Nhà văn Võ Hồng
Nửa thế kỷ cầm bút, Võ
Hồng viết trên 30 tập truyện ngắn, truyện dài, thơ…
không kể đến một số bài báo có tính cách nghiên cứu…
Suốt chừng ấy năm với chừng ấy đầu sách, người ta
biết nhiều đến ông, báo chí viết nhiều về ông, bạn
đọc tìm đến ông như người thân yêu, bởi nhân cách
của ông trong cuộc sống và trên những trang giấy. Có
những độc giả, sau khi đọc truyện ông bỗng nhớ đến
da diết về chốn quê hương cỏ lá, có người “dám cả
gan” vào thư viện xé vài trang truyện (ông mô tả một
làng quê với viên cốm đầu năm mới) mang về để thấy
quê hương thật gần gũi bên mình, để tận hưởng hương
vị ngày tết cổ truyền dân tộc như thể mình đang sống
trên mảnh đất còn đầy khốn khó này (trường hợp một
nữ độc giả ở Úc khoảng năm 87-88). Và có lẽ ông cũng
là nhà văn duy nhất sau năm 1975 được nhiều độc giả
mến mộ, thư từ, thăm viếng; được các thế hệ sau luôn
gọi ông bằng Thầy mỗi khi tiếp xúc. Nhân cách sống
và viết của Võ Hồng làm cho độc giả cảm thấy luôn
được gần gũi với ông, sách vở của ông để ông trở
thành nhà văn của tất cả mọi người. Trong tận cùng
sâu thẳm suy nghĩ của độc giả mọi lứa tuổi, ông là
người ông, người bác, người chú, người cha, người
anh, người thầy đáng kính, vì trải qua bao cuộc bể
dâu, nhân cách ông vẫn giữ nguyên vẹn sự kính trọng
đó.
Thế hệ trước và sau Võ Hồng đều
sống trong một xã hội chập chững tập làm quen với
dân chủ, có những ông mặc áo dài khăn đóng, đi guốc
mộc che dù đứng ra hô hào cải cách, pha trộn một ít
chữ Hán, chữ Tây, chữ Mỹ vừa nhổ toèn toẹt bãi cổ
trầu đỏ xuống gầm bàn trước mắt các cử toạ vừa trích
cú những Trung Dung, Luận Ngữ, Đại Học … để kết án
đám trị vì phong kiến giam hãm sự phát triển chung
của đất nước. Rồi những anh Tây học áo vét, cà vạt
lên tàu về nước mang theo bao điều lạ hoắc, những
chủ nghĩa ngu dân cùng những nôn mửa, buồn chán, xộc
xệch máy móc dựng lên một rào chắn kiên cố mà họ gọi
là thiên đường… xổ toẹt cả nền văn hoá văn minh đất
nước. Tất cả trộn lại thành vòng xoáy cùng với vòng
xoáy của chiến tranh nghi ngút khói lửa đẩy người
dân đi hết ngẩn ngơ này đến những ê chề, đau khổ
khác, không biết số phận sẽ “đi đâu, về đâu”?.
Võ Hồng đã sống trong một bối
cảnh bi thương như vậy, nhưng ông đã vượt lên trên
để nhìn ngắm quan sát rồi bắt chữ nghĩa cõng chúng
ra nơi quang đãng cho mọi người thưởng lãm và tự
ngắm lại mình, cảnh sống quanh mình. Ông sống và
viết. Viết bằng những kinh nghiệm có thật của cuộc
đời có thật, xảy ra chung quanh ông bằng một giọng
văn dung dị đến mộc mạc như quê hương ông nghèo khó
vậy. Những năm ông đi theo kháng chiến chống Pháp
làm công tác bình dân giáo dục, rồi làm hiệu trưởng
một trường trung học luôn phải di chuyển, người dân
gồng gánh tản cư tránh giặc, ngôi trường kia cũng
chạy theo, học trò ôm sách vở, mang ruột nghé gạo
chạy theo, ông cũng chạy theo ngôi trường, chạy
theo học trò để làm tròn thiên sứ một nhà giáo.
Những năm tháng xuôi ngược này, ông cùng sống với
những người dân lam lũ, quan sát cảnh đời cơ cực của
họ, quan sát những hành động, tìm hiểu suy nghĩ của
những trí thức trẻ đi theo kháng chiến. Gom góp,
tích lũy làm vốn sống cho mình. Chính với vốn sống
phong phú đó, hàng loạt tác phẩm ông viết ra được
đón nhận như đón nhận những người thân yêu lưu lạc,
nay được trở về nơi chốn bình yên.
Tất cả những điều này được các
nhà phê bình văn học lớn nhỏ phân tích mổ xẻ khá là
căn kẽ. Chỉ tội thân ông, một ông cụ già trong sáng,
hồn nhiên, bỗng sau năm 1975 bị giới phê bình VC gán
cho cái vòng kim cô : “nhà văn tiến bộ trong vùng đô
thị tạm chiếm”. Đọc những dòng viết tràng giang này,
ông chỉ mỉm cười mà không bộc lộ một thái độ nào,
coi đó như những lời nhàn đàm trong buổi trà dư tửu
hậu, mà thông qua những câu chuyên vui, ông thường
dùng từ “bá xàm, bá láp” để chỉ cho những nhận xét,
kết luận vội vàng dưới bất kỳ hình thức nào. Ông
không quan tâm những gì người ta nói về Võ Hồng theo
kiểu cách “bần cố nông đấu tố địa chủ phong kiến”.
Cuộc đời của ông là ngòi bút và trang giấy để trả nợ
quê hương từng nuôi dưỡng ông. Và ông tiếp tục viết.
Viết vì những cảm xúc không thể dằn lòng, viết vì
trách nhiệm trước ngòi bút như ông đã từng viết và
người đọc đã từng khóc với những trang sách của ông
(Một Bông Hồng Cho Cha, Áo Em Cài Hoa Trắng…) chứ
không vì cái xảo ngôn “tiến bộ” kia. Những lần được
hầu chuyện ông trên căn gác nhỏ bừa bộn sách báo,
mền gối, bút mực, chén đũa, bàn ủi, lược gương, kim
chỉ… bày la liệt, tứ tung như gánh hàng xén trong
phiên chợ quê cuối ngày (ông ngồi trên chiếc ghế đẩu
long chân, khách tự tìm chỗ ngồi), bình thản nhắc
lại “khu Xóm Mới hồi đó toàn cát, gai bàn chải, lộn
xộn mà êm”, hỏi thăm Lò Gốm quê ông còn hay mất. Và
rồi ông nhắm mắt lại: “Suốt cuộc đời tôi, chỉ
có một tâm niệm duy nhất là trả được Hiếu cho quê
hương qua từng trang sách. Tôi còn nợ quá nhiều, tôi
sẽ cố gắng ”. Ông nhẫn nại làm công việc đó bằng thứ
ngôn ngữ đặc sệt nhà quê của quê hương ông. Lấy bối
cảnh cho một cốt truyện, ông cũng đưa vào tên làng
tên xóm nơi ông từng sinh ra và lớn lên và rời xa
nó; chọn tên một nhân vật, ông cũng tìm những cái
tên chơn chất cha mẹ đặt cho bạn bè ông thời thơ ấu.
Ông mang tất cả vào những trang sách với niềm vui
tột cùng, bởi Nha Trang-Tuy Hoà chỉ cách một ngọn
đèo nhưng với ông nó thăm thẳm, khiến tâm can luôn
cồn cào, nao nao để hoài nhớ, để thổn thức…
Ta hãy nghe những dòng chữ mang
nỗi lòng của ông: “Từ quê tôi ở Tuy Hoà, tôi mang
ruột nghé gạo đi ra Tuy An để theo học trường Lương
Văn Chánh. Đi bộ bốn mươi cây số, từ nhà ra tới Định
Trung, xã An Định, nơi mở trường. Khi ra đi, tiền
túi còn đầy, có hồi tôi cao hứng leo ngồi xe ngựa.
Lọc cọc… Lọc cọc… Vút!… Trót!… Rầm rầm… Lịch kịch.
Đường cái bị phá hoại, đồng bào được huy động đào
xới, có đoạn vết đào chạy xiên xiên, sóng sóng nhau,
rất ngay ngắn, rất mỹ thuật, như cái xương cá. Có
đoạn thì hăng quá, hốt gọn luôn một quãng, phi tang
biến mất tiêu, khiến lòng đường còn sâu hơn mặt
ruộng xung quanh. Và nước đọng thành ao. Cỏ gấu, cỏ
mực, cỏ may, cỏ chỉ… rau chóc, rau sam, móc mèo, móc
ó… vội vàng xâm chiếm, xây dựng thành an toàn khu.
Và khi hoàng hôn xuống thì biến thành hội trường cho
ễnh ương toàn vùng hoà tấu” (Những Ngày Lương Văn
Chánh).
Trong truyện ngắn Bên Đập Đồng
Cháy (được cả độc giả và giới phê bình thời bấy giờ
đánh giá là truyện ngắn đặc sắc nhất, cảm động nhất)
mô tả cảnh những người dân quê lam lũ, nghèo khó
gồng gánh nhau chạy giặc ở quê ông trong cuộc chiến
khốc liệt trước năm 1975, mà nghe chừng như chính
ông cùng gồng gánh chạy theo những bà Xự, trùm Đẹt,
bà thủ Hai…. Những hoảng loạn của họ chính là nỗi
hoảng loạn của bản thân ông: “Đã đến nước cùng
rồi, đã đến mức chót rồi, không còn trì hoãn được
nữa. Bà con lối xóm đi đâu hết. Vơ vét gạo củi, đùm
túm quần áo đi hết. Lùa bò, dắt trâu đi hết. Quẩy
lúa gánh đường đi hết. Trên xóm Dương không còn
tiếng người nói. Dưới Đồng Dài không có tiếng gà gáy
trưa.
Bà Xự ngồi yên trên ngạch cửa,
hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy trên gò má”.
Cái làng quê thất thần giữa sự
sống và cái chết mà ông mô tả, dường như người đọc
có thể bất gặp bất kỳ nơi làng quê nào trong cảnh
chiến tranh tương tàn trước đây. Nhưng khi đọc đoạn
mở đầu của truyện, người đọc dễ nhận ra những giọt
nước mắt lặng lẽ chảy trên gò má của bà Xự, đấy
chính là giọt nước mắt tủi cực của ông. Rồi ông lại
để cho nhân vật bà Xự thay ông làm cái việc mà ông
không thể làm được, luôn có mặc cảm như người quay
lưng lại với quê nhà, một thứ mặc cảm luôn dày vò
ông mỗi khi có dịp thố lộ với người quen thân:
“Tôi không còn đủ sức để chống chọi. Cho tôi an
nghỉ. Tôi sẽ không về ở trên xóm, tôi sẽ về ở cái
chòi tranh giữ bắp nhỏ trên doi đất này, nơi đó tôi
đã gặp chồng tôi, ngày xưa. Tôi sẽ sống lây lất với
củ lang củ mì, với rau má rau dền, với hến với ốc.
Thôi, bà con đi đi. Chúc bà con mạnh giỏi. Cho tôi ở
lại. Không, xin cho tôi ở lại. Tội nghiệp thân tôi.
Tôi đã…” (Bên Đập Đồng Cháy).
Trong hầu hết các tác phẩm của
mình, Võ Hồng luôn nhắc đến quê hương Phú Yên, lúc
thì tan nát khói lửa, khi thì trong trẻo tuổi thơ.
Ông luôn hoài nhớ với nhiều tâm trạng khác nhau, như
cái cớ để được giải bày, thương nhớ xa gần. Lùi chút
xíu về quá khứ thuở thanh bình, thì vùng quê Tuy An,
Phú Yên, của ông là những cánh đồng trải dài, nước
lấp xấp, là những ngọn núi xanh lơ, là những dòng
sông, chiếc thuyền nan cùng cái xóm nghèo nàn với
những bà con nghèo đến xác xơ: “Tôi thương yêu
cái xóm nhỏ của tôi, con đò bằng nan tre chèo qua
lại trên dòng sông, những người láng giềng nghèo
nàn. Tôi thương yêu những đứa trẻ chăn bò vốn là bạn
chơi đáo, chơi bi…” (Hoa Bươm Bướm).
Ông luôn nghĩ về họ, những số
phận hẩm hiu, bị trói buộc trong những hoàn cảnh
khắc nghiệt nhất của thời chiến, và điều đó khiến
ông day dứt, bắt ông phải nghĩ về họ, làm được điều
gì đó để mọi người bớt cảnh cơ cực. Tuy nhiên ông
không phải là triệu phú theo nghĩa thông thường để
ra tay cứu vớt, ông chỉ có tấm lòng và triệu phú chữ
nghĩa để nghĩ về họ, những thân phận bọt bèo trong
guồng máy chiến tranh phi nghĩa, bạo tàn đè nghiến
đến xác xơ, vật vờ: “Biết bao nhiêu bà con khác ở
quê tôi phân tán đi đến miền nào tôi chưa biết hết.
Giống như những mảnh giấy vụn bị gió lốc cuốn đi, có
mảnh bay xa, có mảnh tấp gần, trên các chặng đường
ra vô lên xuống họ đều hiện diện. Và xơ xác như
những mảnh giấy” (Khoảng Mát).
Tại sao nhà văn lại thiết tha với
quê hương đến như vậy? Phải chăng là chữ Hiếu phải
đền đáp như ông vẫn thường tâm sự, hay đó là một
khoảng trống của sự mất mát quá lâu, quá dài để cảm
thấy mình là người ngoại cuộc, không có mặt để sẻ
chia những đau khổ với đồng bào từng là bạn ông thời
nhỏ? Bốn mươi ba năm trước đây, trả lời phỏng vấn
của tạp chí Văn, ông đã hé lộ những dằn vặt xót xa
không cùng của mình đối với Phú Yên, với Tuy An, An
Thạch, với Gò Duối, Đồng Dài, Phong Thăng, Long Hoà,
Đồng Miếu… và nhiều nơi khác nữa: “Nếp sống của
quê tôi chưa hề được một nhà văn nào nhắc đến… Thế
hệ của chúng tôi bị chiến tranh tàn phá quá nhiều,
một số lớn đã chết, những nếp sống cũ bị lần lượt
xoá đi, thay thế bằng nếp sống mới. Tôi nghĩ rằng
nếu tôi dâng trọn cả cuộc đời của tôi để dựng lại
cái Dĩ vãng đó cũng vẫn còn chưa đủ… Vậy viết về
những kỷ niệm Dĩ vãng tôi nhằm vào việc lấp một cái
hố trống. Tôi muốn các thế hệ đàn em có dịp thiết
tha gắn bó với quê hương hơn,,,” (tạp chí Văn số 299
ngày 1.9.1972).
Sau năm 1975, có 14 đầu sách của
ông được các nhà xuất bản ấn hành, gồm truyện ngắn,
truyện thiếu nhi, thơ và tiểu thuyết…, nhưng hầu
hết, hoặc ông đã viết trước kia như tiểu thuyết
Thiên Đường Ở Trên Cao (đã được tạp chí Văn trích
đăng trước 75), hay các tập truyện Vẫy Tay Ngậm
Ngùi, Trong Vùng Rêu Im Lặng, Chia Tay Người Bạn
Nhỏ… Những truyện viết mới hầu hết là những phác
thảo được sửa chữa viết lại, kể cả tập Chúng Tôi Có
Mặt (khởi viết từ 1972) và Trầm Tư là gom lại những
suy nghĩ nhận xét của ông về các vấn đề quanh cuộc
sống thường ngày. Duy nhất chỉ có tập tuỳ bút Một
Bông Hồng Cho Cha và tập thơ cho thiếu nhi Hồn Nhiên
Tuổi Ngọc là viết mới hoàn toàn. Đây cũng là trường
hợp chung của hầu hết các nhà văn Miền Nam còn ở lại
trong nước, ngoại trừ một số nhà văn mà Viên Linh
gọi là “tập đoàn” là “cán bộ” thì họ xoay ra hướng
“mới”, bắt nhịp, thích nghi một cách nhanh chóng với
loại văn chương “cung đình” một cách loè loẹt, sàm
sỡ, nồng nặc mùi tính đảng, tính nhân dân, tính nịnh
hót, chỉ điểm, đấu tố nhau…
Riêng với Võ Hồng thì không.
Tuyệt nhiên không hề thấy ông có những trang viết
nào “véo von” (chữ ông thường hay dùng để ám chỉ sự
xu nịnh) theo kiểu gió chiều nào ngã theo chiều ấy.
Ông vẫn bình thản viết, tiếp tục viết như xưa nay
vẫn viết. Ông viết vì những tình cảm chân thành, gắn
bó; ông viết vì những cảm xúc trước mọi sự, mọi vật
xảy ra quanh ông, không vồ vập mời chào, không chớn
chở se sua, không xum xoe vẫy cánh vẫy đuôi quanh
cây cột cháy đen thui để sờ nắm như người khiếm thị
xem voi…
Trong số 14 tác phẩm sau này ông
viết bằng nỗi niềm hoài nhớ quê hương, viết về người
cha, người thầy, về các em nhỏ, về cây mãng cầu, bụi
ớt… mà không mở rộng ra như Hoài Cố Nhân, Vết Hằn
Năm Tháng, Con Suối Mùa Xuân, Như Cánh Chim Bay,
Người Về Đầu Non… trước 75.
Trong tất cả những đầu sách này
(XB sau 75) đều “dễ thương”, bởi người đọc sau khi
gấp sách lại, hình như cảm thấy trong truyện có bóng
dáng mình, bạn bè, người thân của mình thấp thoáng
đâu đó, có mái trường mà hồi xưa, ngày còn trẻ thơ
đã thênh thang cắp sách vở đi về ngày hai buổi… và
mỉm cười thích thú với những hồi tưởng mang mang…
trải bay nhẹ theo cơn gió nồm chiều.
Nhưng trong số ấy, tôi chú ý nhất
vẫn là quyển Chúng Tôi Có Mặt, một tập truyện
không có bóng dáng con người, con người bị đẩy xuống
hàng thứ yếu, bị đẩy qua bên kia chiến lũy, bị lên
án… để cho loài vật hiện diện, làm chủ cái tập thể
gia súc, gia cầm, chồn, cáo, beo, gấu, niềng niễng,
bọ chét, rệp… Ngay Lời Mở Đầu của tập truyện, ông
nói: “Tôi viết tập truyện nhỏ này với niềm say mê
thích thú chưa từng có. Một mình trên căn gác, suốt
ngày tâm hồn đắm vào thế giới loài vật những cọp,
những beo, cáo, gấu, chìa vôi, bìm bịp, chèo bẻo…
tôi tưởng như chúng đang chạy nhảy và đối thoại
quanh tôi. Thật là những giờ phút kỳ diệu.
Viết xong từng đoạn, đọc lại,
cười. Như đọc văn của ai. Thích hơn khi viết vê
Người, bởi nghĩ rằng viết về Người đã có nhiều ngòi
bút khác viết rồi. Đằng này do mình tưởng tượng dựng
ra thì hy vọng chúng mang trọn vẹn bản sắc của tâm
hồn mình.”
Đến tác giả mà thú nhận viết xong
đọc lại thấy thích thú, thì chắn chắn độc giả sẽ
được tăng lên gấp bội phần niềm thích thú đó sau khi
đọc xong? Vậy, trong Chúng Tôi Có Mặt, ông viết, kể
lại những gì?
Ngay truyện đầu tiên Cố Vấn Luôn
Luôn Có Lý, viết về con bò Cộ ghen bóng gió với vợ.
Truyện khởi đầu bằng mẫu đối thoại hết sức duyên
dáng: “..Về chuồng mắng vợ lẳng lơ, nó nạt lại:
- Vô duyên. Ghen lảng xẹt!
- Lảng cái chỗ nào? Rõ ràng nó
chụp ôm lưng mày.
- Chụp đâu? Ôm đâu? Chỗ đường
chật, mạnh ai nấy lấn chớ chụp cái gi?”
Tuy được vợ giải thích, nhưng bò
Cộ vẫn cất công tìm đủ mọi cách để hạ thằng tình
địch bò Bĩnh, bằng cách hỏi ý kiến của các cố vấn
Dê, Heo, Cò nhằm thay đổi nhân dạng, lấy bớt cái
mình có thay vào bằng những thứ của người chỉ cốt để
loại thằng tình địch, nhưng khốn thay, kết quả không
đi tới đâu mà còn bị cả tập thể các loài thú khinh
bỉ, xa lánh…
Hình ảnh của bò Cộ dường như ta
cũng bắt gặp đâu đó trong cuộc đời thật, cuộc đời có
những con người luôn nghi ngờ người khác và cũng
chẳng tin ở bản thân mình, trở thành thuộc tính yếu
đuối trong bản chất của họ.
Trong một truyện khác Tinh Thần
Ái Hữu, Võ Hồng mô tả một cảnh tranh luận trong sân
nuôi gà vịt, mà đầu dây mối nhợ cũng do anh Cồ Chuối
bày ra, đứng ra kêu gọi mọi vật “sống kề cận nhau
phải thương yêu nhau”, ý tưởng đó được Cồ Chuối giải
thích: “Ý tôi muốn nói là các loài thương yêu
nhau. Đừng có gây sự cãi cọ, cắn đá nhau. Chẳng hạn
gà đá vịt, bò húc heo, ngỗng mổ bồ câu…”. Cả sân
bắt đầu tranh luận khá sôi nổi về tinh thần đoàn kết
thương yêu nhau, và mặc dù có khá nhiều ý kiến không
mấy thuận thảo với những đề nghị của Cồ Chuối, song
cuối cùng cũng lập ra được cái hội “Ái hữu gia súc
gia cầm ở số nhà 51 Hồng Bàng” với Ban Chấp Hành gồm
Hội trưởng Cồ Chuối, Hội phó Bò, Tổng thư ký Ngỗng.
Thừa lúc Hội chưa kịp ra mắt, các con vật tranh thủ
giải quyết những mâu thuẫn nội bộ từ rất lâu: gà Tre
nhảy đá vào đầu Bò; Dê thò chân đá lén vào hông Thỏ;
Vịt cồ xoạc cánh thanh toán thằng vịt Xiêm ve vợ nó;
gà Tía trả thù thằng Cồ Chuối ức hiếp mình. Cả sân
náo loạn cả lên, xông vào nhau ẩu đả, cắn xé:
“Vậy là nhen lên những lò lửa chiến tranh mới: Cãi
cọ, chửi bới, giằng xé. Khắp sân rộn rịp. Lũ gà Giò
hăng máu cũng sẵn sàng nhớ lại những mối bất hoà cũ,
những vụ tranh chấp chưa ngã ngũ… và vậy là những
cuộc đọ sức nổ rải rác đó đây. Khắp sân rộn rịp
trong không khí đấm đá tưng bừng. Không còn ai đứng
ra tuyên bố Hội Ái hữu gia cầm và gia súc ở số 51
Hồng Bàng sẽ tái nhóm vào ngày nào.”
Có thật là Võ Hồng trong tình thế
hiện tại, không thể xoay trở, không thể viết theo ý
mình, từ những cảm xúc chân thật, những nhìn ngắm
khách quan đang diễn ra trước mắt… theo như dòng văn
chương ông viết trước đây, nên ngán ngẩm, xoay ra
đùa giỡn chơi với trẻ con (Hồn Nhiên Tuổi Ngọc), đùa
giỡn với chính mình và nhân thế trong một giới hạn
được hạn định, rào đón trước? Dẫu ông nói gì, phân
bua những gì gì chăng nữa trong lời tựa đầu sách, và
cho dẫu những hàm ý được che giấu dưới lớp giấy mực
gây chút ngạc nhiên, chút cười thú vị qua từng cử
chỉ, ngôn ngữ của các con vật, với tôi, tôi vẫn thấy
ẩn hiện đâu đó nỗi lòng quặn thắt của người cầm bút
trong rất nhiều truyện trong tập Chúng Tôi Có Mặt
này. Ví như trong truyện Lâu Đài Trên Cát , Võ Hồng
mở đầu bằng một kiểu “trích ngang lý lịch” về mối
quan hệ giữa Khỉ và Người: “Không còn nhớ rõ vào
trường hợp nào và do miệng ai nói mà Khỉ Thọt có ý
niệm “Khỉ là Tổ tiên của loài Người”. Từ những ý
niệm ban đầu cho đến những suy nghĩ đeo bám, riết
thành nỗi ám ảnh khiến Khỉ Thọt phải lục tìm, tra
cứu các thư tịch có liên quan tới loài Linh trưởng,
cùng với sự giúp đỡ của mụ Két, Khỉ Thọt đã bới tìm
được một số thông tin ban đầu, rằng “tụi nó không
lót ổ… tụi nó chun vô chun ra những cái hộp có khoét
lỗ… Lông nó ít hơn ông… Mình nó nhiều màu, hoặc trên
trắng dưới đen, hoặc trên vàng dưới nâu… (tụi nó
giống ông) y như đúc khuôn…”. Vậy là Khỉ Thọt
quyết tâm lên đường đi tìm lũ cháu chắc là lũ người
và cuối cùng cũng tìm thấy chúng, có cả thảy bốn
đứa. Thay vì nhận họ hàng của nhau, bốn thằng người
kia hết ném đá xua đuổi ông Tổ, rồi lại lấy súng bóp
cò: “Khỉ Thọt quay lên nhìn mấy đứa cháu, ngơ
ngác không hiểu. Chợt một tiếng “đoàng” nữa. Lũ
chồn, thỏ, cáo, hưu đi tiễn cất tiếng la hoảng hốt
và co chân chạy rầm rập. Mụ khỉ vợ nhảy thót lên
cành cây, tay chân siết cổ, lão gần nghẹt thở. Cái
chân bên mặt sao bỗng nhức buốt như xé. Khỉ Thọt
nhăn mặt. Đau rát đến nỗi không khóc mà sao nước mắt
cứ chảy tuôn thành dòng.
Khỉ Thọt thẫn thờ nhìn bốn
loài Người. Nhìn chăm chăm. Rồi chầm chậm quay lưng,
bước lảo đảo trên những lối cũ. Những giọt máu rơi
lộp độp trên tầng lá, màu đỏ tươi, như đánh dấu con
đường trở về…”
Đoàn ông Tổ khỉ Thọt trên đường
hành hương tìm lại cội nguồn con cháu thằng Người đã
bị lũ con cháu đón tiếp bằng cách thẳng tay xua
đuổi, chối từ mối quan hệ có thật trên sách vở!
Đọc đến đoạn cuối của truyện này
(LĐTC), bỗng dưng nghe như toàn thân đau nhói bởi
những liên tưởng vu vơ (xin lỗi nhà văn Võ Hồng kính
mến): Tôi liên tưởng đến lời kêu gọi 10 điểm man
trá, đến cái gọi là đoàn kết, hòa hợp, ái hữu điêu
ngoa. Tôi nhớ đến những bàn chân chạy thất thần trên
bãi cát mặn chát muối, mồ hôi, nước mắt và cả máu;
đêm tối ngằn ngặt những tiếng khóc trẻ con bịt kín
miệng bằng chiếc nùi giẻ; tiếng súng nổ, tiếng la
thất thanh. Chiếc thuyền tách bãi len qua vực lách,
nhận chìm trong dòng nước xoáy. Những con thuyền nan
lênh đênh, dòng người lênh đênh trôi giạt như phận
rong rêu, mong manh không bờ bến, lang thang suốt
một kiếp nhân sinh cùng những đắng cay tủi nhục.
Những lang thang, tủi nhục này sẽ còn tiếp diễn khi
mà những giả trá, xảo ngôn, lộng hành không thiếu
chỗ hở để chen chân vào chốn lương thiện, khi mà
những kẻ đầu cơ, những tên lừa lọc, lừa đảo vẫn nguỵ
biện bằng những vầng hư danh “tổ tiên”, vẫn cúi dựa
vào cái xác chết thúi rữa hôi tanh mà bóp hầu bóp
họng lũ con cháu anh Khỉ Thọt ngu ngơ, kéo theo
“những giọt máu đỏ tươi, như đánh dấu con đường trở
về”, cho đến khi nào triệt tiêu hết lũ con cháu theo
lý thuyết số học và sự hiển nhiên cơ học thì lũ “con
cháu Tổ tiên” mới hài lòng, hả dạ? (Hình như đi hơi
xa vấn đề, xin quay trở lại).
Mặc dầu trong lời tựa, ông cất
công giải thích rằng: “Những truyện loại này
người ta quen gọi là Ngụ ngôn. Với tôi thì không hẳn
đúng bởi tôi không có hậu ý dạy điều khôn dại mà chỉ
muốn người chơi vui với một thế giới hồn nhiên dễ
thương…”. Những dè dặt, rào đón này xem chừng
không thừa đối với các nhà văn còn giữ được chút ít
trong sạch cho tâm hồn, giữa thời buổi VIẾT LÁCH
này, nếu không muốn tự trói tay đi vào chỗ bị bóp
méo, bị quy chụp, kết án này nọ…ít hơn là bị mòn xói
theo đà trượt dài của những ngoa ngữ hàm hồ… đã từng
xảy ra với đám nhà văn “theo đóm ăn tàn”.
Quay sang một cách viết khác,
chọn lựa đề tài khác cũng là một thái độ của người
cầm bút, để người đọc thấy được anh Hương Quản Bọ
Hung hành sử ra sao sau khi toàn thể đám côn trùng
khu Đầm Lác được anh Bọ Hung đứng ra bảo vệ, giữ gìn
trật tự trị an… : “Thấy rồi! Thấy vì sao rồi. Mùi
hôi không phải do chị Bọ Xít mà do những ngón chân
của Bọ Hung dính đầy phân heo. Tôi mới lén bò lại
gần coi rõ. Ngửi kỹ nữa. Mùi phân heo rõ ràng mà. Do
phân heo nơi chân của ổng mới hôi nồng nặc cỡ đó”
(Hãy Tìm Cái Xấu Nơi Mình Trước).
Không cố công cào xới, không vạch
tìm ám chỉ, nhưng khi khép trang sách lại trên môi
vẫn nở nụ cười, nhưng là nụ cười méo xệch với một
chút thẫn thờ, một chút nhói đau trên suốt 30 truyện
của Võ Hồng trong tập Chúng Tôi Có Mặt, lẫn lộn
những tâm sự và tâm trạng chồng chất.
Cảm ơn ông, nhà văn Võ Hồng với
tấm lòng nhân ái, những chất phác quê mùa thơm mùi
bùn non, cứt trâu, cứt bò ngào ngạt trong cơn mưa
lất phất cuối đông, làm ấm lên chút tình người mong
manh, để lũ con cháu lang thang này còn nơi chốn mà
nhớ về, tưởng đến với chút ngậm ngùi hè xưa nát lòng.
Tháng 8.2005
Nguyễn Lệ Uyên
Nguồn: Cả hai bài do tác giả gửi Diễn Đàn
|