Tháng
8 vừa qua, nhân Đại hội Thế giới họp tại Madrid, Liên hiệp Quốc tế các
nhà Toán học (IMU) đã trao tặng huy chương Fields (về toán học, tương
đương với giải Nobel), như thường lệ bốn năm một lần
(1).
Bốn người được giải : hai chuyên gia về tính xác suất Werner (Pháp) và
Okoundov (Nga) – công trình của họ cũng liên quan tới những ngành khác –
một nhà giải tích học và lí thuyết số người Úc gốc Hoa Terence Yao (Đào
Triết Hiên), và một người Nga nữa, nhà tô pô hình học Grigori Perelman
(viện Steklov, St-Petersburg). Phải nói là tiếng tăm của Perelman trên
các media quốc tế đã vượt xa ba đồng nghiệp. Tên tuổi của ông đã ra khỏi
lãnh vực khoa học thuần tuý, hiển hiện trên trang nhất của những nhật
báo lớn. Đây là lần đầu tiên toán học trở thành đề tài sôi nổi của báo
chí kể từ sự tích « anh hùng » của Andrew Wiles (chứng minh được định lí
« lớn » của Fermat), cuối thế kỉ XX. Cũng phải nói là trong « vụ
Perelman » này, có đầy đủ những tố chất « glamour » chẳng mấy khi tìm
thấy nơi các nhà toán học và bộ môn khắc khổ của họ : đầu tiên là sự
« hóc búa » phi thường của ức đoán Poincaré (bằng chứng là Viện Clay đã
xếp nó trong « 7 bài toán của thiên niên kỉ », và treo thưởng 1 triệu đô
la cho ai giải được một trong 7 bài ấy) ; sau đó là cá tính phi phàm của
chính Perelman, sau khi chứng minh xong đã từ chối, không nhận huy
chương Fields, và chắc cũng sẽ từ chối cả giải thưởng 1 triệu đô la ;
thêm vào đó là cuộc tranh cãi hơi bị nhầu về « ai trước ai », « ai hơn
ai » đang tác động tới sự « thanh cao » của toán học....
PERELMAN và POINCARE
Với ngoại hình như Rasputin, móng tay dài như đồ nho,
phong độ như ẩn sĩ, Grigory (Grisha, đối với người thân – nhưng biết ai
là « thân » ?) đúng là bức chân dung biếm hoạ của nhà bác học lập dị
trong quan niệm của đại chúng. Nhưng ngay cả những người dị ứng với tác
phong của Perelman cũng phải thừa nhận khía cạnh « trước sau như một »
của ông : năm 1990, Perelman đã từ chối huy chương Nhà toán học trẻ của
Châu Âu (Société
européenne de mathématiques), bây giờ từ chối huy chương Fields (mặc dầu chủ tịch MIU đã đích
thân bay sang St. Petersburg tìm cách thuyết
phục), mai kia chắc sẽ từ chối giải Clay. Một người đàn ông bốn mươi
tuổi vẫn còn ở với mẹ, sống với 100 đô một tháng, mà từ chối 1 triệu đô
la, thì không thể chỉ là làm điệu. Trong lịch sử khoa học, hành xử như
Perelman hầu như không có tiền lệ. Mặc dầu trong giới toán học, không
thiếu những nhân vật kì dị, chẳng hạn như nhà hình học đại số Alexandre
Grothendieck, đang ở đỉnh cao vinh quang, đã từ bỏ tất cả để đi chăn dê,
nghe nói trên núi Pyrénées. Nhưng ngay cả Grothendieck, tuy không chịu
sang Moskva năm 1966 để nhận huy chương Fields vì bất đồng chính trị,
cũng không từ chối giải thưởng này. Trong một lãnh vực khác, trường hợp
duy nhất còn ở trong kí ức là trường hợp Jean-Paul Sartre từ chối giải
Nobel văn học.
Dù sao chăng nữa, cá tính của Perelman có thể không được
nhất trí tán thưởng, song Perelman với tư cách nhà toán học thì không ai
có thể phủ nhận : năm 1982, ở tuổi 16, đã được giải nhất trong cuộc thi
Olympiad toán học với số điểm tuyệt đối (42/42) ; đỗ tiến sĩ vào cuối
thập niên 1980, là người duy nhất trong cùng khoá, được tuyển mộ làm
nghiên cứu viên ở Viện Steklov (tương đương với Viện quốc gia nghiên cứu
khoa học CNRS của Pháp) ; trong những năm 1990, làm nghiên cứu « sau
tiến sĩ » ở New York, được mấy trường, viện mời làm việc thường trực ở
Hoa Kì, nhưng đều khước từ và trở về St. Petersburg. Từ đó, hầu như mất
tăm mất tích, cho đến 2002-2003, Perelman đưa lên mạng internet ba bài
viết ngắn. Chính ba bài viết trứ danh ấy, bốn năm sau, đã được tưởng
thưởng vì « những đóng góp vào hình
học, mang lại những hiểu biết cách mạng về cấu trúc hình học và giải
tích của dòng chảy Ricci ».
Câu văn « bí hiểm » đó của Uỷ ban xét duyệt giải
Fields (chúng tôi sẽ trở lại ở dưới) không hề đá động tới nhân vật « đầu
tiên » của câu chuyện : Henri Poincaré (1854-1912) – đừng nhầm với anh
em họ là Raymond Poincaré, thủ tướng – mà nhân thân hoàn toàn trái
nghịch với G. Perelman. Đỉnh cao của khoa học đương đại, nhà toán học
kiêm vật lí học, triết lí khoa học, được rất nhiều giải thưởng quốc tế,
thành viên hay chủ tịch không biết bao nhiêu hiệp hội bác học, thành
viên Viện hàn lâm khoa học Pháp, Henri Poincaré là hình ảnh tiêu biểu
tốt đẹp nhất về sự thành đạt trí tuệ và xã hội mà giai cấp tư sản thế kỉ
XIX có thể sản sinh. Ông cũng là nhà bác học « xuyên ngành » cuối cùng :
là nhà triết học về phương pháp luận, ông là tác giả những công trình
kinh điển về nền tảng phương pháp khoa học, về cơ cấu não trạng của quá
trình khám phá ; là nhà vật lí, ông đã 12 lần được đề nghị giải Nobel,
và ngày nay được coi là đồng tác giả của thuyết tương đối « thu hẹp » (2) ;
với tư cách nhà toán học, bên cạnh David Hilbert, ông được coi là nhà
toán học vĩ đại nhất, đồng thời là « bậc thầy phổ quát cuối cùng », bao
trùm đại số học lẫn hình học, lí thuyết số và hình học. Chính ông, trong
một công trình năm 1895, đã sáng lập ra một ngành mới của hình học mà
ông đặt tên là « analysis situs », ngày nay gọi là tôpô học (topo, tiếng
Hi Lạp, có nghĩa : nơi, không gian). Trong một trong những tác phẩm cuối
cùng (viết năm 1904), ông đã « nhân tiện » nêu câu hỏi (câu hỏi này sẽ
được gọi là « ức đoán của Poincaré ») mà không đào sâu thêm vì « sợ nó
dẫn chúng ta đi quá xa ». Nói theo ngôn ngữ toán học hiện đại dưới dạng
tổng quát nhất, ức đoán Poincaré có thể phát biểu như sau : « Mọi
đa tạp tô pô (không biên) n chiều, compac, liên thông đơn thuần, đều
đồng phôi với mặt cầu n chiều ». Có thể nói, đối với các nhà tô
pô học, mệnh đề ấy đã trở thành một thứ « Chén thiêng »
(3),
mục tiêu của không biết bao cuộc tìm kiếm, giống như định lí « lớn » của
Fermat đối với các nhà số học trong suốt ba trăm năm trời. Không thể nào
liệt kê được tên tuổi của tất cả các nhà toán học, trong đó có những tay
cự phách, đã mắc « hội chứng Poincaré ». Giáo sư John Morgan, chủ nhiệm
khoa Toán trường Đại học Columbia, thú nhận thoải mái : « Cuộc
đời toán học của tôi đã bị ức đoán Poincaré chế ngự. Tôi tưởng sẽ không
bao giờ được thấy nó được chứng minh. Tôi tưởng sẽ chẳng có ai tiếp cận
được chứng minh ».
Trước khi đi xa hơn, không thể không giải
thích đôi chút để độc giả « ngoại đạo » có một ý niệm về nội dung mệnh
đề « ức đoán » quá bí hiểm nói trên. Như chúng tôi đã có dịp đề cập trên
cột báo này (4), viết bài « phổ biến » về toán học là
một việc làm nguy hiểm, bởi vì ngôn ngữ toán học hết sức chuẩn xác,
chệch đi một chút có thể làm lệch ý nghĩa, thậm chí đảo ngược ý nghĩa,
và điều này thường hay xảy ra khi người trình bày dùng những hình ảnh
trực quan và ngôn ngữ thường ngày. Ý thức rõ điều đó, chúng ta hãy thử
xem xét từng từ ngữ của ức đoán Poincaré :
Từ đầu bài đến đây, chúng tôi đã dùng mà không định
nghĩa hai danh từ « hình học » và « tô pô học ». Theo trực quan, mọi
người dễ chấp nhận định nghĩa hình học là bộ môn nghiên cứu các hình,
dạng. Theo từ nguyên, chữ géométrie
(hình học) trong tiếng Hi Lạp lại có nghĩa là
đo đạc đất đai. Đối với các nhà
toán học Cổ Hi Lạp, không có gì mâu thuẫn giữa hai khái niệm, bởi vì
trong quan niệm của họ, khoa học là một thể thống nhất, nó phải vừa giải
thích vừa làm chủ Thiên nhiên, nhà hình học và nhà trắc địa đều làm cùng
một nghề. Còn thế nào là « nghiên cứu các hình, dạng » ? Hình dạng thì
vô số, không thể nào kê khai cho xuể, mà có làm được cũng vô ích. Cho
nên cách xử lí tự nhiên nhất là làm thế nào xếp loại theo những tiêu
chuẩn nhất định, cũng như nhà thực vật học, nhà côn trùng học xếp cây
cỏ, sâu bọ thành loại lớn, loại nhỏ, nhánh, họ... Toán học quan tâm tới
cấu trúc, nên các nhà toán học xếp loại các đối tượng họ nghiên cứu bằng
cái mà họ gọi là « quan hệ tương đương », tức là những quy tắc biến đổi
một đối một mà vẫn giữ nguyên các cấu trúc (phép « đẳng cấu ») ; theo
cách xếp loại như vậy, hai cá thể « đẳng cấu » có thể được đồng nhất hoá
với nhau (đồng nhất hoá, chứ không đồng nhất, không « bình đẳng », nói
rõ như vậy để trả lời những đồ đệ « dậy non » của Jean-Paul Sartre). Ta
hãy lấy « analysis situs » của Poincaré làm ví dụ : các cơ cấu mà tô pô
học nghiên cứu là những « không gian tô pô », nghĩa là những tập hợp
trong đó người ta có thể định nghĩa khái niệm « lân cận », nói nôm na :
thế nào là hai điểm « gần » nhau ; một phép đẳng cấu do đó là một phép
biến đổi một đối một giữ nguyên được sự « gần nhau » ấy (hai điểm A và B
« gần nhau » được biến thành hai điểm A’ và B’ cũng « gần nhau »). Phép
đẳng cấu giữa hai không gian tô pô được gọi là phép « đồng phôi »
(homéomorphisme), hay nôm na hơn, phép biến dạng liên tục (déformation
continue). Cho nên người ta thường gọi tô pô học bằng cái tên nôm na gợi
hình là « hình học cao su » : hai cái hình làm bằng màng cao su, thí dụ
hình tròn và hình bầu dục, có thể biến hoá cái nọ thành cái kia bằng
cách co kéo cái màng cao su mà không làm rách hay phải cắt nó. Có rất
nhiều thí dụ dễ hiểu về không gian tô pô. Ai cũng biết những « không
gian thực n chiều » mà kí hiệu là Rn : khi n=1 đó là đường thẳng, 2
chiều mặt phẳng (ở trường học, ai chẳng học trên đường thẳng, mỗi điểm
được xác định bằng 1 hoành độ, trên mặt phẳng, mỗi điểm được xác định
bằng 2 toạ độ), không gian R3 là không gian « quanh ta » mà cơ học
Newton nghiên cứu, R4 là không – thời gian của thuyết tương đối (hẹp)...
Hình dung ra không gian nhiều chiều cũng không có gì khó : chẳng cần đọc
tiểu thuyết viễn tưởng, ta hãy xem sổ hộ tịch trong đó người ta kê khai
tên họ, giới tính, tuổi, chiều cao, quốc tịch, tổng cộng là 5 tham số
(được mã hoá thành số), mỗi cá nhân với « 5 toạ độ » ấy là một « điểm »
trong không gian R5 ! Và để xếp loại các không gian tô pô (không phân
biệt các không gian « đồng phôi »), người ta căn cứ vào những cái « bất
biến », tức là những tính chất bất biến qua những phép đồng phôi. Để xếp
loại côn trùng, các nhà động vật học đếm số chân, số cánh... Đối với các
không gian Rn , tất nhiên nhà tô pô học nghĩ tới chiều kích của chúng,
và đúng như vậy, một định lí nổi tiếng của Whitney (đầu thế kỉ XX) cho
biết rằng hai không gian Rn và Rp đồng phôi với nhau nếu và chỉ nếu n=p.
Định lí này dễ cảm nhận bằng trực quan, nhưng muốn chứng minh nó, phải
có trình độ tối thiểu là MA đại học về toán, điều này cho thấy sự thâm
sâu của những bài toán tô pô học. Một con số – chiều kích n – cũng đủ
làm đặc trưng cho các không gian Rn, song sẽ quá ngây thơ nếu ta tưởng
rằng đối với các không gian tô pô cũng đơn giản như vậy. Thực ra bài
toán đặt ra quá tổng quát, chẳng cần nghiên cứu Sartre (làm sao mà hai
cá nhân có thể « bình đằng », « bằng » nhau được ?) cũng có thể nhận
thấy. Vì thế, các nhà tô pô học, theo chân Poincaré, sẽ khiêm tốn tự
giới hạn trong « các đa tạp tô pô n chiều » mà đại khái ta có thể coi là
các « hình » trong hình học đã nói ở trên. Một đa tạp n chiều như vậy là
một không gian tô pô « đồng phôi cục bộ » (nghĩa là ở vùng lân cận của
mỗi điểm ; chứ nếu « đồng phôi toàn bộ » thì chẳng còn gì để nói nữa)
với không gian Rn. Xin lấy một ví dụ để bạn đọc có thể hình dung : Mặt
Đất chúng ta đang sống trên đó « nằm trong » không gian (3 chiều) R3,
nhưng ở cục bộ mỗi điểm trên địa cầu, nó đồng phôi với R2 (một mặt
phẳng, tức là một đa tạp 2 chiều). Nói nôm na : đứng ở bất cứ nơi nào
trên Mặt Đất, người quan sát cũng có cảm tưởng nó là mặt phẳng (chứ
không phải mặt cầu). Nhưng ai chẳng biết rằng Mặt Đất không phải là mặt
phẳng ! Magellan đã chứng minh điều đó khi ông đi một vòng quanh địa
cầu. Đối với nhà tô pô học, hiển nhiên là mặt cầu không thể đồng phôi
với mặt phẳng : mặt cầu là compac, mặt phẳng không. Tính compac rất khó
giải thích bằng ngôn ngữ hàng ngày, song có thể nói thế này : một không
gian tô pô nằm trong một không gian Rn, nếu nó compac thì tất nhiên nó
« đóng kín, bị chặn » (hai từ này có thể hiểu theo nghĩa đời thường).
Hai kiểu bất biến vừa nói ở trên – chiều kích và tính
compac – được coi là « sơ cấp » vì chúng liên quan tới khái niệm lân cận
gắn liền với định nghĩa đa tạp. Một trong những đóng góp quan trọng của
Henri Poincaré là đề ra một bất biến kiểu mới, là khái niệm « nhóm cơ
bản », một khái niệm liên quan tới lí thuyết nhóm. Một đa tạp sẽ được
gọi là « liên thông đơn thuần » nếu nhóm cơ bản chỉ vỏn vẹn có một phần
tử. Để cảm nhận bằng trực giác khái niệm « liên thông đơn thuần », ta
hãy hình dung một mặt cong trên đó ta vẽ một « đường vòng », một thứ
« dây thòng lọng » : nếu ta có thể « rút dây », thắt nó nhỏ dần, cho đến
khi nó nhỏ tí, thành một điểm mà sợi dây vẫn nằm hoàn toàn trên mặt
cong, thì mặt cong có tính « liên thông đơn thuần ». Nói khác đi, một đa
tạp liên thông đơn thuần nếu bất cứ đường vòng nào nằm trong đa tạp có
thể được biến dạng liên tục thành một điểm. Ta hãy lấy vài ví dụ đa tạp
2 chiều nằm trong không gian 3 chiều R3 : mặt phẳng, mặt cầu rõ ràng là
liên thông đơn thuần, ngược lại mặt xuyến (thí dụ nhưng cái săm bánh ô
tô hay bánh xe đạp) không liên thông đơn thuần (dây thòng lọng buộc
quanh cái săm, « xuyên qua lỗ ở giữa », không thể « thắt » nhỏ thành một
điểm mà không cắt đứt cái săm). Như vậy là mặt phẳng, mặt cầu và mặt
xuyến là 3 đa tạp không đồng phôi đôi một với nhau : mặt phẳng và mặt
cầu vì tính compac, mặt cầu và mặt xuyến vì tính liên thông đơn thuần.
Mấy thí dụ trực quan này cho ta hình dung cách đặt vấn đề của ức đoán
Poincaré.
THURSTON, HAMILTON, PERELMAN và KHƯU (YAU)
Trước khi Perelman thượng đài, tình hình bài toán
Poincaré là như thế nào ? Trường hợp 2 chiều đã được Riemann lí giải từ
trước khi Poincaré sáng lập ra tô pô học (tất nhiên, do đó, Riemann dùng
một ngôn ngữ khác). Từ Poincaré trở đi, bộ môn này đã phát triển tột
bực, tích luỹ một khối lượng những khái niệm, định lí nhờ đó Stephen
Smale đã chứng minh được ức đoán Poincaré cho tất cả các đa tạp chiều
kích bằng 5 hay lớn hơn (huy chương Fields 1961), sau đó Michael
Freedman thanh lí trường hợp chiều kích 4 – cũng lạ là trường hợp này
phức tạp hơn về mặt kĩ thuật – (huy chương Fields 1982) (5).
Còn trường hợp chiều kích 3 vẫn « trơ gan cùng tuế nguyệt », dường như ở
cấp độ của vũ trụ vật lí (chúng ta nên nhớ vũ trụ Einstein là một đa tạp
4 chiều, tính compac của một đa tạp nằm trong vũ trụ này tuỳ thuộc vào
tỉ trọng của vật chất chứa đựng trong đó), khó khăn không chỉ đơn thuần
là những khó khăn toán học. Bao giờ cũng vậy, tình hình khai thông là
nhờ có sự đột phá về quan niệm. Đầu tiên là do William Thurston (huy
chương Fields 1982) đề ra một cách phân loại các đa tạp 3 chiều. Ở đây,
ta lại gặp một tình huống thường xảy ra, bài toán hóc búa, vì quá đơn
lẻ, được lồng vào một lí thuyết bao quát hơn, mở ra những viễn tượng
mới. Thurston đề ra mộc ức đoán mới, gọi là ức đoán về sự hình học hoá,
theo đó tổng cộng có 8 kiểu đa tạp 3 chiều ; một trong 8 kiểu đó là kiểu
« mặt cầu » 3 chiều nói tới trong ức đoán Poincaré. Song tính chất bao
quát của ức đoán Thurston dường như làm cho nó ở ngoài tầm với của những
lí thuyết hiện tồn (cũng như ở ngoài tầm với của khả năng phổ biến khoa
học : từ nay trở đi, độc giả cho phép chúng tôi dùng nhiều ngoặc kép).
Một trong những lí thuyết đó là « tô pô học vi phân », nhờ đó người ta
đặt thêm lên các đa tạp một cấu trúc nữa để có thể áp dụng các phương
trình vi phân riêng. Chính trong phương hướng mới này mà trong thập niên
1980, Richard Hamilton đã tạo ra sự khai thông cuối cùng với khái niệm
« dòng chảy Ricci », một phương trình tương tự như phương trình quen
thuộc trong vật lí học : phương trình nhiệt của Laplace. Sự truyền dẫn
của « dòng Ricci » trên đa tạp cho phép phát hiện những « điểm kì dị ».
Chương trình Hamilton đề nghị thanh lí những điểm kì dị đó bằng « phẫu
thuật », một kĩ thuật quen thuộc đối với giới tô pô học, song khó khăn
lớn ở đây là không chắc gì cuộc phẫu thuật này lại không tạo ra những
điểm kì dị mới, và cứ như thế, quá trình này trở thành liên hồi bất tận.
Ngược lại, nếu cuộc phẫu thuật thành công, thì ức đoán Thurston được
chứng minh, và đương nhiên, cả ức đoán Poincaré. Chính trong thời gian
sang Mĩ nghiên cứu sau khi đỗ tiến sĩ mà Perelman đã được biết chương
trình Hamilton, và đã đến gặp Hamilton để được ông giải thích tường tận.
Hình như Perelman đã tự « coi như là môn đệ » của Hamilton, một điều rất
hiếm, chứng tỏ Perelman khá mến mộ Hamilton. Thực ra, hình như ngay từ
đầu « Grisha » đã chắc mẩm dòng chảy Ricci là cái chìa khoá, và ông
không hề cải chính rằng mình trở lại St Petersburg là để tiến công vào
chương trình Hamilton. Ông đã bỏ ra 8 năm trời, và công trình này làm ta
liên tưởng tới cuộc chiến đấu đơn độc của Wiles để chứng minh định lí
lớn của Fermat. Câu chuyện lẽ ra đến đây là kết thúc. Nhưng không, trước
tiên là vì Perelman không chịu tôn trọng luật chơi. Bởi vì các mệnh đề
toán học, một khi đã được chứng minh rồi, trở thành những chân lí tuyệt
đối (trong khuôn khổ những tiên đề nhất định), cho nên bài chứng minh
nhất thiết phải được các chuyên gia kiểm tra kĩ lưỡng rồi được công bố
để bất cứ nhà toán học nào cũng có thể tìm đọc, và nếu muốn, thì kiểm
tra lại. Ba bài viết mà Perelman đưa lên mạng internet không tuân thủ
khuôn phép ấy : một mặt, Perelman không gửi cho một tạp chí để chúng
được kiểm tra, thẩm định ; mặt khác, đó không phải là một bài chứng minh
đầy đủ, mà chỉ là những phác thảo (tuy khá chi tiết) đưa ra các nguyên
tắc và nét lớn, bỏ qua những khó khăn kĩ thuật đôi khi khá quan trọng.
Không ai nghi ngờ rằng nếu Perelman chịu khó thì ông sẽ hoàn tất, nhưng
phải bao nhiêu nỗ lực và thời gian ? Song ý nghĩa khoa học (và, khốn
thay, tác động của media) quan trọng đến mức cộng đồng toán học lần này
chấp nhận không làm đúng các thủ tục một cách nghiêm ngặt. Ngoài các
xêmina và các nhóm làm việc thường vẫn được tổ chức như trong các trường
hợp tương tợ (tại Princeton, Lyon...) để thảo luận về các kết quả của
Perelman, đã có hai sáng kiến vượt ra khỏi thông lệ, độc lập với nhau,
với những động cơ khác nhau, đã được tiến hành và đi tới kết luận tích
cực. Một mặt là viện Clay rất muốn trao giải đầu tiên (quảng cáo mà) cho
một « bài toán thiên niên kỉ », nên đã cử hai chuyên gia về tô pô học vi
phân, là John Morgan (trường đại học Columbia, đã nói ở trên) và Gang
Tian (Điền Cương, viện MIT) tập trung toàn phần thời gian vào việc thẩm
định các bài viết của Perelman, và biên tập toàn bộ các phần chứng minh
với đầy đủ chi tiết. Họ đã hoàn thành công việc và kết quả là một cuốn
sách 473 trang sắp sửa được Viện Clay xuất bản. Mặt khác, sau 3 năm làm
việc, hai nhà toán học Trung Quốc, Xiping Zhu (Chu Hi Bình) và Huaidong
Cao (Tào Hoài Đông), dưới sự « huấn luyện » của nhà hình học Shing-Tung
Yau (Khưu Thành Đồng, huy chương Fields 1982), vừa công bố trên tạp chí
Asian Journal of Math (cũng phải nói rõ : do họ Khưu làm đồng chủ biên)
một bài viết 318 trang để chứng minh ức đoán của Thurston, « dựa trên »
những ý tưởng của Hamilton và Perelman (chữ của họ). Cần nói rõ, theo
tập tục của giới toán học, một bài chứng minh chỉ được coi là « nguyên
khôi » nếu nó được thực sự tìm ra lần đầu tiên, hoặc là nó lấp được một
lỗ trống hoặc sửa lại một sai lầm thực sự của một bài chứng minh trước
đó (trường hợp thứ nhì này đã xảy ra với bài chứng minh định lí Fermat
của Wiles, có một lỗ trống đã được học trò của Wiles là Richard Taylor
bổ khuyết, vì vậy định lí này từ nay mang tên chính thức là định lí
Wiles-Taylor). Nhưng trong câu chuyện đang bàn, theo ý kiến của các nhà
chuyên môn, bài viết của Tào và Chu hoàn toàn không thể xếp vào hai
trường hợp nói trên. Cũng như cuốn sách của Morgan và Điền Cương, nó chỉ
có thể được coi là một công trình soi sáng (công phu) công lao của
Perelman. Tất cả chuyện này lẽ ra chỉ gây sóng gió trong chén trà của
giới chuyên môn nếu như, phía Trung Quốc không làm ầm ĩ trên báo đài :
đầu tháng 6.2006, hai tháng trước Đại hội Madrid, Khưu Thành Đồng đã tổ
chức họp báo để nói về việc chứng ming ức đoán Poincaré tại Viện toán
học Bắc Kinh. Ông viện trưởng họ Khưu không ngần ngại phân phát công lao
như sau : 50% về phần Hamilton, 25% về phần « người Nga Perelman », 30%
về người Hoa – một con toán cộng đơn giản cho thấy nhà hình học họ Khưu
chắc không phải là nhà lí thuyết số. Đến cuối tháng 6, ông Khưu lại tổ
chức một « sô » hội nghị vật lí học ở Bắc Kinh, với sự hỗ trợ của nhà
cầm quyền Trung Quốc và sự tham gia của những đại gia như Stephen
Hawking (« nhà vật lí thiên văn ngồi xe lăn »), để trình bày trong một
phiên họp khoáng đại một báo cáo về... ức đoán Poincaré, công lao của
hai môn đệ họ Tào và họ Chu, và nói đây là một thành tựu vĩ đại của học
thuật Trung Quốc. Phải nói là họ Khưu, sinh trưởng hầu như ở Hồng Kông
(bố mẹ ông đã chạy trốn Giải phóng quân Trung Hoa năm 1949, khi Khưu mới
5 tháng), làm việc ở Hoa Kì, sau khi được giải Fields năm 1982 đã trở
thành một ông quan đại thần của nền khoa học Trung Quốc, đầu óc « đại
hán » cũng chẳng thua ai. Giới toán học khó chấp nhận cách hành xử thiếu
đạo đức khoa học như vậy. Philip Griffiths, nhà hình học kiệt xuất,
người đã giúp Khưu rất nhiều trên đường công danh, đã phải lên tiếng :
« Chính trị, quyền lực và những trò ma
giáo không có chỗ đứng chính đáng trong cộng đồng chúng ta, chúng đe doạ
sự toàn vẹn tinh thần của toán học ». Khi quyết định trao giải
cho Perelman mặc dầu biết rằng Perelman từ chối, có lẽ Uỷ ban Fields
cũng không muốn nói gì hơn.
Đỗ Thống
(Kiến văn dịch từ nguyên
tác tiếng Pháp)
Đã đăng trên Diễn Đàn
Forum
-
Nobel không có giải toán học, nghe đồn vì mối tình
hận giữa Alfred Nobel và một nhà toán học, Mittag-Leffler. Chuyện này
hình như là chuyện bịa.
-
Poincaré là người đầu tiên chứng minh phương trình
nổi tiếng E = mc2, suy ra từ những công thức chuyển đổi hệ quy chiếu
Lorentz trong cơ học tương đối. Còn trong bài viết cơ bản của
Einstein, phương trình này chỉ được nêu lên như một khẳng định.
-
« Chén thiêng » (Saint Graal) tương truyền là chén
rượu mà Jesus uống chung với 12 tông đồ trong bữa tiệc cuối cùng. Nó
trở thành đối tượng cho những cuộc tìm kiếm triền miên, hầu như vô
vọng, đồng thời là chủ đề của nhiều sáng tác (gần đây nhất là cuốn
tiểu thuyết Da Vinci Code của Dan Brown).
-
Xem bài báo về Ngô Bảo Châu trên Diễn Đàn số 146
(12.2004).
-
Ai đó có thể thắc mắc : tại sao hoang phí bao nhiêu
năng lực táy máy ba cái màng cao su chơi mấy cái trò không mang lại
ích lợi gì ? Chỉ xin trả lời vắn tắt rằng hiện nay Smale đang làm việc
ở Viện Toyota, Freedman tại Microsoft.
|