Những bài cùng tác giả
Tin anh Phạm Ngọc Tới mất, quả là đột ngột với tôi. Anh
và tôi cùng tuổi, anh chỉ hơn tôi non 5 tháng, nhưng anh thường khỏe mạnh,
không quặt quẹo từ nhỏ như tôi. Vợ chồng tôi thường nói đùa với anh là anh
trẻ trung như vậy, chắc thời gian đã quên anh, chắc phải thọ đến trăm tuổi,
nào ngờ! Tôi và anh quen biết nhau thời tham gia phong trào Việt kiều ở Pháp
mà anh là nhân vật kỳ cựu, trước tôi dăm năm, khi tôi còn chật vật với bênh
tật ở dưỡng đường chữa bệnh lao. Khi tôi tới với phong trào Việt kiều thì
Mỹ đã thế chân Pháp ở miền Nam; khi tôi tham gia phụ trách khối trí thức thì
thường gặp anh luôn trong những buổi họp hành; và chị Uyên, phu nhân của
anh, lúc đó lại là một “xướng ngôn viên” của
những buổi văn nghệ đại chúng. Quan hệ giữa anh chị và tôi lại hơi đặc biệt,
vì ông thân sinh ra chị Uyên, bác sỹ Vũ Ngọc Anh (1) là người đã đỡ đẻ cho
mẹ tôi khi sinh ra tôi ở Thái Bình năm 1934. Tôi xin nói nốt chuyện riêng tư
trước khi nói tới chuyện công việc chung. Anh là người luôn luôn tận tụy với
bạn bè. Tôi hỏi anh điều gì, anh luôn luôn đáp ứng, từ việc tìm hộ tài liệu,
hình ảnh thời xưa, cho đến cách pha màu cho tranh vẽ – chính anh đã chỉ cho
tôi “sơn nước” (peinture acrylique), và chỉ dẫn cách dùng, vì tôi ngại bẩn
và dị ứng nên không muốn dùng “sơn dầu”
(peinture à l’huile). Anh và tôi cũng có một
thời (lúc tôi còn khỏe) đàm đạo về tranh vẽ; anh cũng có lần rủ tôi đi với
anh tới nơi triển lãm tranh của anh (tôi thì không triển lãm vì tranh của
tôi rất riêng tư, không thể bán cho người khác!). Rồi những lần hỏi ý anh về
việc sửa hai nhà (2) cho hai con tôi, anh rất tận tụy giúp đỡ, tìm hộ thầu
khoán, đến tận nơi xem xét làm cố vấn, thậm chí có lúc còn chữa hộ cả bản vẽ
kiến trúc sao cho hợp. Tôi nhắc lại đây như một chứng, đồng thời là lời
“tái” cám ơn.
Trong thời công tác phong trào, rồi cùng làm báo Đoàn
Kết, rồi báo Diễn Đàn, anh và tôi đều luôn luôn phân biệt quan hệ trong công
việc chung và quan hệ riêng tư. Vì vậy mà thi thoảng có những điều bất đồng
trong công tác, quan hệ riêng tư không bao giờ bị vẩn đục.
Về những cuốn sách anh xuất bản, bao giờ anh cũng nhớ
dành tặng cho tôi một bản, vì anh bảo tôi là anh biết tôi sẽ đọc và đọc kỹ.
Quả là có sự này.
Đặc biệt là cuốn “Hồi ức tuổi thơ” , nxb Đà Nẵng
2007, có đoạn anh nhắc cái thói ăn quà của học sinh, và kể lại khoảng năm
1944 ở Hà Nội có cái mốt ăn “bánh tây cặp chả cốm” của học sinh các phố
buôn bán Hà Nội. Đối với tôi thì gia đình nghiêm cấm việc ăn quà, chả cốm
thì tôi chỉ được ăn có một lần duy nhất trong đời trong một ngày giỗ ở nhà
người trong họ, thời nhỏ nghĩ tới đã thèm rỏ dãi. Anh và tôi đều có những kỷ
niệm riêng của mình ở Hà Nội về năm 1945 sau Cách mạng tháng 8, và năm 1946
trước ngày Toàn quốc Kháng chiến. Tôi nghĩ đó là những kỷ niệm bổ sung cho
nhau, vì chúng tôi sống mỗi người trong khung cảnh của mình. Anh có nhắc lại
những buổi anh đi tập hát, đóng kịch, hay sinh hoạt và “chỉ huy” những đoàn
“nhi đồng cứu quốc” ở khu phố của anh, mặc đồng phục, đánh trống ếch, bồng
súng gỗ, diễu qua các phố mà tôi còn nhớ hình ảnh, trong khi tôi còn phải
học “bạc mắt” ra (vì lẽ mấy năm trước đó, tôi bị chuyển từ trường ta vào
trường tây, và sau Cách mạng thì chuyển từ trường tây ra trường ta – để rồi
sau này khi đi Pháp, lại bị chuyển từ trường ta sang trường tây). Nhưng cũng
có một đoạn anh kể về Hà Nội treo cờ năm nước Đồng minh: Mỹ, Nga, Anh, Pháp,
Tàu (Tưởng Giới Thạch); tôi đã nói với anh là tôi dám cả quyết là chỉ 4 lá
cờ Đồng minh, mà không có cờ Pháp (3), vì ngày đó, người Việt Nam nào (dù
quốc hay cộng) cũng coi Pháp là thực dân đang tái chiếm Nam bộ và rục rịch
đổ bộ ra Bắc, không ai chấp nhận việc treo cờ Pháp.
Về cuốn “Đi trong thế giới hội họa”, nxb Trẻ 2004,
tôi thú thật là có đọc kỹ, những chẳng hiểu gì.
Nhưng có lẽ hai cuốn sách mà anh bỏ nhiều công phu ra
viết một cách thiết tha là hai cuốn: “Kiến trúc, đâu là những vấn đề?”,
nxb Đà nẵng 2005 và “Xây nhà bằng đất , theo phong cách và kỹ thuật hiện
đại” (anh viết chung với kỹ sư công nghệ Trần Văn Sơn), nxb Đà nẵng
2006, đặc biệt là cuốn thứ nhì này. Có lẽ là qua cuốn sách này (hình như tập
hợp các tài liệu bài báo “kiến nghị” của anh trước đó trong nhiều năm), anh
đặt cả niềm tin vào sự ích lợi cho nước nhà về cả 3 mặt: kinh tế, kỹ thuật
và kiến trúc. Nhưng tôi cảm thấy hình như anh có sự thất vọng lớn về việc
nói mà chẳng được nghe. Đây cũng là trường hợp của nhiều Việt kiều. Có khác
chăng là ở chỗ anh là người có niềm tin trong trắng, rành mạch, cho nên khi
khám phá ra mặt trái, thì không thể nhân nhượng.
Tôi muốn nhắc ở đây lại một kỷ niệm “nhớ đời” có chút ít
liên quan đến anh Tới, mà hình như tôi đã có lần kể ở đâu đó. Hè 1975, chiến
tranh đã chấm dứt; tôi muốn về nước để thăm hỏi bà con thân thuộc, mừng mọi
người đã tai qua nạn khỏi. Tình hình trong nước lúc đó chưa ổn định, cá nhân
chưa thể đi một mình. Nhân dịp có hai đoàn Việt kiều ở Pháp về nước, tôi
đựợc ghép vào đó. Một đoànViệt kiều kỳ cựu trong phong trào, được về thăm
gia đình, do anh Tới làm trưởng đoàn. Một đoàn khoa học và kỹ thuật khoảng 8
người, (do anh S. làm trưởng đoàn), toàn là người có gia đình ở trong Nam,
do Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước mời về, và trên nguyên tắc sẽ được
tổ chức để vào Thành phố Hồ Chí Minh, đang dưới chế độ
quân quản (tôi nghe nói riêng là có mục đích để góp phần trấn an tinh
thần của trí thức miền Nam lúc đó?). Tình hình của tôi là “nửa dơi nửa
chuột”, tôi không có gia đình thân ở trong Nam, nên không ở trong diện này,
nhưng đồng thời lại do Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước thu xếp chỗ ăn
chỗ ở tại khách sạn Hoàn Kiếm như 8 vị kia. Hôm họp 2 đoàn để nghe phổ biến
thủ tục, tôi được ông đại sứ kéo ra một chỗ riêng; ông bảo tôi: “Tôi có việc
này nhờ anh, nhưng yêu cầu anh kín đáo”. Tất nhiên tôi không thể từ chối.
Ông trao cho tôi một gói vừa to vừa nặng, dán kín, và bảo là tài liệu gửi
cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi nghĩ thầm: có 2 ông trưởng đoàn đấy (anh
Tới và anh S.), sao lại trao cho tôi. Tôi yêu cầu cho tôi một giấy giới
thiệu, nhưng đại sứ bảo: sứ quán đã điện về trong nước; khi anh xuống sân
bay (Gia Lâm), sẽ có người của phủ Thủ tướng ra nhận gói tài liệu; anh đừng
ngai. Nói vậy rồi thì tôi đâu nói thêm gì được. Tôi vứt tất cả những quà cáp
cho gia đình, nhồi vào vali, để có thể bỏ cái gói kia vào cái bị khoác vai
của tôi, chật đầy cái bị, nặng, mà tôi cứ khư khư giữ, không dám rời. Thuở
đó, Hà Nội chưa có sân bay đủ dài cho máy bay lớn đáp xuống; cả hai đoàn đi
máy bay Air-France đến Viên-Chăn, rồi đổi đi máy bay nhỏ hơn để về Hà Nội.
Chẳng may, đến Viên-Chăn thì đã xế chiều, mà chỉ có một máy bay nhỏ khoảng
hơn mươi chỗ cho hành khách, thành ra hai anh trưởng đoàn phải bàn với nhau,
ai đi, ai ở lại Viên-Chăn đến hôm sau. Tôi hoảng: nếu tôi không về Hà Nội
thì lỡ hẹn người của phủ Thủ tướng ở sân bay Gia Lâm, nhưng tôi không thể
thổ lộ cho ai, vì đã được dặn là phải kín đáo. Thành ra tôi đành “vờn” chung
quanh hai anh trưởng đoàn, mà không nói gì được. May sao, anh S. ngó thấy
tôi, anh bảo tôi đi với đoàn anh, và anh Tới đồng ý. Tôi mừng quá, và thầm
cảm ơn các anh cho tới ngày nay.
Phần tiếp theo của câu chuyện là trở thành bi hài. Xuống
sân bay Gia Lâm, tôi chẳng thấy người của phủ Thủ tướng đâu cả. Tôi hoảng
quá. Lần này tôi đi với tư cách cá nhân – (không phải như năm 1970, hay sau
này năm 1981, tôi về với tư cách khách mời của Nhà nước, có người đón người
đưa, chẳng ai dám khám xét hành lý giấy tờ) – nếu công an sân bay và hải
quan đòi mở xem tôi mang tài liệu gì, cho ai, thì tôi nói sao đây. May sao
ngó quanh quẩn, tôi thấy anh T. vốn mấy năm trước là tham tán văn hóa đầu
tiên ở Cơ quan Tổng đại diện của ta ở Pháp; anh ra đón đoàn Khoa học Kỹ
thuật. Tôi vốn quen anh, biết anh là cháu rể rất thân của Thủ tướng Phạm Văn
Đồng. Tôi gọi anh, kể lể sự tình của tôi. Anh gọi một cán bộ đi cùng và bảo
tôi: anh yên trí, anh cứ trao gói đó cho anh này, sẽ về đến văn phòng Thủ
tướng ngay. Tôi không biết tên anh này, mà cũng chẳng được giấy chứng nhận
gói tài liệu. Và tôi yên trí về khách sạn. Sáng hôm sau, đã gần trưa, có
người gõ cửa phòng, tôi mở cửa, thấy một sĩ quan chào kiểu nhà binh và bảo
tôi: tôi là người của phủ Thủ tướng, đến để nhận gói tài liệu. Ba hồn bẩy
vía của tôi bay lên mây, tôi kể cho anh nỗi truân chuyên của tôi và nói với
anh là chiều hôm qua người của Ủy Ban đã lĩnh nhận và hứa là đưa về Văn
phòng Thủ tướng ngay, chắc gói tài liệu đang ở đó. Anh sĩ quan lẳng lặng
chào rồi đi. Tôi hộc tốc sang Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật để tìm anh T.,
nhưng anh đi vắng, mấy ngày sau tôi mới gặp được anh, anh cười bảo: anh cứ
yên tâm, có gì đâu!
Tôi kể lại chuyện này như thêm một nén hương viếng anh
Tới (4).
“Sinh ly,
tử biệt” là những nỗi đau trong đời người. Nhưng nếu phải tìm trong cái
“họa” một niềm an ủi, thì tôi có thể nói rằng có những người trạc tuổi tôi,
mong muốn được đột tử, tránh được những ngày hấp hối lê thê. Đó là lời tôi
muốn được nói với chị Uyên và thân quyến, kèm theo tình cảm thân ái của cả
gia đình tôi.


Ảnh chụp hè 1975, nhân bữa cơm do
Ban Việt kiều Trung ương tổ chức mời. Anh Tới mặc áo màu đậm đứng ở hàng đầu
(người thứ 4 kể từ bên phải tấm ảnh), chị Uyên là người thứ 5, tôi đứng ở
hàng 2 (người thứ 2 kể từ bên phải tấm ảnh).
Các anh chị nào còn nhớ thời Hội nghị Paris, hẳn còn nhớ
anh Nguyễn Minh Vỹ, phó trưởng đoàn VNDCCH (hàng đầu người thứ 7, kể từ bên
phải tấm ảnh). Người thứ 9 đứng ở hàng đầu đeo kính đen là Thứ trưởng phủ
Thủ tướng Nguyễn Văn Ngọc, phó trưởng Ban Việt kiều Trung ương (Bộ trưởng
phủ Thủ tướng, Trần Quang Huy, trưởng Ban Việt kiều Trung ương, vắng mặt hôm
đó).
Chú thích bên lề:
(1) Bác sỹ Vũ Ngọc Anh là bộ trưởng Y tế-Cứu tế trong
Chính phủ Trần Trọng Kim (thành lập ngày 17/4/1945 sau cuộc đảo chính Nhật
lật Pháp ở Đông Dương ngày 9/3/1945, và sau khi vua Bảo Đại và Triều đình
Huế tuyên bố bãi bỏ Hiệp ước Pháp bảo hộ, và Việt Nam khôi phục chủ quyền
ngày 11/3/1945). Ông tử nạn do máy bay Đồng Minh bắn trúng xe (23/7/1945 ?)
khi quân Nhật còn đang đóng ở Việt Nam. Năm 1934, bác sỹ Vũ Ngọc Anh đang
phụ trách Y tế ở tỉnh Thái Bình và bố tôi cũng đang làm quan tại đó, do đó
hai gia đình quen biết nhau.
(2) Nhưng không phải cái tư thất mà anh Giao nói trong
bài “Anh Tới” trên Diễn Đàn.
(3) Vả lại cờ Pháp thời đó của đội quân viễn chinh, có vẽ
thêm cái “croix de Lorraine” (2 vạch ngang, cái ngắn bên trên cái dài bên
dưới, và một gạch dọc xuyên qua mà dân ta giễu là “cờ chữ ngưu” (chữ Nho
“ngưu” nghĩa là trâu; chỉ thiếu một nét phẩy nhỏ bên đầu trái cái gạch ngắn
thì đúng là chữ ngưu).
(4) Cách đây mười mấy năm, tôi có làm bài thơ tặng anh
Tới, trong đó tôi có nhắc đến sự tận tụy tự nguyện của anh trong việc sửa
Hội quán của phong trào và việc xây chùa Trúc Lâm. Nhưng mấy kiếp máy vi
tính của tôi bị hỏng, một số tài liệu tàng trữ bị mất, nay tôi tìm không ra,
đành chịu không chép lại ở đây vì không nhớ.
Đã đăng trên
http://www.diendan.org/cac-so-dac-biet/vinh-biet-pham-ngoc-toi/tuong-nho-anh-toi/
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Bùi Trọng Liễu
|