Nhà văn lớn Võ Hồng vừa qua đời lúc 14g ngày 31-3-2013 (20-2 năm Quý Tỵ) tại nhà riêng ở đường Hồng Bàng, TP Nha Trang (Khánh Hòa), thọ 92 tuổi.
Tác giả Hoài cố nhân, Một bông hồng cho cha, Vết hằn năm tháng, Lá vẫn xanh, Thương mái trường xưa, Vẫy tay ngậm ngùi, Nửa chữ cũng thầy, Vùng trời thơ ấu, Chúng tôi có mặt… sinh ngày 5-5-1921 tại làng Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An (Phú Yên).
Từ năm 2006, do tuổi cao, ông đã có lần bệnh rất nặng phải nhập viện cấp cứu và điều trị.
Nhiều tác phẩm của nhà văn Võ Hồng đã được trích giảng trong sách giáo khoa văn cho chương trình trung học trước năm 1975. Sau năm 1975, văn nghiệp của ông là đề tài cho nhiều luận án tiến sĩ, thạc sĩ văn chương.
Văn chương của ông đề cao tình yêu quê hương thôn dã, tình cảm gia đình, tình thầy trò, bằng hữu.
Theo website mang tên nhà văn Võ Hồng, thuở nhỏ Võ Hồng học ở trường làng Ngân Sơn, trường phủ Tuy An, trường huyện Sông Cầu, rồi ra học trường trung học Quy Nhơn (Bình Định). Năm 1940 học ban tú tài ở Hà Nội.
Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, ông làm bí thư tòa tổng đốc 4 tỉnh miền Nam Trung Việt đóng tại Ðà Lạt. Trong thời kháng chiến ông cùng vợ dạy học ở Trường trung học Lương Văn Chánh (Phú Yên), sau đó làm hiệu trưởng trường này.
Năm 1953 ông bị bệnh xin nghỉ dài hạn. Năm 1954 đưa gia đình về sống ở Ðà Lạt. Từ năm 1956 về sống ở Nha Trang, dạy học ở các trường tư thục và nghỉ hưu năm 1982. Về văn nghiệp, tính đến nay Võ Hồng đã cho ra đời ngoài 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70 truyện ngắn, nhiều tập tùy bút, bút ký, các tập truyện viết cho thiếu nhi, hơn 40 bài viết, bài khảo cứu, phê bình…
Trong đó, truyện ngắn đầu tay Mùa gặt của ông được đăng trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Hà Nội năm 1939 với bút hiệu Ngân Sơn, khi ấy ông còn là một học sinh đệ tam niên (theo hệ giáo dục thời đó). Mãi đến năm 1959 ông mới gia nhập làng văn với tác phẩm đầu tay Hoài cố nhân… Sau năm 1975, trong một số tác phẩm của mình, Võ Hồng đã ký bút hiệu Võ An Thạch hoặc Võ Tri Thủy…
Gia đình cho biết ông ra đi đột ngột và nhẹ nhàng trong giấc ngủ trưa. Lễ khâm liệm lúc 8g sáng 1-4, di quan lúc 15g chiều 4-4 (24-2 âm lịch), an táng tại nghĩa trang Suối Đá (xã Suối Cát, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa)
(BVN-TH)
Sau khi Thư Quán Bản Thảo (TQBT) 20 chủ đề nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn phát hành, các anh trong nước đề nghị TQBT làm một số chủ đề: nhà văn Võ Hồng cho số 21. Ngoài nước, hai anh bạn văn một thời với chúng tôi (Phạm Văn Nhàn và Trần Hoài Thư) gọi điện thoại về cho tôi, giục tôi phải về Nha Trang gặp những bạn bè cũ, để bắt tay thực hiện chủ đề về Võ Hồng theo yêu cầu. Thế là tôi thu xếp hành lý, phóng vù về Nha Trang. Cánh cổng căn nhà 53 Hồng Bàng khép hờ, chỉ cần đẩy cổng bước thẳng lên gác chứ không phải bấm chuông và đợi như những năm trước. Bước lên mấy bậc cầu thang, đứng trước cánh cửa gỗ khép hở đã thấy một phụ nữ trạc 50 đang bưng chén cháo ngồi trên ghế đẩu sát ngay cạnh giường. Ông nằm dán người lên mặt nệm, lép xẹp; đầu trùm chiếc mũ len tới tận chân mày. Nghe tiếng động, ông mở mắt. Tôi chào ông và người phụ nữ, rồi “cung khai lý lịch”, nhưng ông không hề nhận biết tôi là ai, mặc dù trước đó là chỗ thân quen, thường xuyên điện thoại, thư từ thăm hỏi nhau.
Tôi nói rõ mục đích chuyến ghé thăm, trao lại bó hồng của anh em TQBT với lời chúc sức khoẻ và gửi một số tập TQBT tới tận tay ông. Ông vẫn nằm yên trên giường và nghe và thở nặng nhọc, nói những lời cảm ơn rất nhỏ, phải chú tâm lắm mới có thể nghe được.
Tôi quay ra ngoài hiên với người phụ nữ. Chị tự giới thiệu là học trò cũ của ông hồi còn học trường Bồ Đề, Nha Trang, nhà tận cầu Dứa. Có năm ba học trò cũ trạc tuổi chị thay phiên nhau đến chăm sóc ông, bởi các con ông thì ở quá xa, còn người giúp việc thì không ai hiểu được tính ông nên hôm trước hôm sau là bỏ về. Chị không nói tên, nhưng cho biết là “ bọn tui đã thay phiên nhau hơn tháng nay, thầy mỗi ngày mỗi yếu đi”. Và chị lịch sự nói: ”Anh ở đây nói chuyện với thầy, chắc là lâu. Khoảng 11 giờ có người khác đến thay. Tôi phải chạy về nhà có chút việc”. Nói và chị thu xếp muỗng chén đặt lên chiếc bàn con rồi quày quã bước xuống cầu thang. Tôi hơi ngạc nhiên. Có thể chị hiểu công chuyện của tôi sẽ kéo dài, quá lâu để chị thành người thừa trong cuộc chuyện trò chẳng mấy liên qun đến chị, hay tôi như một người cũng có trách nhiệm thay thế trong đám học trò ông, bởi tôi cũng đang xưng “thầy con”.?
Tôi đỡ ông ngồi dậy, dựa lưng vào thành giường, thở dốc một hồi rồi với tay lấy chiếc kính thứ hai mang lên mắt. Ông giở từng quyển TQBT, lật từng trang một cách khó khăn, hỏi : “Các toi làm có bán được nhiều không?”. Trả lời: “Độc giả nhiều, nhưng không thu tiền”. Ông ngó ra một lúc: “Cảm động, thiệt cảm động”. Tôi nói: “Thầy ăn sáng đi kẻo nguội”, rồi tôi bưng chén súp lên, ông gạt đi :”Toi để đó cho moi”. Bữa ăn sáng kéo dài gần hai tiếng. Tôi tranh thủ hỏi ông những gì đã định trong đầu và anh em đã dặn dò, nhưng câu chuyện đưa đẩy hầu như là ngược lại. Ông hỏi tôi: “Moi muốn về thăm quê một chuyến, liệu tình hình này có đi được không?”. Tôi nói: “Thầy cứ uống thuốc, tịnh dưỡng khi nào thiệt mạnh thầy gọi anh em đón thầy về”. Ông ngồi lặng hồi lâu, rất lâu. Hình như hình ảnh quê hương trong ký ức hiện về làm ông xúc động. Tuổi thơ ông đã bay qua con sông Cái, làng lụa Ngân Sơn, khu Lò Gốm, Chí Thạnh, Đồng Dài… mà hơn 30 năm qua ông chưa từng chạm mặt. 30 năm đối với ông hình như là nỗi hoài nhớ mang mang để ông đắm chìm và thả nỗi nhớ nhung chất ngất đó vào từng trang sách. Ông đưa đẩy nó đi để cảm thấy như ông còn đang gần gũi với quê nhà An Thạch. Ông kể lại những bờ ruộng, con mương, tên người, tên đất như để đánh lừa mình đang gần thật gần với Tuy An, nơi ông đã sinh ra và lớn lên, từ ấy ra đi trong những cơn mê chếch choáng “back to Sorento”.
Khá lâu sau đó, ông phều phào: “Nay toi viết được nhiều không?”. “Dạ, in ít thôi”. “Moi cũng cố gắng thôi, còn cầm được cây bút ngày nào moi sẽ viết để trả hiếu cho quê hương”. Không biết là lần thứ mấy mươi và với bao nhiêu người thân quen ông nhắc lại chữ hiếu. Nó thôi thúc ông, réo gọi ông từ tâm thức của đứa con xa quê lâu ngày. Nó luôn là nỗi ám ảnh trong ông mỗi khi được nói, được nghe nói về quê ông. Đó là món bún làm bằng bột bắp, khoanh từng sợi vàng mịn như tơ nổi bật lên trên màu xanh của miếng lá chuối, ăn với nước mắm nhỉ lúc xế chiều. Ông khép mắt mơ màng “Ờ, ờ bún…”. Tranh thủ, tôi dọn dẹp chén đữa mang vào bếp rửa. Quay trở ra định đặt lại mấy tờ báo lên ghế. Nhưng ngó quanh quẩn, chỗ này quyển sách, đầu kia rổ may đựng kim chỉ, giấy bút, chiếc gương soi, dao cạo râu, áo quần, khăn mặt… chúng thật lộn xộn, nhưng chừng như là những nơi cố định của chúng để ông có thể với tới là đụng cái này, nắm lấy cái kia theo thói quen. Loay hoay một lúc và quyết định, thôi cứ để y nguyên, không khéo ông nhìn thấy lại bị “ngầy ngà”.
Một người phụ nữ khác bước lên cầu thang, trên tay là gói thuốc. Ngó lên đồng hồ đã 12 giờ. Chúng tôi chào nhau. Chị lại làm công việc mà người trước đã làm. Ông nằm thiêm thiếp trên giường. Trời nắng chói chang. Căn gác lợp toile nóng hầm hập. Ông vẫn nằm dán sát trên giường. Thở nặng nhọc.
Tôi thẫn thờ bước xuống cầu thang với chút bùi ngùi.
© http://vietsciences.free.fr http://vietsciences2.free.fr