theo một phép gần đúng bậc một, được tạo
thành từ các hạt nucleon. Mô hình đầu tiên
về cấu trúc hạt nhân là mô hình các lớp hạt
nhân, do Maria Goeppert-Mayer và Johannes D.
Jensen đưa ra vào cuối những năm 40, họ nhận
thấy rằng ít nhất đối với các hạt nhân với
hình gần như hình cầu thì các nucleon bên
ngoài cùng cũng lấp đầy các mức năng lượng
giống như các điện tử trong nguyên tử. Tuy
vậy, trật tự của các nucleon lại khác với
các điện tử và được xác định bởi một thế
năng chung và bởi sự kết cặp spin-quĩ đạo
rất mạnh của các lực hạt nhân. Mô hình của
họ giải thích tại sao hạt nhân lại đặc biệt
ổn định với một số xác định (magic number –
con số kì diệu) các proton. Họ chia nhau
giải Nobel vật lý năm 1963 cùng với Eugene
Wigner, người đã công thức hóa các nguyên lý
đối xứng cơ bản rất quan trọng trong vật lý
hạt nhân và vật lý hạt.
Hạt nhân có số nucleon
khác với con số kì diệu thì lại không phải
là hình cầu. Niels Bohr đã từng nghiên cứu
mô hình giọt chất lỏng áp dụng cho các hạt
nhân bị biến dạng như vậy (có thể có dạng
hình e-líp), và vào năm 1939 người ta thấy
rằng nếu kích thích các hạt nhân bị biến
dạng mạnh có thể dẫn đến sự phân chia hạt
nhân, tức là hạt nhân
bị phá vỡ thành hai mảnh lớn.
Otto Hahn nhận giải Nobel hóa học
năm 1944 cho phát hiện quá trình mới này.
Hình phi cầu của hạt nhân biến dạng sinh
thêm các bậc tự do cũng giống như sự dao
động tập thể của các hạt nhân. James
Rainwater, Aage Bohr (con trai của Niels
Bohr) và Ben Mottelson đã phát triển các mô
hình mô tả các kích thích hạt nhân và họ
cùng nhận giải Nobel vật lý năm 1975.
Các mô hình về hạt nhân
được nhắc đến trên đây không chỉ dựa trên
các nguyên lý chung, có tính định hướng mà
còn dựa trên các thông tin ngày càng tăng về
phổ hạt nhân.
Harold C. Urey đã phát hiện ra
deuterium, một đồng vị nặng của hydro, và vì
thế, ông được trao giải Nobel về hóa học vào
năm 1934. Fermi, Lawrence, Cockcroft, và
Walton đã được nhắc đến ở phần trước đã phát
triển các phương pháp để tạo ra các đồng vị
hạt nhân không bền.
Edwin M. McMillan và
Glenn T. Seaborg nhận giải Nobel hóa học
năm 1951 vì đã mở rộng bảng đồng vị hạt nhân
tới các nguyên tố nặng nhất. Năm 1954,
Walther Bothe và Max Born (người được
nhắc đến ở trên) nhận giải Nobel vật lý vì
phát triển phương pháp trùng hợp cho phép
những người nghiên cứu quang phổ có thể lựa
chọn các chuỗi bức xạ hạt nhân có liên quan
từ phân rã hạt nhân. Phương pháp này lại hóa
ra rất quan trọng, đặc biệt là trong nghiên
cứu các trạng thái kích thích của hạt nhân
và tính chất điện từ của chúng.
Nguyên tử
Khi xem xét các hệ nhiều
hạt, việc nghiên cứu các lớp điện tử của các
nguyên tử dễ hơn của hạt nhân (hạt nhân thực
ra không chỉ bao gồm các proton và neutron
mà còn nhiều thành phần hơn nguyên tử, như
là các hạt “ảo” có thời gian sống ngắn). Đó
là do lực điện từ yếu và đơn giản hơn lực
hạt nhân “mạnh” giữ các thành phần của hạt
nhân lại với nhau. Cơ học lượng tử của
Schrodinger, Heisenberg, và Pauli và phần mở
rộng tương đối tính của Dirac đã có thể mô
tả khá tốt các tính chất cơ bản của các điện
tử trong nguyên tử. Tuy vậy, một bài toán có
từ lâu vẫn chưa được giải quyết, tức là các
vấn đề toán học liên quan đến các tương tác
lẫn nhau giữa các điện tử sau khi tính đến
lực hút của các hạt nhân mang điện tích
dương. Một khía cạnh của vấn đề này đã được
đế cập bởi một trong những người đạt giải
Nobel hóa học mới đây (1998), đó là
Walter Kohn. Ông đã phát triển
phương pháp “hàm mật độ” (density functional
method) có thể áp dụng vào các nguyên tử
tự do cũng như áp dụng cho các điện tử trong
các phân tử và trong chất rắn.
Vào đầu thế kỉ 20, bảng
tuần hoàn các nguyên tố hóa học vẫn chưa
hoàn thiện. Lịch sử ban đầu của giải Nobel
bao gồm các phát hiện một số các nguyên tố
còn thiếu. Lord Raleigh (John William
Strutt) đã chú ý đến sự khác nhau về khối
lượng nguyên tử tương đối khi các mẫu ô-xi
và ni-tơ được tách trực tiếp từ không khí
quanh ta với mẫu được tách từ các thành phần
hóa học. Ông kết luận rằng khí quyển phải có
chứa thành phần chưa biết, đó là nguyên tố
argon có khối lượng nguyên tử là 20. Ông
nhận giải Nobel vật lý năm 1904, cùng năm
với ngài William Ramsay nhận giải Nobel hóa
học vì đã tách được nguyên tố Hê-li.
Trong nửa cuối của thế kỉ
20, đã có một sự phát triển vượt bậc về phổ
và độ chính xác nguyên tử, mà nhờ đó người
ta có thể đo được các dịch chuyển giữa các
trạng thái nguyên tử hoặc phân tử mà rơi vào
vùng vi sóng hoặc cùng ánh sáng khả kiến.
Vào những năm 50,
Alfred Kastler (người nhận giải
Nobel năm 1966) và các đồng nghiệp cho thấy
các điện tử trong các nguyên tử có thể được
đặt vào các trạng thái kích thích lọc lựa
bằng cách sử dụng ánh sáng phân cực. Sau
phân rã phóng xạ, ánh sáng phân cực cũng có
thể làm cho spin của các nguyên tử ở trạng
thái cơ bản định hướng. Cảm ứng dịch chuyển
tần số radio đã mở ra các khả năng đo các
tính chất của các trạng thái bị lượng tử hóa
của các điện tử trong nguyên tử một cách
chính xác hơn trước rất nhiều. Một hướng
phát triển song song đã dẫn đến việc phát
hiện ra maser và laser dựa trên “khuyếch đại
phát xạ kích thích sóng vô tuyến”
(amplification of stimulated emission of
radiation) trong các trường điện từ ở vùng
vi sóng và khả kiến (ánh sáng) – các hiệu
ứng mà về mặt nguyên lý đã được tiên đoán từ
các phương trình của Einstein vào năm 1917
nhưng đã không được quan tâm đặc biệt cho
đến tận đầu những năm 50.
Charles H. Townes đã phát triển
maser đầu tiên vào năm 1958.
Nikolay G. Basov và
Aleksandr M. Prokhorov đã thực
hiện công trình lý thuyết về nguyên lý
maser. Maser đầu tiên sử dụng một dịch
chuyển kích thích trong phân tử ammonia. Nó
đã phát ra bức xạ vi sóng mạnh không giống
như các bức xạ tự nhiên (với các quang tử có
các pha khác nhau). Độ sắc nét của tần số
của maser ngay lập tức trở thành một công cụ
quang trọng trong kĩ thuật, xác định thời
gian và các mục đích khác. Townes nhận nửa
giải Nobel vật lý năm 1964, Basov và
Prokhorov chia nhau một nửa giải còn lại.
Đối với bức xạ khả kiến,
sau này laser được phát triển trong một số
phòng thí nghiệm.
Nicolaas Bloembergen và
Arthur L. Schawlow được nhận nửa
giải Nobel năm 1981 cho công trình nghiên
cứu về phổ laser chính xác của các nguyên tử
và phân tử. Một nửa giải của năm đó được
trao cho
Kai M. Siegbahn (con trai của
Manne Siegbahn), người đã phát triển một
phương pháp có độ chính xác cao để xác định
phổ nguyên tử và phân tử dựa vào các điện tử
phát ra từ các lớp điện tử bên trong khi bị
tác động của chùm tia X có năng lượng xác
định. Phổ điện tử của ông được sử dụng làm
công cụ phân tích trong rất nhiều ngành của
vật lý và hóa học.
Sự tác động có điều khiển
giữa các điện tử của nguyên tử và các trường
điện từ tiếp tục cung cấp những thông tin
chi tiết hơn về cấu trúc của các trạng thái
của điện tử trong nguyên tử.
Norman F. Ramsey đã phát triển
các phương pháp chính xác dựa trên sự hưởng
ứng của các điện tử tự do trong chùm nguyên
tử với trường điện từ tần số radio,
Wolfgang Paul đã phát minh ra các
“bẫy” nguyên tử tạo thành từ các điện trường
và từ trường tác động lên toàn bộ thể tích
mẫu. Nhóm nghiên cứu của
Hans G. Dehmelt là những người
đầu tiên cách li được các hạt riêng lẻ
(trong trường hợp này là các phản điện tử)
cũng như là các nguyên tử riêng lẻ trong các
bẫy như vậy. Lần đầu tiên, các nhà thực
nghiệm có “thể giao tiếp” được với các
nguyên tử riêng biệt bằng các tín hiệu vi
sóng và laser. Điều này cho phép nghiên cứu
các khía cạnh mới của tính chất cơ học lượng
tử và làm tăng độ chính xác hơn nữa trong
việc xác định tính chất nguyên tử và chuẩn
hóa thời gian. Paul và Dehmelt nhận một nửa
giải Nobel năm 1989 và một nửa giải còn lại
được trao cho Ramsey.
Bước cuối
cùng trong tiến bộ này là làm cho các
nguyên tử trong các bẫy như vậy chuyển động
chậm đến mức, ở trạng thái cân bằng nhiệt
trong môi trường khí, chúng có thể tương ứng
với nhiệt độ chỉ vài micro Kenvin. Điều đó
được thực hiện bằng cách cho chúng vào để
làm nguội bằng laser thông qua một tập hợp
các hệ thống được thiết kế rất thông minh do
Steven Chu,
Claude Cohen-Tannoudji
và
William D. Phillips thực hiện khi
nhóm này nghiên cứu thao tác lên các nguyên
tử thông qua quá trình va chạm với các quang
tử laser. Công trình của họ được nhìn nhận
bằng giải Nobel năm 1997, hứa hẹn những ứng
dụng quan trọng trong kĩ thuật đo lường bổ
sung thêm tính chính xác trong việc xác định
định lượng nguyên tử.

Hình3:(từtái) Kohn(1923-),
Kastler(1902-1984), Townes(1915-?), và
Raman(1888-1970)
Phân tử và plasma
Các phân tử tạo thành từ
các nguyên tử. Chúng tạo ra mức phức tạp
tiếp theo khi nghiên cứu các hệ nhiều hạt.
Nhưng các nghiên cứu phân tử thường được coi
như một nhánh của hóa học (ví dụ như giải
Nobel hóa học năm 1936 được trao cho
Petrus J. W. Debye), và hiếm khi
được trao giải Nobel về vật lý. Chỉ có một
ngoại lệ đó là công trình của Johannes
Diderik van der Waals, ông đã đưa ra các
phương trình trạng thái của các phân tử cho
chất khí khi tính đến tương tác lẫn nhau
giữa các phân tử và sự giảm thể tích tự do
gây ra bởi kích thước hữu hạn của chúng. Các
phương trình van der Waals là những điểm rất
quan trọng trong việc mô tả quá trình ngưng
tụ của các chất khí thành chất lỏng. Ông
nhận giải Nobel vật lý năm 1910.
Jean B. Perrin nghiên cứu chuyển
động của các hạt nhỏ lơ lửng trong nước và
nhận giải Nobel năm 1926. Nghiên cứu của ông
cho phép khẳng định lý thuyết thống kê của
Einstein về chuyển động Brown cũng như các
định luật điều khiển quá trình cân bằng của
các hạt lơ lửng trong chất lỏng khi chịu tác
dụng của trọng lực.
Năm 1930, ngài
Sir C. Venkata Raman nhận giải
Nobel vật lý cho các quan sát của ông chứng
tỏ rằng ánh sáng tán xạ từ các phân tử bao
gồm các thành phần có tần số bị dịch chuyển
tương ứng với ánh sáng đơn sắc. Sự dịch
chuyển này gây bởi sự tăng hoặc giảm năng
lượng đặc trưng của phân tử khi chúng thay
đổi chuyển động quay hoặc dao động. Phổ
Raman nhanh chóng trơ thành nguồn thông tin
quan trọng cung về cấu trúc và động học phân
tử.
Plasma là trạng thái khí
của vật chất trong đó các nguyên tử hoặc
phân tử bị ion hóa rất mạnh. Lực điện từ
giữa các ion dương và giữa các ion và điện
tử đóng một vai trò nổi trội điều này làm
tăng tính phức tạp khi nghiên cứu plasma so
với nguyên tử hoặc phân tử trung tính. Năm
1940,
Hannes Alfvén đã chứng minh rằng
một loại chuyển động tập thể mới, gọi là
“sóng từ-thủy động lực học”
(magneto-hydrodynamical wave) có thể được
sinh ra trong các hệ plasma. Các sóng này
đóng một vai tròn quan trọng việc xác định
tính chất của plasma, trong phòng thí nghiệm
cũng như trong khí quyển trái đất và trong
vũ trụ. Alfvén nhận nửa giải Nobel năm 1970.
Vật lý chất rắn
Các tinh thể được đặc
trưng bởi sự xắp xếp đều đặn của các nguyên
tử. Sau khi phát hiện ra tia X không lâu,
Max von Laue nhận thấy rằng, các
tia X bị tán xạ khi đi qua các tinh thể chất
rắn giống như ánh sáng đi qua một cách tử
quang học (optical grating). Có hiện tượng
này là do bước sóng của tia X thông thường
trùng với khoảng cách giữa các nguyên tử
trong chất rắn.
Ngài William Henry Bragg (cha)
và
William Lawrence Bragg (con) lần đầu
tiên dùng tia X để đo khoảng cách giữa các
nguyên tử và phân tích sự sắp xếp hình học
của các nguyên tử trong các tinh thể đơn
giản. Vì các công trình tiên phong trong
việc nghiên cứu tinh thể học bằng tia X (mà
sau này được phát triển đến trình độ rất
cao), họ được trao giải Nobel vật lý, Laue
năm 1914 và cha con Bragg năm 1915.
Cấu trúc của tinh thể là
trạng thái ổn định nhất trong nhiều trạng
thái rắn mà nguyên tử có thể được xắp xếp
tại nhiệt độ và áp suất thông thường. Vào
những năm 30,
Percy W. Bridgman đã phát minh ra
các dụng cụ mà nhờ đó có thể nghiên cứu sự
thay đổi cấu trúc tinh thể, tính chất điện,
từ, nhiệt của chất rắn dưới áp suất cao. Rất
nhiều tinh thể thể hiện các chuyển pha dưới
các điều kiện đặc biệt như vậy. Sự sắp xếp
hình học của các nguyên tử bị thay đổi đột
ngột tại áp suất nhất định. Bridgman nhận
giải Nobel vật lý năm 1946 cho các phát minh
trong lĩnh vực vật lý áp suất cao.
Vào những năm 40, nhờ sự
phát triển của các máy phản ứng phân rã hạt
nhân, các nhà thực nghiệm có thể thu được
các neutron năng lượng thấp. Người ta cũng
thấy rằng, giống như tia X, các neutron cũng
rất hiệu quả trong việc xác định cấu trúc
tinh thể bởi vì bước sóng de Broglie của hạt
nhân cũng cỡ khoảng cách giữa các nguyên tử
trong chất rắn.
Clifford G. Shull đã có nhiều
đóng góp cho sự phát triển kĩ thuật nhiễu xạ
neutron trong việc xác định cấu trúc tinh
thể, và cũng cho biết rằng, sự sắp xếp của
các mô men từ nguyên tử trong các vật liệu
có trật tự từ có thể làm tăng nhiễu xạ
neutron, cung cấp một công cụ rất mạnh để
xác định cấu trúc từ.
Shull nhận giải Nobel vật
lý năm 1994 cùng với
Bertram N. Brockhouse, chuyên gia
về một khía cạnh khác của tán xạ neutron
trên chất rắn: khi các neutron kích thích
kiểu dao động phonon trong tinh thể gây ra
suy giảm năng lượng. Do đó, Brockhouse đã
phát triển máy phổ neutron 3 chiều, nhờ đó
có thể thu được toàn vẹn các đường cong tán
sắc (năng lượng của phonon là một hàm của
véc-tơ sóng). Các đường cong tương tự có thể
thu được đổi với dao động của mạng từ (kiểu
magnon).
John H. Van Vleck có đóng góp đặc
biệt cho lý thuyết từ học trong chất rắn vào
những năm sau khi ra đời cơ học lượng tử.
Ông đã tính toán các ảnh hưởng của liên kết
hóa học lên các nguyên tử thuận từ và giải
thích sự phụ thuộc vào nhiệt độ và từ trường
ngoài của tính chất từ. Đặc biệt ông đã phát
triển lý thuyết trường tinh thể của các hợp
chất của các kim loại chuyển tiếp, đó là
điều vô cùng quan trọng trong việc tìm hiểu
các tâm hoạt động trong các hợp chất dùng
cho vật lý laser cũng như sinh học phân tử.
Ông cùng nhận giải Nobel vật lý với Philip
W. Anderson và ngài Nevill F. Mott (xem dưới
đây).
Các nguyên tử từ tính có
thể có các mô men từ sắp xếp theo cùng một
phương trong một thể tích nhất định (vật
liệu như vậy được gọi là vật liệu sắt từ),
hoặc các mô men có cùng độ lớn nhưng lại sắp
xếp đan xen “thuận” rồi đến “nghịch” (vật
liệu phản sắt từ), hoặc sắp xếp đan xen
nhưng độ lớn lại khác nhau (vật liệu ferri
từ,…).
Louis E. F. Néel đã đưa ra các mô
hình cơ bản mô tả các vật liệu phản sắt từ
và ferri từ, đó là các thành phần quan trọng
trong nhiều dụng cụ chất rắn. Các vật liệu
đó được nghiên cứu rất nhiều bằng kĩ thuật
nhiễu xạ neutron đã nói trên đây. Néel nhận
một nửa giải Nobel vật lý năm 1970.
Trật tự của các nguyên tử
trong tinh thể chất rắn cũng như rất nhiều
loại trật tự từ khác nhau là những ví dụ của
các hiện tượng trật tự nói chung trong tự
nhiên khi các hệ sắp xếp sao cho có lợi về
mặt năng lượng bằng cách chọn những trạng
thái đối xứng nhất định. Các hiện tượng tới
hạn, là các hiện tượng mà tính đối xứng sắp
bị thay đổi (ví dụ khi nhiệt độ thay đổi
chẳng hạn), có tính phổ quát cao cho các
loại chuyển pha khác nhau, mà trong đó bao
gồm cả chuyển pha từ.
Kenneth G. Wilson, người nhận
giải Nobel vật lý năm 1982, đã phát triển
một lý thuyết gọi là lý thuyết tái chuẩn hóa
(renormalization theory) cho các hiện tượng
tới hạn liên hệ với các chuyển pha, một lý
thuyết còn được ứng dụng trong lý thuyết
trường của vật lý hạt cơn bản.
Các tinh thể lỏng tạo ra
một lớp vật liệu đặc biệt có rất nhiều đặc
tính lý thú, trên cả quan điểm tương tác cơ
bản trong chất rắn cũng như các ứng dụng kĩ
thuật.
Pierre-Gilles de Gennes đã phát
triển lý thuyết cho tinh thể lỏng và sự
chuyển giữa các pha có độ trật tự khác nhau.
Ông cũng sử dụng cơ học thống kê để mô tả sự
sắp xếp và động lực học của các chuỗi
polymer, và bằng cách đó cho thấy rằng, các
phương pháp được phát triển cho các hiện
tượng trật tự trong các hệ đơn giản có thể
được khái quát hóa cho các hệ phức tạp có
mặt trong “chất rắn mềm”. Vì đóng góp đó,
ông nhận giải Nobel vật lý năm 1991.
Một dạng chất lỏng đặc
biệt đã được quan tâm nghiên cứu đó là chất
lỏng hê-li. Tại áp suất thông thường, hê-li
là chất hóa lỏng ở nhiệt độ thấp nhất. Hê-li
cũng có hiệu ứng đồng vị mạnh nhất, từ hê-li
(4) hóa rắn ở nhiệt độ 4.2 độ Kenvin, cho
đến hê-li (3) hóa rắn ở nhiệt độ 3.2 độ
Kenvin.
Heike Kamerlingh-Onnes là người
đầu tiên hóa lỏng hê-li vào năm 1909. Ông
nhận giải Nobel vật lý năm 1913 cho các kết
quả của hê-li lỏng và cho các nghiên cứu của
ông về tính chất của vật chất tại nhiệt độ
thấp.
Lev D. Landau đã đưa ra các khái niệm cơ
bản (ví dụ như chất lỏng Landau) liên quan
đến các hệ nhiều hạt trong chất rắn và áp
dụng các khái niệm đó vào lý thuyết hê-li
lỏng để giải thích các hiện tượng đặc biệt
của hê-li (4) như là hiện tượng siêu chảy
(xem dưới đây), kích thích “roton”, và các
hiện tượng âm học. Ông được trao giải Nobel
năm 1962.
Vào những năm 20 và 30,
Pyotr L. Kapitsa đã phát triển
một số kĩ thuật thực nghiệm để thực hiện và
nghiên cứu các hiện tượng ở nhiệt độ thấp.
Ông nghiên cứu nhiều khía cạnh của hê-li (4)
lỏng và cho thấy rằng hê-li lỏng có tính
siêu chảy (tức là chảy không có ma sát) khi
nhiệt độ thấp hơn 2.2 độ Kenvin. Sau này
hiện tượng siêu chảy được hiểu là sự thể
hiện của mối liên hệ lượng tử giữa hiện
tượng ngưng tụ Bose-Einstein (được tiên đoán
bằng lý thuyết vào năm 1920) và nhiều tính
chất giống như trạng thái siêu dẫn của điện
tử trong một số chất dẫn điện đặc biệt.
Kapitsa được trao một nửa giải Nobel vật lý
năm 1978.
Hê-li (3) thì lại thể
hiện các hiện tượng đặc biệt, vì mỗi hạt
nhân hê-li có spin khác không chứ không
giống như hê-li (4). Do đó, nó giống như là
các hạt fermion và không bị ngưng tụ
Bose-Einstein như các hạt boson. Tuy vậy,
giống như các vật liệu siêu dẫn (xem dưới
đây), các cặp hạt có spin bán nguyên có thể
tạo thành các hạt “giả boson” và có thể bị
ngưng tụ gây nên trạng thái siêu chảy. Hiện
tượng siêu chảy của hê-li (3) xảy ra tại
nhiệt độ thấp hơn của hê-li (4) hàng ngàn
lần và đã được
David M. Lee,
Douglas D. Osheroff và
Robert C. Richardson phát hiện
ra, họ nhận giải Nobel vật lý năm 1996. Họ
đã quan sát thấy các pha siêu chảy khác nhau
cho thấy cấu trúc xoáy phức tạp và các hiện
tượng lượng tử rất thú vị.
Các điện tử trong chất
rắn có thể bị định xứ ở xung quanh các
nguyên tử của chúng trong các chất cách
điện, hoặc chúng có thể chuyển động qua lại
giữa các vị trí của các nguyên tử trong các
chất dẫn điện hoặc chất bán dẫn. Vào đầu thế
kỉ 20, người ta biết rằng các kim loại có
thể phát ra các điện tử khi bị nung nóng,
nhưng người ta không biết điện tử phát ra là
do bị kích thích nhiệt hay là do các tương
tác hóa học với môi trường khí xung quanh.
Bằng các thực nghiệm tiến hành trong môi
trường có chân không cao, cuối cùng,
Owen W. Richardson đã xác định
rằng sự phát xạ của điện tử là do hiệu ứng
nhiệt và ông cũng thiết lập định luật phân
bố của của các điện tử theo vận tốc. Và do
đó, Richardson nhận giải Nobel năm 1928.
Cấu trúc điện tử xác định
các tính chất điện, từ và quang của chất rắn
và nó còn có vai trò quan trọng đến tính
chất cơ và nhiệt nữa. Một trong những nhiệm
vụ quan trọng của các nhà vật lý thế kỉ 20
là đo trạng thái và động học của các điện tử
và mô hình hóa các tính chất của chúng để
hiểu các tổ chức của các điện tử trong các
loại chất rắn khác nhau. Điều rất tự nhiên
là các hiện tượng khác thường đã thu hút
mạnh mẽ các nhà vật lý chất rắn. Điều đó
được phản ánh trong giải Nobel vật lý: vài
giải đã được trao các các phát hiện liên
quan đến siêu dẫn và các hiện tượng đặc biệt
thể hiện trong một số chất bán dẫn.
Siêu dẫn lần đầu tiên
được phát hiện từ rất sớm, từ năm 1911.
Kamerlingh-Onnes đã thấy rằng điện trở của
thủy ngân giảm xuống nhỏ hơn một phần tỉ giá
trị bình thường khi bị làm lạnh thấp hơn một
nhiệt độ chuyển pha Tc khoảng 4 độ Kenvin.
Như được nhắc ở phần trên, ông đã nhận giải
Nobel năm 1913. Tuy vậy, một thời gian dài
người ta không hiểu tại sao các điện tử có
thể chuyển động mà không bị cản trở trong
các chất siêu dẫn tại nhiệt độ thấp. Nhưng
vào đầu những năm 60,
Leon N. Cooper,
John Bardeen và
J. Robert Schrieffer đã đưa ra lý
thuyết dựa trên ý tưởng là các cặp điện tử
(có spin và hướng chuyển động ngược nhau) có
thể giảm một lượng năng lượng Eg bằng cách
chia xẻ một cách chính xác cùng một độ biến
dạng của mạng tinh thể khi chúng chuyển
động. Các cặp Cooper này hành động giống như
các hạt boson. Sự tạo cặp
này cho phép chúng chuyển động như một chất
lỏng liên kết, không bị ảnh hưởng khi
các kích thích nhiệt (có năng lượng
là kT) nhỏ hơn năng lượng tạo thành khi kết
cặp (Eg). Lý thuyết
BCS này được trao giải Nobel vật lý năm
1972.
Đột phá trong việc hiểu
cơ sở cơ học lượng tử này dẫn đến các tiến
bộ trong các mạch siêu dẫn:
Brian D. Josephson đã phân tích
sự dịch chuyển của các hạt tải điện giữa hai
kim loại siêu dẫn được ngăn cách bởi một lớp
vật liệu dẫn điện thường rất mỏng. Ông tìm
thấy rằng pha lượng tử xác định tính chất
dịch chuyển là một hàm dao động của điện thế
bên ngoài đặt lên chuyển tiếp này. Hiệu ứng
Josephson có các ứng dụng quan trọng trong
các phép đo chính xác vì nó thiết lập mối
liên hệ giữa điện thế và tần số. Josephson
nhận một nửa giải Nobel vật lý năm 1973.
Ivar Giaever, người đã phát minh và nghiên
cứu các tính chất chi tiết của “chuyển tiếp
đường ngầm” (tunnel junction) (một hệ thống
điện tử dựa trên chất siêu dẫn) chia nhau
một nửa giải còn lại với
Leo Esaki cho công trình nghiên cứu về
hiệu ứng đường ngầm trong chất bán dẫn (xem
dưới đây).
Mặc dầu có khá nhiều các
hợp kim và hợp chất siêu dẫn được phát hiện
trong khoảng 75 năm sau phát hiện của
Kamerlingh-Onnes, hiện tượng siêu dẫn mãi
được xem như là hiện tượng chỉ xảy ra tại
nhiệt độ thấp, với nhiệt độ chuyển pha siêu
dẫn thấp hơn 20 độ Kenvin. Cho nên khi
J. Georg Bednorz và
K. Alexander Müller cho thấy rằng
Ô-xít Lanthan-đồng có pha thêm Ba-rri có
nhiệt độ chuyển pha là 35 độ Kenvin thì mọi
người rất ngạc nhiên. Và ngay sau đó, các
phòng thí nghiệm khác công bố các hợp chất
có cấu trúc tương tự như thế có tính siêu
dẫn ở nhiệt độ khoảng 100 độ Kenvin. Phát
hiện về “siêu dẫn nhiệt độ cao” này khởi
động một làn sóng trong vật lý hiện đại: tìm
hiểu cơ chế cơ bản cho tính siêu dẫn của các
vật liệu đặc biệt này. Bednorz
và Müller nhận
giải Nobel năm 1987.
Chuyển động của các điện
tử trong kim loại ở trạng thái dẫn điện bình
thường đã được mô hình hóa về lý thuyết đến
một độ phức tạp chưa từng có từ khi có mặt
của cơ học lượng tử. Một trong những bước
tiến lớn ban đầu là việc đưa vào khái niệm
sóng Bloch, hàm sóng được lấy tên của nhà
vật lý
Felix Bloch (người nhận nửa giải
Nobel vật lý năm 1952 cho công trình nghiên
cứu về cộng hưởng từ). Một khái niệm quan
trọng nữa là “chất lỏng điện tử” (electron
fluid) trong các chất dẫn điện do Lev Landau
(xem phần hê-li lỏng). Philip W. Anderson đã
có những đóng góp quan trọng vào lý thuyết
cấu trúc điện tử của các kim loại, đặc biệt
là các bất đồng nhất trong các hợp kim và
các nguyên tử từ tạp chất trong các kim
loại. Nevill F. Mott đã nghiên cứu các điều
kiện chung cho tính dẫn điện của điện tử
trong chất rắn và đưa ra các công thức xác
định các điểm mà một chất bán dẫn biến thành
một chất dẫn điện (chuyển pha Mott) khi
thành phần hoặc các thông số bên ngoài bị
thay đổi. Anderson và Mott chia nhau một nửa
giải Nobel năm 1977 và một nửa giải được
trao cho John H. Van Vleck cho các nghiên
cứu lý thuyết về cấu trúc điện tử của các hệ
từ và mất trật tự.
Một giải Nobel vật lý
trước đây (1920) đã được trao cho
Charles E. Guillaume cho phát
hiện cho thấy rằng giãn nở nhiệt của một số
thép ni-ken (hợp kim được
gọi là invar)
bằng không. Giải Nobel này được trao chủ yếu
bởi tầm quan trọng của các hợp kim invar
trong các phép đo chính xác được dùng trong
vật lý, ngành đo đạc và đặc biệt là thước
mét chuẩn được đặt ở Paris. Các hợp kim này
được dùng rất rộng rãi trong các dụng cụ có
độ chính xác cao như là đồng hồ, … Các cơ sở
lý thuyết về sự phụ thuộc vào nhiệt độ của
độ giãn nở chỉ mới được giải thích gần đây.
Và mới đây (1998),
Walter Kohn nhận giải Nobel hóa học cho
các phương pháp của ông khi xử lý các tương
quan trao đổi lượng tử , mà nhờ đó người ta
có thể vượt qua các giới hạn trong tính toán
cấu trúc điện tử trong chất rắn và các phân
tử.
Trong các chất bán dẫn,
độ linh động của các điện tử bị giảm đi rất
mạnh do có sự tồn tại của vùng cấm năng
lượng đối với các điện tử gọi là các khe
năng lượng. Sau khi người ta hiểu được vai
trò cơ bản của các tạp chất cho điện tử và
nhận điện tử trong si-líc siêu sạch (và sau
này còn có các vật liệu khác), các chất bán
dẫn được sử dụng làm các bộ phận trong điện
kĩ thuật.
William B. Shockley,
John Bardeen (xem thêm lý thuyết
BCS) và
Walter H. Brattain đã tiến hành
các nghiên cứu cơ bản về siêu dẫn và đã phát
triển transistor loại một. Đó là bình minh
của kỉ nguyên “linh kiện điện tử”. Họ cùng
nhận giải Nobel năm 1956.
Sau này
Leo Esaki đã phát triển đi-ốt
đường ngầm, một linh kiện điện tử có điện
trở vi phân âm, đó là một tính chất kĩ thuật
rất thú vị. Nó tạo thành từ hai chất bán dẫn
pha tạp loại “n” và loại “p”, có một đầu dư
điện tử và một đầu khác thiếu điện tử. Hiệu
ứng đường ngầm xuất hiện khi điện thế dịch
lớn hơn khe năng lượng trong các chất bán
dẫn. Ông chia giải Nobel vật lý năm 1973 với
Brian D. Josephson.
Với kĩ thuật hiện đại,
người ta có thể tạo các màng mỏng cấu trúc
xác định từ các vật liệu bán dẫn và chúng
thể tiếp xúc trực tiếp với nhau. Với cấu
trúc không đồng nhất như vậy, con người
không bị giới hạn vào các khe năng lượng
trong các chất bán dẫn như si-lic hoặc
germani nữa. Herbert Kroemer đã phân tích lý
thuyết về độ linh động của các điện tử và lỗ
trống trong các chuyển tiếp không đồng nhất.
Lý thuyết của ông dẫn đến việc tạo ra các
transistor với các đặc trưng được cải tiến
rất nhiều mà sau này gọi là HEMT (high
electron mobility transistors – transistor
có độ linh động điện tử cao), các HEMT rất
quan trọng đối với các linh kiện điện tử tốc
độ cao ngày nay. Kroemer cũng giả thiết rằng
các cấu trúc không đồng nhất kép có thể tạo
điều kiện cho hoạt động của laser, cùng
khoảng thời gian với Zhores I. Alferov đưa
ra ý tưởng như thế. Sau này Alferov đã tạo
ra laser bán dẫn xung đầu tiên vào năm 1970.
Sự kiện này là điểm khởi đầu của kỉ nguyên
các dụng cụ quang điện hiện nay đang dùng
trong các đi-ốt laser, đầu đọc đĩa CD, đầu
đọc mã vạch và cáp quang viễn thông. Và gần
đây, Alferov và Kroemer chia nhau một nửa
giải Nobel vật lý năm 2000, một nửa giải còn
lại về tay Jack S. Kilby, đồng phát minh
mạch điện tử tích hợp (xem phần sau Vật lý
và Kĩ thuật).
Khi áp một thế điện cực
lên các hệ cấu trúc không đồng nhất, người
ta có thể tạo ra “các màng ngược” (inversion
layers), trong đó các hạt tải điện chỉ
chuyển động trong không gian hai chiều. Các
màng như vậy lại hóa ra có các tính chất rất
thú vị và kì lạ. Năm 1982,
Klaus von Klitzing phát hiện ra
hiệu ứng Hall lượng tử. Khi một từ trường
mạnh đặt vuông góc với mặt phẳng của màng
giả hai chiều, thì các điều kiện lượng tử
lại không tăng một cách tuyến tính với sự
tăng của từ trường mà lại tăng một cách nhảy
bậc ở biên của mẫu. Điện trở Hall giữa các
bậc này có giái trị h/ie2 trong đó i là các
số nguyên tương ứng với các quĩ đạo điện tử
bị lượng tử hóa. Hiệu ứng này cho phép có
thể đo tỉ số giữa các hằng số cơ bản rất
chính xác, nó có hệ quả quan trọng trong kĩ
thuật đo lường, von Klitzing nhận giải Nobel
vật lý năm 1985.
Một ngạc nhiên nữa đến
ngay sau khi
Daniel C. Tsui và
Horst L. Störmer thực hiện các nghiên
cứu kĩ hơn về hiệu ứng Hall lượng tử sử dụng
các màng ngược trong các vật liệu siêu sạch.
Trạng thái ổn định xuất hiện trong hiệu ứng
Hall không chỉ đối với từ trường tương ứng
với sự lấp đầy của các quĩ đạo bởi một, hai,
ba v.v. giá trị điện tích của điện tử mà còn
đối với các điện tích không nguyên!. Điều
này chỉ có thể hiểu được dựa vào một khái
niệm về chất lỏng lượng tử (quantum fluid)
mà ở đó chuyển động của các điện tử độc lập
có điện tích e được thay thế bởi các kích
thích trong một hệ nhiều hạt mà hệ này cư xử
(trong một từ trường mạnh) như thể các điện
tích có giá trị e/3, e/5,… tham gia vào.
Robert B. Laughlin phát triển lý thuyết
mô tả trạng thái mới của vật chất này và
chia giải Nobel vật lý năm 1998 với Tsui and
Störmer.
Đôi khi các phát hiện
trong một lĩnh vực của vật lý hóa ra lại có
các ứng dụng quan trọng trong các lĩnh vực
vật lý khác. Một ví dụ liên quan đến vật lý
chất rắn đó là quan sát của
Rudolf L. Mössbauer vào cuối
những năm 50. Hạt nhân của nguyên từ hấp thụ
có thể bị kích thích cộng hưởng bởi các tia
gamma phát ra từ các nguyên tử phát xạ được
chọn một cách hợp lý khi các nguyên tử trong
cả hai trường hợp được bắn ra sao cho sự
giật lùi của chúng loại trừ nhau. Năng lượng
bị lượng tử hóa của hạt nhân trong điện từ
trượng nội của chất rắn đó có thể được xác
định vì năng lượng đó tương ứng với các vị
trí khác nhau của sự cộng hưởng mà sự cộng
hưởng này rất sắc nét. Phát hiện này trở nên
quan trọng trong việc xác định cấu trúc điện
từ của nhiều vật liệu và Mössbauer nhận một
nửa giải Nobel vật lý năm 1961 cùng với R.
Hofstadter.

Hình4:(từ trái)
Landau(1908-1960), Klitzing(1943-),
Glaser(1926-), và Einstein(1879-1955)
Vật lý và kĩ thuật
Rất nhiều các phát minh
thực nghiệm và lý thuyết được nhắc cho đến
nay có một ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
của các dụng cụ kĩ thuật bằng việc mở ra
những lĩnh vực vật lý hoàn toàn mới hoặc đưa
ra các ý tưởng để có thể tạo ra các dụng cụ
kĩ thuật. Các ví dụ rất dễ thấy là công
trình của Shockley, Bardeen, và Brattain mà
dẫn đến transitor và khởi đầu cuộc cách mạng
điện tử; các nghiên cứu cơ bản của Townes,
Basov, và Prokhorov dẫn đến việc phát triển
maser và laser. Cũng nên nhắc lại rằng các
máy gia tốc hạt hiện nay là các công cụ rất
quan trọng trong một vài lĩnh vực khoa học
vật liệu và y học. Các công trình khác được
vinh danh bằng giải Nobel ngày càng có thiên
hướng về mặt kĩ thuật hoặc chúng có tầm quan
trọng đặc biệt trong việc xây dựng các linh
kiện để phát triển ngành liên lạc và thông
tin.
Một giải Nobel cách đây
khá lâu (1912) đã được trao cho
Nils Gustaf Dalén cho phát minh
về “van mặt trời” (sun-valve) tự động được
dùng rộng rãi trong các cột mốc và phao
trong ngành hàng hải. Phát minh đó dựa trên
sự khác nhau về bức xạ nhiệt từ các vật có
độ phản xạ ánh sáng khác nhau: một trong số
ba thanh song song trong dụng cụ của ông có
màu đen, điều này làm tăng sự sai khác trong
việc hấp thụ nhiệt và dãn nở nhiệt của các
thanh trong thời gian mặt trời chiếu vào.
Hiệu ứng này được dùng để ngắt nguồn cấp khí
tự động vào ban ngày và làm giảm nhiều nhu
cầu bảo dưỡng trên biển.
Các dụng cụ và kĩ thuật
quang là những chủ đề cho vài giải Nobel.
Khoảng đầu thế kỉ 20,
Gabriel Lippmann đã phát triển
một phương pháp chụp ảnh màu sử
dụng hiệu ứng giao thoa ánh sáng. Một chiếc
gương được đặt tiếp xúc với một thể nhũ
tương nhạy quang phủ trên một tấm kim loại
sao cho khi chúng bị chiếu sáng, ánh sáng
phản xạ trong chiếc gương sẽ làm tăng sóng
đứng trong thể nhũ tương đó. Việc tráng ảnh
làm cho các hạt bạc (trong thể nhũ tương đó)
bị phân tầng khi gương chiếu sáng lên tấm
kim loại và ảnh tạo thành có màu sắc tự
nhiên như thật. Giải Nobel năm 1908 được
trao cho Lippmann. Không may, phương pháp
của Lippmann mất nhiều thời gian phơi sáng.
Sau này phương pháp đó bị thay thế bằng các
kĩ thuật nhiếp ảnh khác nhưng nó lại có
nhiều ứng dụng trong kĩ thuật tạo ảnh ba
chiều chất lượng cao.
Trong hiển vi quang học,
Frits Zernike cho thấy rằng thậm
chí các vật hấp thụ bức xạ rất yếu (trong
suốt khi nhìn bằng mắt thường) có thể nhìn
thấy được nếu chúng tạo thành từ những vùng
có hệ số khúc xạ ánh sáng khác nhau. Trong
kính “hiển vi nhạy pha” (phase-contrast
microscope) của Zernike, người ta có thể
phân biệt các vệt sáng có pha bị thay đổi
khi đi qua các vùng không đồng nhất. Kính
hiển vi loại này có tầm quan trọng đặc biệt
trong việc quan sát các mẫu sinh học.
Zernike nhận giải Nobel vật lý năm 1953. Vào
những năm 40,
Dennis Gabor đề ra nguyên lý ảnh ba
chiều. Ông tiên đoán rằng nếu tia sáng tới
có thể giao thoa với tia phản xạ từ một mảng
hai chiều thì có thể tạo được một ảnh ba
chiều của vật thể. Tuy vậy, việc thực hiện ý
tưởng này phải đợi đến khi laser được phát
hiện. Laser có thể cung cấp ánh sáng cố kết
cần thiết cho quan sát hiện tượng giao thoa
nói ở trên. Gabor nhận giải Nobel năm 1971.
Hiển vi điện tử có ảnh
hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khoa học
tự nhiên. Ngay sau khi C. J. Davisson and G.
P. Thomson phát hiện ta bản chất sóng của
điện tử, người ta nhận thấy rằng bước sóng
ngắn của điện tử năng lượng cao có thể làm
tăng độ phân giải so với hiển vi quang học.
Ernst Ruska tiến hành các nghiên
cứu cơ bản về quang điện tử và thiết kế kính
hiển vi điện tử đầu tiên họat động vào những
năm đầu của thập niên 30. Nhưng cũng phải
mất hơn 50 sau ông mới nhận giải Nobel vật
lý.
Ruska nhận một nửa giải
Nobel vật lý vào năm 1986, nửa giải còn lại
được chia đều cho
Gerd Binnig và
Heinrich Rohrer, hai người đã
phát triển một phương pháp khác hẳn để thu
được các bức ảnh với độ phân giải cực cao.
Phương pháp của họ được ứng dụng trong
nghiên cứu bề mặt chất rắn và dựa trên hiệu
ứng đường ngầm của các điện tử. Các điện tử
của các nguyên tử ở một đầu kim loại rất
nhọn có thể chui sang các nguyên tử từ trên
bề mặt chất rắn khi đầu nhọn kim loại đó
được di chuyển đến rất gần bề mặt (khoảng 1
nm). Bằng cách giữ cho dòng điện tử chui
ngầm đó cố định và di chuyển đầu nhọn theo
bề mặt chất rắn, người ta có thể có được bức
ảnh ba chiều của bề mặt chất rắn cần nghiên
cứu. Bằng phương pháp này, ta có thể nhìn
thấy từng nguyên tử trên bề mặt.
Viễn thông là một trong
những thành tựu kĩ thuật vĩ đại của thế kỉ
20. Vào những năm 90 thế kỉ 19,
Guglielmo Marconi đã làm thí
nghiệm với sóng điện từ của Hetz mới được
phát hiện vào lúc đó. Ông là người đầu tiên
liên lạc một trong những trạm phát sóng trên
mặt đất với một “ăng-ten” đặt trên cao có
vai trò tương tự như một trạm thu sóng.
Trong khi các thí nghiệm đầu tiên của Hetz
được tiến hành trong phạm vi phòng thí
nghiệm thì Marconi đã mở rộng khoảng cách
truyền tín hiệu đến vài km.
Carl Ferdinand Braun (cha đẻ của
ống
Braunian, dao động kế chùm ca-tốt
đầu tiên – cathode ray oscilloscope) đã thực
hiện một cải tiến, ông đưa mạch cộng hưởng
vào các máy phát dao động của Hetz. Độ hòa
âm và khả năng tạo các dao động mạnh không
bị chặn làm tăng dải truyền sóng, và vào năm
1901, Marconi đã thành công trong việc thu
phát sóng vô tuyết vượt Đại Tây Dương.
Marconi và Braun cùng nhận giải Nobel vật lý
năm 1909. Vào thời điểm này, người ta vẫn
không hiểu làm thế nào mà sóng vô tuyến có
thể truyền với những khoảng cách xa (thực
tế, chúng có thể truyền đến bên kia trái
đất), nhớ rằng mọi người đều biết sóng vô
tuyến có bản chất giống ánh sáng, chúng
truyền theo đường thẳng trong không gian.
Cuối cùng thì ngài Edward V. Appleton đã
chứng minh bằng thực nghiệm cho thấy một giả
thiết trước đó của Heaviside và Kennelly về
sóng vô tuyến bị phản xạ giữa các lớp không
khí có độ dẫn khác nhau trong khí quyển là
đúng. Appleton đã đo giao thoa của sóng trực
tiếp và sóng phản xạ với các bước sóng khác
nhau và có thể xác định độ cao của các lớp
Heaviside, hơn nữa ông còn tìm ra một lớp
nữa cao hơn lớp Heaviside gọi là các lớp
Appleton. Appleton nhận giải Nobel vật lý
năm 1947.
Các tiến bộ trong vật lý
hạt nhân và vật lý hạt phụ thuộc rất nhiều
vào kĩ thuật cao (và đôi khi lại thúc đẩy kĩ
thuật phát triển). Điều này được minh họa
bằng các công trình của Cockcroft và Walton
cho việc phát triển máy gia tốc tĩnh điện
tuyến tính (linear electrostatic
accelerator) và các công trình của Lawrence
cho phát triển cyclotron tĩnh điện tuyến
tính. Việc ghi nhận các hạt năng lượng cao
cũng là một thử thách kĩ thuật, thành công
trong vấn đề đó đã được ghi nhận bằng vài
giải Nobel.
Giải Nobel vật lý năm
1958 được chia cho
Pavel A. Cherenkov,
Il'ja M. Frank và
Igor Y. Tamm cho các phát hiện và
giải thích của họ về hiệu ứng Cherenkov. Đó
là sự phát xạ ánh sáng trong một nón có góc
mở đặc biệt xung quanh hướng của hạt mang
điện, khi vận tốc của nó vượt vận tốc ánh
sáng trong môi trường
mà nó chuyển động. Vì góc nón này có thể
được sử dụng để xác định vận tốc của hạt,
công trình của các nhà vật lý này nhanh
chóng trở thành cơ sở cho sự phát triển các
đầu thu rất hiệu quả.
Việc nhìn thấy đường đi
của các hạt trong các phản ứng là cần thiết
để giải thích các sự kiện xảy ra khi năng
lượng cao. Các thí nghiệm ban đầu với năng
lượng tương đối thấp sử dụng các vết để lại
trên giấy ảnh.
Charles T. R. Wilson đã phát
triển một buồng, trong đó người ta có thể
nhìn thấy các hạt vì chúng để lại các vết do
ion hóa khí. Trong buồng Wilson, khí có thể
dãn nở rất nhanh, điều này làm giảm nhiệt độ
và dẫn đến hóa đặc hơi xung quanh các điểm
bị ion hóa, các hạt này có thể nhìn thấy khi
chiếu sáng mạnh. Wilson nhận nửa giải Nobel
vật lý năm 1927 với Arthur H. Compton.
Các bước tiến tiếp theo
trên cùng hướng nghiên cứu nói trên đã được
thực hiện khi
Donald A. Glaser phát minh ra
“buồng bọt” (bubble chamber). Vào những năm
50, các máy gia tốc đã đạt năng lượng từ 20
– 30 tỉ eV và các phương pháp thu hạt trước
đó không còn phù hợp nữa; độ dài của các vết
khí đã quá dài đối với buồng Wilson. Các hạt
nhân nguyên tử trong buồng bọt (thường chứa
hidro lỏng) được dùng như cái bia, và vết do
hạt tạo thành có thể được theo dõi. Tại
nhiệt độ hoạt động, chất lỏng bị quá nóng và
bất kì một hiện tượng gián đoạn nào, như
vùng ion hóa, ngay lập tức hình thành các
bọt nhỏ.
Luis W. Alvarez đã tiến hành các
cải tiến quan trọng đặc biệt là các cải tiến
liên quan đến kĩ thuật ghi và phân tích dữ
liệu. Công trình của ông đã đóng góp vào
việc mở rộng số các hạt cơ bản, đặc biệt là
các “cộng hưởng”, cái sau này được hiểu là
các trạng thái kích thích của các hệ gồm các
quark và gluon. Glaser nhận giải Nobel vật
lý năm 1960 và Alvarez năm 1968.
Cho đến tận cuối những
năm 80, các buồng bọt vẫn là các con ngựa
sắt cho các phòng thí nghiệm vật lý năng
lượng cao nhưng sau đó chúng bị thay thế bởi
các hệ đầu thu điện tử. Bước
phát triển mới nhất về
đầu thu các hạt này được nhìn nhận
bằng một giải Nobel (1992) là công trình của
Georges Charpak. Ông đã nghiên
cứu chi tiết quá trình ion hóa trong chất
khí và đã sáng tạo ra “buồng dây” (wire
chamber), một đầu thu chứa khí trong đó các
dây được bố trí dày đặc để thu các tín hiệu
điện gần các điểm ion hóa, nhờ đó có thể
quan sát được đường đi của hạt. Buồng dây và
các biến thể của nó, buồng chiếu thời gian
và một số tổ hợp tạo thành từ buồng dây/phát
xung ánh sáng/Cherenkov tạo thành các hệ
thống phức tạp cho phép tiến hành các nghiên
cứu chọn lọc cho các hiện tượng cực hiếm
(như việc hình thành các quark nặng), tín
hiệu của các hiện tượng này thường bị lẫn
trong các nền nhiễu mạnh của các tín hiệu
khác.
Giải Nobel đầu tiên của
thiên niên kỉ mới (2000) được trao cho Jack
S. Kilby vì các thành tựu đặt nền tảng cho
công nghệ thông tin hiện nay. Vào năm 1958,
ông đã chế tạo mạch tích hợp đầu tiên mà
trong đó các chi tiết điện tử được xây dựng
trong một thực thể duy nhất tạo thành từ vật
liệu bán dẫn, sau này gọi là các “chip”.
Điều này mở ra con đường thu nhỏ kích thước
và sản xuất hàng loạt các mạch điện tử. Kết
hợp với việc phát triển các linh kiện dựa
trên các cấu trúc không đồng nhất mô tả
trước đây (nhờ đó mà Alferov và Kroemer được
nhận một nửa giải Nobel), mạch tích hợp dẫn
đến cuộc “cách mạng công nghệ thông tin” đã
thay đổi rất nhiều xã hội của chúng ta ngày
nay.
Các ghi nhận
Khi đọc bài tóm tắt này,
bạn đọc nên nhớ rằng số giải Nobel bị giới
hạn (theo qui định hiện nay, nhiều nhất là 3
người có thể cùng nhận giải hàng năm). Cho
đến năm 2000, 163 người đã nhận giải thưởng
cho các thành tựu trong vật lý. Thông
thường, trong quá trình chọn lọc, ủy ban
trao giải phải loại bớt một số các đóng góp
quan trọng “gần Nobel” khác. Vì các lý do dễ
nhận thấy, bản tóm tắt này không thể nhắc
đến các đóng góp này. Tuy vậy, một điều rất
thật là một bản kê khai tương đối chặt chẽ
sự phát triển của vật lý có thể được nêu lên
và có thể được coi như là một sự chứng nhận
cho thấy rằng các giải Nobel vật lý đã đề
cập đến phần lớn các phát hiện quan trọng
trong chuyến thám hiểm hấp dẫn tới một sự
hiểu biết về thế giới chúng ta đang sống dựa
trên các ý tưởng và thực nghiệm do những
người được giải Nobel thực hiện.
Đây là một chương
trong cuốn sách “Các giải Nobel: 100 năm đầu
tiên”, tác giả Erik B. Karlsson, chủ
biên Agneta Wallin Levinovitz và Nils
Ringertz, nhà xuất bản ĐH Imperial và World
Scienctific ấn hành năm 2001.
Bổ sung:
Giải Nobel vật lý năm
2001 được trao cho Eric A. Cornell,
Wolfgang Ketterle, và Carl E. Wieman vì
những thành tựu trong việc nghiên cứu hiện
tượng ngưng tụ Bose-Eistein mà đã được mô tả
ở phần trên. Nhờ công trình này mà các tiên
đoán lý thuyết của Bose và Eistein về một
trạng thái mới của vật chất được chứng minh
bằng thực nghiệm. Năm 1924, nhà vật lý Bose
đã thực hiện một tính toán quan trọng về các
hạt ánh sáng. Ông gửi các kết quả này cho
Eistein và Einstein đã mở rộng lý thuyết này
cho một số loại nguyên tử nhất định. Eistein
tiên đoán rằng, nếu khí tạo thành từ các
nguyên tử như vậy bị làm lạnh đến một nhiệt
độ rất thấp thì các nguyên tử đột ngột tập
hợp lại trong trạng thái có năng lượng cực
tiểu giống như các chất khí bình thường
ngưng tụ thành các chất lỏng. Do đó, hiện
tượng này gọi là hiện tượng ngưng tụ
Bose-Einstein. Và 70 năm sau, Cornell và
Wieman đã quan sát hiện tượng này khi làm
lạnh 2000 nguyên tử ru-bi đến nhiệt độ chỉ
bằng 2 phần tỉ độ trên nhiệt độ không tuyệt
đối. Độc lập với hai nhà vật lý trên,
Ketterle đã thực hiện các thí nghiệm với
nguyên tử Na và ông đã tiến hành với một số
nguyên tử lớn hơn và thu được nhiều kết quả
hơn. Ông chứng minh rằng hai trạng thái
ngưng tụ có thể lan truyền vào nhau và do đó
giao thoa với nhau giống như giao thoa của
sóng nước khi chúng ta ném hai hòn đá giống
nhau xuống nước cùng một lúc. Ketterle tạo
ra một luồng các hạt ngưng tụ có tính chất
giống laser nhưng khác ở chỗ laser loại này
được tạo thành từ hạt vật chất chứ không
phải tại thành từ hạt ánh sáng.
Giải Nobel vật lý năm
2002 được trao cho Riccardo Giacconi (một
nửa giải), Masatoshi Koshiba (1/4) và
Raymond Davis Jr. (1/4). Giải Nobel năm 2002
được trao cho những người có công tóm được
các hạt neutrino để cho chúng ta hiểu rõ hơn
những vật thể cực lớn như các vì sao, các
thiên hà,… Giacconi được nhận giải Nobel, vì
ông đã có những cống hiến lớn cho ngành vật
lý thiên văn. Từ những năm 1960, Giacconi đã
thiết kế chiếc kính thiên văn chụp tia X đầu
tiên. Sau này, kính thiên văn vệ tinh
Chandra đã kế thừa nền tảng nghiên cứu của
ông. Koshiba đã phát minh ra chiếc máy dò
neutrino khổng lồ đặt dưới lòng đất. Hệ
thống đó đã cung cấp những kiến thức mới về
hạt neutrino, hạt nó có thể đi qua cơ thể
chúng ta mà không để lại dấu vết gì. Tiến sĩ
Raymond Davis - người được xem là bậc tiền
bối số một của vật lý hạt. Davis đã chứng
minh được sự tồn tại của các hạt neutrino từ
những năm 1960, nhờ việc tạo ra các thiết bị
dò hạt nằm sâu 1,5 kilomét dưới lòng đất.
Giải Nobel vật lý năm
2003 được trao cho Abrikosov, Ginzburg, và
Leggett, vì có những cống hiến to lớn để cải
thiện hiểu biết của con người về hiện tượng
siêu dẫn và siêu lỏng. Tính chất siêu dẫn
cho phép vật liệu dẫn điện ở nhiệt độ cực
thấp mà không bị cản trở. Lý thuyết về loại
vật liệu này đã đặt nền tảng cho sự ra đời
của kỹ thuật chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI),
một phương pháp chẩn đoán không đau giúp các
bác sĩ nhìn sâu vào cơ thể người bệnh, được
sử dụng cho hàng triệu bệnh nhân mỗi năm.
Vật liệu siêu lỏng cũng tồn tại ở nhiệt độ
cực thấp, ngay trên độ không tuyệt đối. Khi
đó, nó mất tất cả đặc tính nhớt. Những hiểu
biết về loại vật liệu này có thể giúp chúng
ta nhìn sâu vào phản ứng của vật chất ở
trạng thái ổn định nhất.
David J. Gross, H. David
Politzer và Frank Wilczeck là chủ nhân của
giải Nobel Vật lý năm 2004 với những khám
phá về lực hạt nhân mạnh - loại lực giúp
liên kết các hạt nằm trong nhân nguyên tử.
Họ đã có những phát hiện quan trọng về mặt
lý thuyết "liên quan tới lực hạt nhân mạnh",
loại lực chủ yếu ở cấp độ nhân nguyên tử.
Các proton và nơtron không phải là thành
phần nhỏ nhất cấu tạo nên nguyên tử. Thay vì
thế, chính chúng lại được cấu thành từ ba
hạt nhỏ hơn, đó là các hạt quark. Lực hạt
nhân mạnh chính là lực giúp các quark “dính”
với nhau ở bên trong các proton và nơtron,
cũng như giữ chặt chính các hạt này với nhau
bên trong hạt nhân nguyên tử. Nghiên cứu của
ba nhà khoa học chỉ ra rằng không giống như
các lực khác, chẳng hạn lực điện từ hay lực
hấp dẫn (mạnh lên khi hai hạt tiến lại gần
nhau), lực hạt nhân mạnh lại suy yếu đi khi
hai quark tiến về một chỗ. Hiện tượng đó
giống như thể các hạt được nối với nhau bằng
một dải cao su, mà lực kéo giữa chúng càng
mạnh khi chúng càng ở xa nhau. Phát hiện của
ba nhà nghiên cứu, công bố năm 1973, "đã dẫn
đến lý thuyết sắc động học lượng tử - lý
thuyết góp phần quan trọng cho sự ra đời của
Mô hình Chuẩn". Mô hình chuẩn là lý thuyết
về các hạt cơ bản và cách thức chúng tương
tác với nhau. Nó mô tả tất cả các hiện tượng
vật lý có liên quan đến lực điện từ (tương
tác giữa các hạt tích điện), lực hạt nhân
yếu (chi phối quá trình phân rã phóng xạ) và
lực hạt nhân mạnh (tương tác giữa các
quark). |