Nhớ Thầy Bàn Thạch Dương Thiệu Tống

Vietsciences- Trần Nam Bình           15/09/2008

 

Những bài cùng tác giả

Giáo sư Dương Thiệu Tống đã vĩnh viễn giã từ chúng ta ! Từ nay trên các diễn đàn cải tổ giáo dục chúng ta sẽ không còn nghe tiếng nói, các lời khuyến cáo uyên bác và cương trực của Ông nữa. Sự ra đi của một người đầy tâm huyết và năng lực như Giáo sư thật là mất mát lớn lao cho nền giáo dục nước nhà, nhất là trong khi hành trình cải cách còn dài và còn nhiều chông gai.
 

Tôi biết đến Giáo sư Tống qua ba mối liên hệ khác nhau. Thứ nhất, Giáo sư Tống đảm nhiệm chức Hiệu trưởng trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức khi trường khai giảng lần đầu niên khóa 1965-66. Đó cũng là năm mà tôi vào học lớp 6 trong trường. Thứ hai, Thầy Tống cũng là thân phụ của anh bạn học cùng lớp chí thân với tôi, từ năm lớp 6 đến đến năm lớp 12, cũng như sau khi chúng tôi cùng đi du học Úc năm 1972. Thứ ba, Thầy Tống là nhà khoa học chuyên ngành giáo dục và tôi cũng quan tâm đến bộ môn này, mặc dù hai Thầy trò chúng tôi đến với giáo dục từ hai quan điểm khác nhau : giáo dục (Thầy) và kinh tế (tôi). Vì ba mối liên hệ này mà tôi đã có nhiều dịp quan sát, gặp gỡ, liên lạc, trao đổi với Thầy cũng như theo dõi các quan điểm, việc làm của Thầy trong hơn 40 năm qua.
 

Là một nhà giáo, Thầy Tống đã tận tuỵ cống hiến cho nền giáo dục nước nhà trong suốt hơn sáu thập kỷ vừa qua. Thầy đã đào tạo, đỡ đầu rất nhiều thế hệ học sinh và sinh viên. Các học trò cũ của Thầy ngày nay đều rất thành đạt và sinh sống khắp nơi trên thế giới. Dùng lối ví von mà Thầy hay dùng lúc sinh thời, Thầy là một ông chèo đò tận tâm và chung thủy. Tất cả học trò cũng như đồng nghiệp của Thầy đều rất kính ngưỡng nếp sống trong sạch, thanh bạch và lối làm việc hăng say, nhiệt thành của Thầy. Sĩ khí và nhân cách của Thầy quả là tấm gương soi cho các học trò cũ nói riêng và giới trí thức nói chung.

Là một nhà quản lý giáo dục, Thầy Tống đã từng làm Hiệu trưởng hai trường trung học hoàn toàn khác biệt nhau. Trường thứ nhất là Quốc Học Huế, một trường lâu đời với hơn 100 năm lịch sử và trên 3000 học sinh. Trường thứ hai là Kiểu Mẫu Thủ Đức, một trường rất non trẻ, khai giảng năm 1965-66 với vỏn vẹn trên dưới 280 học sinh. Cùng với trường Trung học Kiểu Mẫu Huế, Kiểu Mẫu Thủ Đức là nơi đầu tiên thử nghiệm chương trình giáo dục tổng hợp. Rất tiếc cuộc thử nghiệm này đã bị ngưng lại sau 10 năm vì chuyển biến lớn lao của lịch sử.
 

Là một học giả chuyên ngành giáo dục, Thầy đã để lại nhiều đóng góp quý báu. Thứ nhất, Thầy luôn đi tiên phong trong đổi mới giáo dục. Có lẽ một di sản to lớn nhất của Thầy là chương trình giáo dục trung học tổng hợp mà Thầy đã soạn thảo khi làm Hiệu trưởng trường Kiểu Mẫu Thủ Đức. Đây là một chương trình giáo dục tiên tiến với ba chủ đích : thực hiện giáo dục tổng quát giúp mọi học sinh đạt một trình độ phổ thông, cũng như có một thái độ sống thích hợp trong gia đình và xã hội trong truyền thống dân tộc, thực hiện giáo dục hướng nghiệp giúp cho một số học sinh có cơ hội phát triển năng khiếu cá nhân, tài khéo thực dụng đế có thể chuẩn bị trong nghề nghiệp khi không thể học lên cao, và thực hiện giáo dục hướng học giúp cho một số học sinh chuẩn bị con đường hậu trung học trong cũng như ngoài nước. Nếu biết khôi phục, điều chỉnh cho hợp lý và khéo léo tận dụng, giáo dục tổng hợp chính là những vật liệu vô cùng quan trọng và quý báu cho việc xây dựng một mô hình giáo dục trung học thích hợp cho Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, toàn vùng hóa hiện thời. Thầy cũng là người đi tiên phong trong việc áp dụng phân tích thống kê để nâng lối thi trắc nghiệm lên thành một phương pháp khảo sát hệ thống, khách quan và khoa học tại Việt Nam.
 

Thứ hai, Thầy là một nhà khoa học chân chính và khả kính. Cuốn sách tập hợp những bài Thầy viết về giáo dục ở Việt Nam là một ví dụ điển hình(1). Văn phong của Thầy điềm đạm, chừng mực, hợp lý và luôn luôn được dẫn chứng bằng các số liệu do chính Thầy thu thập và phân tích. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi rất nhiều chuyên gia đã xem Thấy là người nghiên cứu về giáo dục khoa học nhất hiện nay. Phong thái khoa học nghiêm túc của Thầy có lẽ được hun đúc qua truyền thống gia đình, các cơ hội học tập nghiên cứu hậu đại học tại Anh và Mỹ, cũng như tinh thần phóng khoáng, tự học suốt đời của Thầy. Nhờ thế, tuy Thầy và tôi đến với giáo dục từ hai quan điểm khác biệt, chúng tôi có rất nhiều điểm chung và dễ dàng thông cảm nhau. Cách làm nghiên cứu của Thầy đúng là khuôn mẫu cho các nhà nghiên cứu về giáo dục tại Việt Nam ngày nay.
 

Trong những lần đi công tác tại Việt Nam, tuy quỹ thời gian rất eo hẹp, tôi luôn luôn tranh thủ đến thăm Thầy. Những lần đầu, Thầy tiếp tôi tại phòng khách. Sau này, vì lý do sức khoẻ, Thầy không xuống nhà dưới nữa và tiếp tôi trên lầu. Lúc nào Thầy cũng say sưa thảo luận về các đề tài giáo dục với lối trình bày minh bạch, kiến thức uyên bác và lý luận sắc bén. Lần về Việt Nam gần đây nhất, tôi tham dự Hội thảo Hè Nha Trang đầu tháng 8 vừa qua. Nhân dịp ghé ngang Thành Phố, tôi cùng Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã đến viếng thăm Thầy. Tuy không khoẻ, Thầy vẫn nói chuyện rất hăng say với chúng tôi. Không ngờ, đó cũng là lần cuối mà chúng tôi còn được diện kiến và học hỏi nơi Thầy.
 

Tôi nghĩ Thầy ra đi rất nhẹ nhàng và mãn nguyện. Nhẹ nhàng bởi vì Thầy đã trả xong nợ với cá nhân, với gia đình và với đất nước. Mãn nguyện vì Thầy đã để lại nhiều di sản tinh thần cho các thế hệ mai sau. Ước mong rằng các học trò cũ của Thầy, dù trong hoàn cảnh nào, vẫn phấn đấu và phát huy tinh thần giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng đã hấp thụ được từ Thầy. Ước mong hơn nữa là các nhà lĩnh đạo, các nhà làm chính sách giáo dục cũng như các nhà quản lý các trường học sớm tìm hiểu và thực thi phần nào các kiến nghị, các đề xuất cải tổ của Thầy để đưa nền giáo dục nước nhà tiến lên ngang tầm các nước bạn trong khu vực. Đó là phần thưởng có ý nghĩa nhất cho nhà giáo dục Bàn Thạch Dương Thiệu Tống, người luôn hằng mong giáo dục sẽ giúp Việt Nam “ xây nền hạnh phúc tiến với thế giới ”.

(1) Suy nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại, Nhà xuất bản Trẻ & Công ti Phương Nam, 2003, 400 trang.

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Trần Nam Bình