Nhưng chiều nay nhận
tin, sự chuẩn bị ấy lập tức bị lung lay
chao đảo. Thế là hết, từ nay tôi vĩnh
viễn không được gặp thầy nữa, không được
nghe ông nói chuyện với cách xưng hô
“qua/em”, kèm theo nụ cười nửa miệng khó
phân biệt khen chê.
Tôi được gần gũi với
nhà văn Võ Hồng đến nay đã hơn 60 năm,
từ thuở là một cậu học trò buổi đầu bậc
trung học quần đùi chân đất. Ông thầy
dạy môn quốc văn với bàn tay tài hoa vừa
giảng giải vừa minh họa đã lôi cuốn cả
thế hệ chúng tôi say mê văn chương, dù
sau này không mấy đứa đi theo cái nghiệp
ấy. Tính thầy khoan hòa mà nghiêm minh,
không nặng lời nhưng những lời quở trách
có một chút dí dỏm, một chút mỉa mai đủ
làm cho học trò trong sự kính mến có một
phần sợ sệt không nhỏ.
Khi tôi đến tuổi trưởng
thành, tập tễnh vào làng văn, cùng có
bài trên một tạp chí, tất nhiên không
còn sự sợ sệt ấu thời, nhưng khi ngồi
đối diện với thầy, được thầy gọi là
“em”, xưng “qua”, vẫn nhìn thầy là một
thần tượng. Chúng tôi đón nhận tập
truyện Hoài cố nhân - tác phẩm
đầu tiên của thầy được xuất bản như một
tin mừng, cảm thấy mình như
cũng được truyền cho niềm hãnh diện.
Chúng tôi sống với những làng xóm được
thầy nhắc đến, cùng nhau đi tìm người
mẫu thực của các nhân vật, và không ít
những trang thư cho nhau nhắc mãi đến
thầy. Những tác phẩm sau đó của thầy tôi
đều được đọc, có lẽ không sót tập nào,
cả tập thơ và những câu suy tư ngắn gọn:
Người về đầu non, Gió cuốn, Nhánh
rong phiêu bạt, Hoa bươm bướm, Như cánh
chim bay, Lá vẫn xanh, Chúng tôi có mặt,
Trầm tư...
Một cách thật chí công
thì cách nhìn như thế cũng có phần thiên
lệch, bởi chúng tôi đã đọc nhà văn qua
một ông thầy. Nhưng tiếp xúc với những
độc giả hoàn toàn khách quan thì sự mến
mộ nhà văn Võ Hồng còn hơn cả chúng tôi.
Võ Hồng viết bằng cả tấm lòng nhân hậu,
những vùng quê ông miêu tả nhiều nơi
thật nghèo khó khô cằn, nhưng dưới ngòi
bút của ông dàn trải sự bao dung trìu
mến, những nhân vật của ông cho dẫu là
“phản diện” vẫn được tha thứ, thông cảm.
Một điều hơi “lạ” là những chàng trai
của Võ Hồng luôn luôn nhút nhát trước
tình cảm, luôn luôn tỏ ra mình là người
“quân tử”, không dám “dấn thân” nên đa
số đều “thất tình”, nhưng rất chung
tình, ôm ấp những mối sầu cảm đơn
phương.
Phải chăng đó là do
cuộc sống của ông? Chịu cảnh gà trống
nuôi con khá sớm, không dám tục huyền,
vì lo sợ điều gì? Lo sợ không tìm lại
được hạnh phúc đã mất, lo sợ cho tương
lai các con, lo sợ một điều tiếng hay lo
sợ những chuyện có thể xảy ra mà cũng có
thể không xảy ra, cái kiểu lo sợ của
những người ưa suy nghĩ? Chúng tôi chịu,
không “khai thác” được điều gì ở thầy,
nhiều lúc ông đang nói cười vui vẻ bỗng
lim dim đôi mắt mơ màng như nhập định.
Có điều chúng tôi biết
rõ là ông rất khắt khe trong cách viết,
luôn luôn đòi hỏi sự trong sáng trong
văn phong để chuyển tải sự trong sáng
của tâm hồn tác giả. Ông cũng rất khắt
khe với các bản in, luôn luôn phàn nàn
về những lỗi in sai, những lỗi biên tập
ẩu. Ông dùng bút tự sửa hoặc làm bản
đính chính đầy đủ trước khi tặng sách.
Những lần như vậy tôi thấy ông nhăn nhó
tỏ vẻ rất khó chịu.
Ai đến thăm ông vào
những năm tháng cuối đời đều có chung
một cảm nghĩ không dám nói ra. Các con
ông ở xa, ông một mình lặng lẽ trên căn
gác với sách vở và sách vở. Nhìn nét mặt
rạng rỡ của thầy khi chúng tôi đến thăm,
cách dẫn dắt khéo léo như níu kéo để có
thời gian trò chuyện, thái độ bịn rịn
không muốn tiễn khách, chúng tôi hiểu
thấu sự cô đơn của thầy. Song, đâu dễ gì
thầy để lộ ra. Thầy có nói về thầy Trần
Sĩ là con sư tử rừng Hóc Lá,
thì thầy ít nhất cũng là một con cọp
bạch dưới chân núi A-man, dễ gì để cho
chúng tôi bắt mạch. Có một người tự
nguyện đến săn sóc thầy, liệu có an ủi
được thầy, có lấp được những trống vắng
để đem lại cho thầy một khoảng mát.
Tôi thật tình cảm phục trước sự hi sinh
lớn lao ấy.
Với tôi và nhiều bằng
hữu, thầy Võ Hồng, nhà văn Võ Hồng tất
nhiên không phải là một người “hoàn
hảo”, không phải truyện ngắn nào, bài
thơ nào của thầy chúng tôi cũng tán
đồng, cũng thích, nhưng muốn bắt chước
nhân cách thân ái, bao dung, khiêm tốn
của ông, muốn noi theo gương ông cần cù,
nhẫn nại, nghiêm cẩn trong sáng tác, là
việc không thể nào chúng tôi mong được.
TRẦN HUIỀN ÂN