Những bài cùng tác giả
“Nếu nhớ lại mấy cuốn sách của Anh “Chung quanh việc học”
(Nxb Thanh niên, 2004 ) “Tự sự của người xa quê hương”
và “Học gần học xa” (Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội 2004 và 2005 ) cùng với hàng
trăm bài viết về cải cách giáo dục, đào tạo tiến sĩ, sử dụng nhân tài, xây
dựng đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, về xã hội hóa giáo dục, về trường công
trường tư và trách nhiệm của nhà nước về quản lý chất lượng giáo dục... Anh
đã gửi đăng rải rác trên các báo trong nước và ngoài nước, mới thấy hết nghị
lực lớn lao ở một người đă dự cảm rõ mình chỉ còn lại không bao nhiêu ngày
trước khi từ giã cõi đời mà vẫn gắng gượng cất lên tiếng nói tha thiết với
quê hương, xứ sở.” Đó là nhận xét hết sức đúng đắn và đầy tình cảm luyến
tiếc sâu đậm của GS Hoàng Tụy trong bài: “GS Bùi Trọng Liễu – Ra đi khi lòng
còn tha thiết” đăng trên TuanVietnam.net ngày 13-3-2010.
Cuối bài, GS Hoàng Tụy đề cao vai trò đóng góp quý báu, đáng
kính phục của GS Bùi Trọng Liễu như sau: Anh đã tích cực tham gia mọi hoạt
động, ủng hộ đất nước trong từng thời kì, ngay vào những lúc gian khổ, khó
khăn nhất. Đất nước còn có những người con như Anh thì dân tộc này vẫn còn
nhiều hy vọng.
Ngay sau khi biết tin GS Bùi Trọng Liễu đã vĩnh viễn ra đi,
rất nhiều độc giả, tuy chưa bao giờ được hân hạnh gặp GS, đã gửi lời phân ưu
với tang quyến trên Internet và nói lên nỗi đau buồn chân thành và thấm
thía. Tôi mạn phép chỉ ghi lại một câu đầy đủ ý nghĩa đã làm tôi vô cùng xúc
động: Cuộc đời, sự nghiệp, bản lĩnh và tinh thần dân tộc của GS là tấm gương
sáng ngời cho hậu thế noi theo.
Như nhiều bạn xa gần đã biết, nội dung những cuốn sách và
bài báo của GS đều xoay quanh việc học. Ngoài 3 cuốn sách ghi trên, cuốn thứ
tư có nhan đề là: “Học một
sàng khôn” (Nxb Tri thức Hà
Nội, 2007). Cuốn thứ năm: “Hướng
về quê cũ lúc chiều tà” là
một tập ký bỏ ngõ, một cuốn “sách
mở” gồm những bài báo tâm
huyết đa dạng, không in trên giấy. Tiền nhuận bút GS gửi tặng học bổng cho
các em bé ở A Lưới, một vùng núi miền trung.
Cá nhân tôi vô cùng khâm phục GS về cách viết lưu loát, hết
sức độc đáo (nhập đề với chuyện xưa tích cũ) linh động, cách phân tích toán
học với những lập luận sắc bén, có khi mỉa mai kín đáo. Nhờ kiến thức uyên
thâm và kinh nghiệm nghiên cứu giảng dạy nên GS có một sức mạnh thu hút và
thuyết phục độc giả một cách hồn nhiên!
GS đã hy sinh thời giờ vàng ngọc, luôn luôn hướng về quê
hương, hết sức kiên trì trong hàng chục năm, thẳng thắng góp ý kiến, gửi
kiến nghị đến các cấp lãnh đạo. Tuy một số đề xuất của GS được chấp thuận
hay được thực hiện, nhưng GS vẫn khao khát lo ngại, xem như những tiến bộ
chưa đáng kể, cần phải tiến nhanh tiến mạnh hơn nữa mới cứu vãn được nền
giáo dục của đất nước. Cũng như tôi, GS không ngần ngại chỉ trích xây dựng ,
dù có làm phật ý các cơ quan trách nhiệm đi nữa
Vì muốn đóng góp cụ thể trong việc cải tổ mà GS xung phong
làm «gạch nối» giữa Việt Nam và giới đại học hải ngoại, nhất là với Pháp và
Mỹ. GS đã bao lần trao đổi quan điểm, bàn cãi với các đồng nghiệp thân thiết
như GS Tạ Quang Bửu, GS Trần Đại Nghĩa, GS Lê Văn Thiêm, GS Laurent Schwartz
và nhà vật lý thiên văn Henri Van Regemorter.
Viết đến đây, tôi hồi tưởng một dĩ vãng đầy nghị lực, đã
cùng GS và các bạn khác hăng say hợp tác năng động, hướng về tổ quốc đang
còn khói lửa chiến tranh bao trùm. Lúc bấy giờ GS
là Chủ tịch Hiệp Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tại Pháp, tôi là Phó Chủ
tịch. Tuy là một nhà toán học thuần túy, GS đảm nhận trách nhiệm điều khiển
một cách nhẹ nhàng, bình đẳng một đội ngũ khá hùng hậu, gồm hàng chục kỹ sư,
chuyên gia đủ ngành nghề. GS đã tổ chức biết bao nhiêu buổi họp ở Paris, ở
ngoại ô và ở tỉnh. Đồng thời, GS cũng tham gia đắc lực trong Đòan Chủ Tịch
Hội Người Việt Nam tại Pháp. Uy tín của GS trong nước cũng như ở Pháp rất
cao. Mọi người đều kính nể GS về tài năng cũng như đức hạnh. Vì sức khỏe
ngày càng kém, nên đã gần 27 năm nay GS không trở về nước công tác được.
Năm 2003, tôi hân hạnh được GS giới thiệu tôi cho thính
giả trong một buổi thuyết trình ở Paris về năng lượng. GS thường xuyên trao
đổi ý kiến với tôi về chiến lược đào tạo nhân tài và một số dự án quan trọng
khác. GS thích nhìn xa ngó rộng. Tôi cũng hoàn toàn đồng ý với GS là nước ta
nên đầu tư ưu tiên vào lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu thay vì những chương
trình thiếu triển vọng và không kinh tế.
Tôi quý trọng và mến nể GS như anh em ruột thịt và xem GS
như một cố vấn đặc biệt của tôi. Trong bài số 5 về điện hạt nhân tôi viết
ngày 25-3-2004 “Tại sao chưa nên làm điện hạt nhân ở
Việt Nam” chính GS đã sửa
kết luận của tôi, nguyên văn như sau: “Nếu xu thế là không thể cưỡng lại
được toàn cầu hóa, thì một nước đang phát triển như ta cũng chỉ nên chấp
nhận toàn cầu hóa này với sự thận trọng và dè dặt. Không thể chấp nhận việc
các nước giàu mạnh tiếp tục bóc lột hay lấn ép nước nghèo. Chế tạo lò hạt
nhân thiếu an toàn, để bán cho các nước nghèo (biết đâu lại có hàng tồn kho
- solde?), rồi kệ cho họ mắc kẹt, là một hành vi vô trách nhiệm. Những gì có
lợi cho một số cường quốc không phải cũng có lợi cho các nước đang phát
triển. Và có những con đường tiến lên phát triển mà không cứ phải bắt chước
giống hệt như con đường mà một số nước đã trải qua...”
Tôi chữ nghĩa đâu mà viết được như thế?
Sau khi tốt nghiệp, GS và tôi tình cờ cùng đi một đoạn đường
giống nhau. Cả hai chúng tôi đều có làm việc ở Tập đoàn điện lực Pháp (EDF)
trước khi đi dạy ở Đại học. Khác chăng là tôi vừa phục vụ ở EDF vừa đi dạy,
còn GS thì chuyên đi dạy, sau khi thôi làm việc ở EDF. Ngoài ra, chúng tôi
sở dĩ có nhiều cơ hội tâm sự với nhau cũng do anh Bùi Trọng Lựu,
cựu GS ở Đại học Bách
khoa Hà Nội, là bạn đồng song
của tôi, tốt nghiệp kỹ sư thủy điện ở Đại học Bách khoa Grenoble cùng một
khóa với tôi. Cả hai Anh Lựu và Liễu đều vô cùng hiền hậu, khiêm tốn và nhã
nhặn . Vào mùa thu năm 2009, hôm đến thăm nhà Anh Liễu ở
Antony, tôi hỏi dò Anh có đồng ý để tôi đề nghị Ban Chủ Tịch
Hội Người Việt Nam tại Pháp tổ chức một buổi tiếp tân thân mật để tỏ lòng
biết ơn Anh về những đóng góp quan trọng của Anh đối với đất nước và Hội.
Anh mỉm cười trả lời ngay là Anh cảm ơn nhưng không tán thành chút nào. Anh
không thích người ta đề cao vai trò của Anh! Có lẽ vì vậy mà tang quyến yêu
cầu tôi đừng làm lễ cầu siêu cho Anh. Tuy nhiên ở Hà Nội, Viện sĩ Nguyễn Văn
Hiệu có tổ chức long trọng lễ truy điệu ở Viện khoa học kỹ thuật sáng ngày
15 tháng 3.
Đầu năm nay Anh có nhờ tôi gửi cho Anh tài liệu mới nhất về
các trường kỹ sư ở Pháp để Anh so sánh cách thức tuyển chọn sinh viên . Lần
cuối cùng tôi gặp lại Anh là trong buổi lễ Tết do Hội Người Việt Nam tổ chức
ở Unesco Paris tối 6-2-2010 . Tôi rất ân hận vì không vào thăm Anh được ở
bệnh viện trước giây phút Anh vĩnh biệt. Anh không muốn bạn bè mất thì giờ
cho Anh. Vợ Anh, Chị Colette Bùi tha thiết nhắn tôi đừng phổ biến tin Anh
vào nhà thương. Vài hôm sau thì Chị Colette gọi
điện thoại báo tin như sét đánh, làm tôi khóc nức nở trên đường phố
Grenoble! Ở Paris báo Diễn Đàn loan tin buồn rất nhanh trên mạng.
Lúc sinh thời, Anh Liễu đã làm tròn bổn phận một người
dân biết yêu nước. Anh cũng là một người chồng và một
người cha can đảm, xứng đáng. Chị Colette, GS Đại học môn toán, đã nghỉ hưu
và hai người con trai Marc Bùi và Alain Bùi (đã về nước công tác nhiều lần)
đều là GS Đại học về môn tin học ở Paris và Versailles St - Quentin en
Yvelines. Chị Colette cũng được an ủi phần nào, sống gần Alain, Marc và 7
cháu nội. Không phải gia đình nào cũng hưởng được phúc đức ấy.
Tôi được may mắn và vô cùng hãnh diện có được một người
Bạn gương mẫu như GS Bùi
Trọng Liễu. Tôi học hỏi ở Anh rất nhiều
Đối với tôi, những bài báo và sách Anh Liễu để lại cho
chúng ta là một kho tàng vô giá, cần được khai thác triệt để.
“Lý tưởng của đời người là nói được
những gì cần nói và làm được những gì cần làm”.
Tôi nghiêng mình thành kính lạy Phật phù hộ cho hương hồn
Anh Liễu sớm về miền Cực lạc.
Grenoble 25- 3-2010
Đã đăng trên báo Đoàn Kết
|