Những bài cùng tác giả
Trong số nhiều thế giới mà con người được tặng,
không phải từ thiên nhiên, mà từ sự tự tạo của chính
trí tuệ mình, thì thế giới sách là thế giới vĩ đại
nhất.
Hermann Hesse
Thật là hữu ích khi chúng ta bàn về sách. Có rất
nhiều điều để nói về sách, có thể viết ra thành
nhiều tập. Nhưng có lẽ trước hết hãy để một số danh
nhân lịch sử phát biểu về sách để chúng ta suy ngẫm:
Ai chỉ đọc báo, hay xa hơn là sách của các tác giả
đương thời, đối với tôi giống như một người bị cận
thị nặng nhưng lại từ chối đeo kính. Người đó hoàn
toàn bị lệ thuộc vào thành kiến và khuynh hướng thời
trang, bởi vì người ấy không bao giờ thấy hay nghe
bất cứ cái gì khác cả. Những suy nghĩ của một con
người chỉ biết mình và không được gợi ý bởi những ý
tưởng và kinh nghiệm của người khác, trong trường
hợp thuận lợi nhất cũng chỉ là nghèo nàn và buồn tẻ.
Trong thời gian một thế kỷ mới có vài người được
khai sáng để có được một sự hiểu biết toả sáng,
phong cách và khẩu vị. Những gì chứa đựng trong các
tác phẩm của họ là những tài sản quý giá nhất của
nhân loại. Chúng ta do đó cám ơn một vài nhà văn của
thời cổ đại đã giúp cho con người trong thời trung
cổ giải phóng mình ra khỏi sự mê tín và thiếu hiểu
biết, những cái đã làm cho cuộc đời họ tăm tối hơn
năm trăm năm. Không có gì cần thiết hơn là việc khắc
phục tính phô trương của con người tân thời chủ
nghĩa của hiện tại!
Albert Einstein
Tạo thêm một thư viện cho một căn nhà là cho căn nhà
đó một linh hồn.
Cicero Khi tôi có một ít tiền, tôi mua sách; nếu còn lại,
tôi mua thức ăn và áo quần.
Desiderius Erasmus Đại học đích thực của những ngày này chính là một sự
sưu tập của sách
Thomas Carlyle
Các loại giải trí khác là đặc biệt cho những thời
nào đó, những chỗ, giai đoạn nào đó của cuộc sống,
nhưng sự nghiên cứu sách vở là sự nuôi dương của
tuổi trẻ, và niềm vui của tuổi cao. Chúng đem lại sự
lộng lẫy cho phồn vinh, và là nguồn, và sự an ủi của
sự không may; chúng đem lại niềm vui trong nhà,
không phải là sự bối rối, chúng là những người bạn
đồng hành của chúng ta trên cuộc hành trình, và là
những người phục vụ trong những lúc nghĩ ngơi ở thôn
dã.
Cicero
Một đồng đô la được đầu tư vào một quyển sách và một
quyển sách được tinh thông có thể làm thay đổi cả
cuộc đời của một cậu bé. Nó có thể dễ dàng trở thành
bước đầu của một sự phát triển của một tài năng lãnh
đạo để đưa cậu bé đi xa vào việc phục vụ cho các
đồng loại của cậu.
Henry Ford
Những điều tôi muốn biết đều ở trong sách; người bạn
tốt nhất của tôi là người sẽ cho tôi một cuốn sách
mà tôi chưa đọc.
Abraham Lincoln
Tôi vẫn theo các sách cũ, vì chúng dạy tôi được một
điều gì; từ những sách mới tôi học được rất ít.
Voltaire
Một liều chất độc có thể có tác dụng tức khắc, nhưng
một quyển sách xấu có thể tiếp tục đầu độc tinh thần
hằng nhiều thế hệ.
W.John Murray
Vài hình ảnh và thông tin đáng xem về sách:
 Phòng đọc sách lớn của thư viện của thành phố đại học Göttingen thế kỷ 18

Một góc của thư viện riêng, với khoảng 1700 quyển
sách còn lại của nhà toán học vĩ đại C.F. Gauss
(1777-1855)

Một góc của thư viện riêng của Goethe (1747-1832)
với 7.500 quyển sách, trong đó ¼ là sách khoa học.
Ngồi trong một thư viện, Goethe cảm thấy “như đang ở
trước một nguồn tư bản lớn âm thầm sinh lợi”. Thư
viện của cụ Nguyễn Du còn để lại? Goethe và Nguyễn
Du (1765–1820) sống cùng thời.

Quyển Kinh thánh của Gutenberg (khoảng 1400-1468)
hình thành giữa năm 1452 và 1454 tại Mainz, Đức Đây là
bản thống kê sách của một số thư viện nổi
tiếng trên thế giới: Thư viện quốc gia Anh (London): 25 triệu (British
Museum) Thư viện quốc gia Pháp: 13 triệu Thư viện quốc gia Hoa Kỳ (Library of Congress, Washington): 29 triệu Thư viện Đại học Harvard: 15 triệu Thư viện Nhà nước Berlin: 10 triệu (Chưa tính thư viện quốc gia kết hợp Leipzig và Frankfurt, khoảng 20 triệu) Thư viện quốc gia Nga St Petersburg: 20 triệu Thư viện Đại học Tokyo: 8 triệu Thư viện Đại học Shanghai: 3 triệu Thư viện Đại học Waseda: 4.5 triệu Thư viện quốc gia Singapore 16 triệu Thư viện quốc gia Hà Nội: 2 triệu
(Trong đó số sách ngọai là 95.497, không kể sách với
tiếng nói trong khu vực) Trên chỉ nói các đầu sách, chưa kể các ấn phẩm định
kỳ, bút tích,… Mạng lưới thư viện của các nước phát triển là dầy
đặc, từ trung ương (thư viện quốc gia) đến địa
phương (thư viện đại chúng ở các quận huyện), qua
các đại học, cao đẳng, trường học, trường chuyên
ngành, tổ chức, hội đoàn,…, chưa nói đến hằng triệu
tư nhân, học giả, khoa học gia, chính trị gia, luật
gia, nhà nghiên cứu, văn sĩ, …và những người chơi
sách. Các quốc gia, kể cả vua chúa trước đây, hoặc
đại học lớn đều hãnh diện về những thư viện bề thế
của mình, đầu tư mua sắm rất nhiều, và xem thư viện
như biểu tượng của tri thức, bộ mặt văn hóa. Các thư
viện lớn đều là những công trình kiến trúc nổi
tiếng. Việt Nam muốn đầu tư cho hệ thống thư viện
hiện đại cần một số tiền phải đến vài tỉ đô la.
Một vài sự kiện về ngày sách quốc tế: Năm 1872 UNESCO đã tuyên bồ là Năm Sách quốc tế. Năm 1995 UNESCO tuyên bố ngày 23.4 là Ngày Sách thế
giới và Bản quyền. Đó cũng là ngày mất của ba vị đại
văn hào thế giới Cervantes, Shakespeare và Inca
Garcilaso de la Vega vào năm 1616. Ngày đó còn là
ngày sinh, hay mất của nhiều văn hào tên tuổi khác
trên thế giới. Tại Tây Ban Nha, ngày này cũng là
ngày lễ sách truyền thống của nhân dân của tỉnh
Catalonia. Ngày đó người ta bầy bán sách ngoài
đường, tặng hoa hồng cho mỗi cuốn sách được bán ra,
tổ chức những buổi đọc sách, bình sách cho công
chúng. Nó là một sự kiện văn hóa có tính chất dân
tộc. Ngày nay nhiều nước trên thế giới đã lấy ngày
này làm ngày sách cho cả nước, với sự tham gia của
vô số nhà xuất bản và nhà sách. Tại Đức, từ 1996,
xung quanh ngày 23.4, có nhiều sinh hoạt văn hóa như
tổ chức hội sách, đọc sách nhiều thể lọai, giao lưu
với tác giả.
   Miguel de Cervantes William Shakespeare Inca
Garcilaso de la Vega (1547 – 1616) (1564 – 1616) (1539 – 1616) Bây giờ trở lại câu hỏi, người Việt Nam đọc sách ít
hay nhiều. Chắc hẳn mọi người sẽ không khó trả lời
câu hỏi này. Hay chúng ta hỏi ngược lại, Việt nam có
được bao nhiêu sách, bao nhiêu thư viện cỗ, so với
thế giới? Tại sao một dân tộc được cho là hiếu học
mà lại ít sách như thế? Tôi chợt nghĩ ra, có lẽ dân
ta hiếu học, nhưng thực sự chỉ một “giai cấp” nhỏ
nào thôi, và vì có quá ít sách, hay đó lại là cội rễ
của việc có ít sách, mà dân ta, hay giai tầng hiếu
học kia chỉ biết học từ chương, kinh điển, cứ học
đi, học lại, xuyên bao nhiêu thế kỷ, mà không hề
thấy cần thiết phải thay đổi nội dung, phải đi tìm
cái mới. Tại phương Tây sách vỡ biểu hiện cho quá
trình tư duy, cho nên thời nào cũng phong phú. Với
kỹ thuật in của Gutenberg thế kỷ 15, sách dần dần
trở thành một “quyền lực”, một sức mạnh tư duy ngày
càng được phổ biến đến nhiều tầng lớp dân chúng, đặc
biệt vào đầu thế kỷ 19, với những phát minh máy in
nhanh của Đức, sự phát triển lan truyền ấy đạt đến
tốc độ bùng nỗ. Phương Tây có rất nhiều sách, và
người ta đọc sách và học từ sách cũng rất nhiều (đa
số các thiên tài khoa học đều là những người tự học,
nghĩa là học từ sách vỡ), nghiên cứu rất nhiều, viết
sách rất nhiều, trí tuệ hầu như không bao giờ ngưng
trệ, hay có ngưng trệ giai đoạn nhưng rồi lại bứt
phá để tiến lên. Không phải vì có nhiều sách, và đọc
nhiều sách mà họ đâm ra “giáo điều”, từ chương, như
phương Đông. Không phải thế. Có lẽ cũng chính vì
thế, vì họ luôn luôn có sách mới, chuyển tải bao ý
tưởng mới trên mọi lãnh vực, mà họ không bị giáo
điều. Họ luôn luôn động não, luôn luôn sáng tạo ra ý
tưởng mới, văn hóa và học thuật luôn luôn đổi mới.
Xã hội họ là xã hội động. Trong khi phương Đông,
trong đó có Việt Nam, có quá ít sách, vì thế đi vào
từ chương, giáo điều. Hay nói cách khác, vì giáo
điều, từ chương mà thế giới ý tưởng, khoa học, văn
hóa, và do đó sách như phương tiện chuyển tải ý
tưởng bị bế tắt! Xã hội phương Đông là xã hội tĩnh.
Ở đâu cũng thế, khi giai cấp thống trị càng giáo
điều hay từ chương thì tư tưởng và học thuật không
thể phát triển được, và tất yếu công nghệ và văn hóa
sách càng không phát triển. Còn ở đâu chính sách
càng cỡi mở về văn hóa, tư tưởng, tôn giáo, ở đâu
những giá trị tinh thần được trân trọng, nâng niu, ở
đó tư duy, văn hóa sách phát triển lan truyền mạnh
mẽ, thăng hoa, để phục vụ cho học hỏi, trao đổi và
nghiên cứu. Sách là biểu tượng cho óc tò mò học hỏi, sáng tạo,
biểu tượng của tài sản văn hóa, học thuật của một
dân tộc. Nhật Bản có lẽ là một dân tộc, từ ngày tiếp
xúc với thế giới phương Tây, đã tỏ ra một dân tộc
ham học hỏi cái mới một cách đam mê, và “bừng bừng”
như lửa cháy, với tất cả khát vọng muốn được biết,
và muốn vượt lên trên hàng đầu với thế giới. Họ biết
thế giới đã phát triển trước họ hàng trăm năm, họ bị
tụt hậu, và họ cương quyết muốn đuổi kịp. Và để
đuổi kịp, họ muốn biết tất cả những gì phương Tây đã
sáng tạo ra trước đó, đã làm nên sức mạnh thần kỳ
đó. Họ say mê hiểu biết một cách cuồng nhiệt, muốn
chiếm lĩnh tư tưởng và văn hóa của phương Tây, kể cả
âm nhạc, và muốn chứng minh họ cũng biết tất cả, và
không thua kém ai. Cái đầu họ muốn đuổi kịp, và đứng
ngang hàng với cái đầu của phương Tây. Chuyện họ đã sớm dịch tất vô số sách thuộc loại
“kinh điển” ra tiếng của họ gần đây đã được nhiều
người nói đến. Nhưng điều làm cho những người ưu tư
đến công cuộc chấn hưng đất nước không khỏi lo lắng,
là khi biết rằng vào thời điểm này, thế kỷ 21, một
số cuốn sách hay thuộc loại “kinh điển” của nước
ngoài đầu tiên được dịch ra tiếng Việt chỉ bán được
với số lượng chỉ vài ngàn quyển thôi, với số dân hơn
80 triệu, trong khi đó những cuốn sách đó đã từng
được dịch và được bán đến hàng triệu bản tại Nhật
Bản thời Minh Trị rồi, với số dân chỉ vài chục triệu
thời đó. Đó chẳng phải là điều gây sốc, nếu ai bình
tâm suy nghĩ hay sao? Đó đáng lẽ phải là điều làm
thất kinh cho những ai biết lo lắng đến tiền đồ của
đất nước. Bao giờ dân Việt đạt được sức đọc mạnh như
sức đọc của dân Nhật hơn một trăm năm trước đây? Bao
nhiêu năm nữa? Vì sao chúng ta, một dân tộc bốn
nghìn năm văn hiến, mà nay sức đọc quá thấp kém như
thế đối với dân tộc “võ sĩ” như Nhật Bản đã từng
làm? Hệ quả của nó cũng sẽ rất nghiêm trọng, nếu ai
bình tâm suy nghĩ. Với tốc độ đọc sách và học hỏi
cái mới như thế, chừng nào chúng ta mới hiểu biết
thế giới, và chấm dứt sự lạc hậu của chúng ta, chừng
nào Việt Nam là dân tộc phát triển về tư duy, văn
hóa theo kịp với thế giới? Nước nào trên thế giới có tuyển tập Các Mác – Ăng
Ghen qui mô đầu tiên trên thế giới? Xin trả lời
rằng: không phải Liên Xô hay Trung Quốc, cũng không
phải nước “chủ nhà” là Đức, quê hương của hai vị. Mà
chính là Nhật Bản! Những tập đầu tiên của bộ tuyển
tập được nhà xuất bản Kaizosha cho ra mằt năm 1928,
và năm năm sau tuyển tập được hoàn tất. Nó chính là
bộ tuyển tập qui mô đầu tiên của thế giới! Tập đầu
tiên của bộ tuyển tập bán được 150.000 quyển. Trung
bình mỗi tập được bán khoảng 120.000 quyển. Số lượng
này không thể tưởng tượng được ở Mỹ và ở châu Âu vào
thời điểm đó. Cũng thế, tuyển tập đầu tiên của Einstein trên thế
giới không phải được in tại Đức, châu Âu hay Mỹ, mà
cũng chính tại xứ sở hoa anh đào này, vào năm 1922,
và cũng chính tại nhà xuất bản Kaizosha kia. Nhà
xuất bản này cũng là đơn vị có sáng kiến đứng ra mời
Einstein sang thuyết trình cho một thời gian là 6
tuần tại các đại học và cho công chúng, và cùng lúc
đó cho ra mắt tuyển tập gồm bốn bộ của Einstein bằng
tiếng Nhật, bao gồm những bài của Einstein không
phải dễ tìm lúc đó. Nếu trong tiếp đón, người Nhật
muốn biểu lộ họ không thua kém dân tộc nào trong
việc ngưỡng mộ Einstein, thực sự họ đã dành cho
Einstein một cuộc tiếp đón nồng nhiệt hơn các cuộc
tiếp đón ở Mỹ, thì trong học thuật họ cũng muốn
chứng minh họ không thua dân tộc nào trong việc
nhanh chóng tỉm tòi học hỏi cái mới. Phải nói đó là
một nỗ lực phi thường của họ vào thời điểm đó. Chúng ta đã quen với Fukuzawa Yukichi (1834-1901).
Ông là đại biểu quan trọng nhất của thời khai sáng
của Nhật Bản trong thời Minh Trị. Ông là người chủ
trương hình thành các cá nhân tự chủ như những cột
trụ của nền văn minh và chỉ khi xã hội có đủ các cá
nhân tự chủ thì đất nước, quốc gia mới có thể độc
lập, tự chủ được. Quốc gia nếu chỉ gồm những người
dễ bảo, dễ dạy, thiếu hiểu biết, không đầu óc, thì
không thể có hay bảo vệ độc lập, tự chủ lâu dài
được. Trước ông, đầu thế kỷ 19, nhà cải cách Phổ
Freiherr von Stein, và những đồng nghiệp của ông
cũng đã nói thế, và thực hành thế. Thời đại Fukuzawa
là thời làm đảo lộn giá trị xã hội, người Nhật có
cái kỳ tài, là tuy trong lịch sử mình cũng đã từng
lấy các triều đại vua Trung Quốc làm “mô hình nhà
nước” làm mẫu, nhưng đến thời Minh Trị, họ có sức
mạnh tự phát, như một sự bừng tỉnh tức khắc, cái mà
người Việt Nam không có, biết khôn ngoan chuyển đổi
ngay, vứt bỏ ngay các mô hình của quá khứ để chuyển
đổi nhanh chóng sang mô hình “Châu Âu và Mỹ”, thay
đổi các bậc thang giá trị, từ “sein” (tồn tại theo
cái cũ) sang “tun” (hành động theo cái mới). Chính
vì vậy mà nước Nhật mới phát triển nhanh chóng.
Trong khi Việt Nam không có được sức mạnh tự phát
như thế để nhận thức và chuyển đổi tình thế nhanh
chóng. Fukuzawa viết: “Những ai làm những việc khó
khăn hôm nay, người ta gọi họ là những người cao
thượng; những ai làm những việc dễ, người ta gọi họ
là những người thấp kém. Làm một cái gì hữu ích cho
con người, như bằng cách người ta cách đọc sách, và
suy nghĩ, điều đó có lẽ là khó khăn. Do đó ranh giới
để phân biệt giữa những người cao thượng và thấp kém
chỉ nằm ở tính chất khó khăn của công việc mà họ
làm. Cho nên hôm nay có rất nhiều Đaimô, Quý phái
cung đình, Samurai, và những người khác, họ tuy có
trông đẹp đẽ khi họ ngồi trên lưng ngựa và đeo gươm
ngắn, gươm dài, nhưng họ hầu như rỗng tuếch bên
trong, như một cái thùng tô nô rỗng …họ tiêu pha
những ngày của họ không vất vã, và không mục đích.
Thật không có lý do nào để gọi những người như thế
là cao thượng, hay của đẳng cấp quan trọng! Chỉ vì
họ từ nhiều thế hệ có tiền được tiếp tục truyền lại,
và lúa gạo, họ làm ra vẻ đẹp đẽ. Nhưng họ chính là
những người thấp kém.” Đó là một đoạn văn trong tập
sách có tên “Các bài học của ngày thường” của ngài
Fukuzawa viết cho trẻ em. Một tiếng nói cực kỳ đanh
thép để phân biệt cái thật, và cái giả. Ngài đã muốn
dạy cho con người từ lúc còn trẻ phải biết phân biệt
được đâu là những việc làm cao cả và thấp kém, để
tránh đi vào lối mòn thấp kém của thói ỳ lịch sử. Vâng, “đọc sách, và suy nghĩ”, nghĩa là đi tìm tòi
cái mới cho bản thân và dân tộc, và dĩ nhiên là
nghiên cứu và viết sách, làm sao cho văn hóa đọc của
đất nước ngày càng thêm phong phú, là những công
việc cao cả mà ngài Fukuzawa Yukichi muốn nhắc nhỡ
mọi người. Chỉ sống với những cái cũ kỹ, ỹ lại, với
chân lý thói quen, đó là thấp kém, chỉ làm hại thêm
cho đất nước. Chẳng phải ngài Tôn Dật Tiên cũng đã
từng phát biểu “Hiểu là khó, hành động là dễ” hay
sao? Hiểu mới là hành động cao cả kia mà ngài
Fukuzawa muốn nói, còn hành động thuần túy tự nó là
thấp kém trong tình hình này. Và muốn hiểu là phải
đọc, phải học, phải suy nghĩ, phải mang cả văn hóa
thế giới vào Việt Nam. Thế giới sách vỡ vẫn còn quá xa lạ đối với người
Việt Nam. Cả một thế giới ý tưởng, bao gồm ý tưởng
khoa học, nghệ thuật, văn học, triết học, chính trị
của nhân loại hãy còn xa lạ ở đây. Thế giới của
người Việt Nam giống như một “thế giới phẳng”, nó
“lép” như “bốn ngàn năm ngực lép” như một nhà thơ
Việt Nam (TH) đã diễn tả hình tượng và cũng rất
chính xác, những kiến thức của chúng ta về thế giới
hãy còn quá ít ỏi, chỉ mới làm cho thế giới phẳng đó
gợn lăng tăng đôi chút. Thế giới phẳng đó mang trong
mình một sức ì nặng nề không thể tưởng tượng nổi,
như một “lỗ đen”, quyết không để con người thoát
khỏi nó để thấy ánh sáng “khai minh”, để hiểu biết
và hòa nhập với thế giới bên ngoài, để hiểu rằng sức
mạnh của phương Tây đã từng gây bao sự hũy diệt cho
kinh hoàng cho dân tộc đều đến từ thế giới ngoài kia
mà đáng lẽ mình phải vươn, phải ra khỏi cái thế giới
phẳng của mình để nắm bắt lấy nó. Chúng ta không nên “ngủ quên” trên kho báu trí tuệ
chứa đựng trong sách vỡ của thế giới từ hơn 2500 năm
nay. Chính trong đó mà dân tộc Phù Tang đã tìm được
thanh báu kiếm của vua Arthur như trong truyện thần
thoại Anh cho trẻ em. Người Việt Nam cần thiết đổi
thói quen của mình hôm nay. Cần tìm đền cuốn sách,
hơn là chỉ biết tìm đến những thỏa mãn vật chất nhất
thời. Chúng ta đã đi quá chậm. Cái đầu của thiên hạ
đi trước cái đầu của chúng ta đã ngàn dặm. Hãy tỏ ra
là một dân tộc có ý chí vươn lên thành một dân tộc
văn hóa cao. Hãy hiểu nguồn gốc của sự tụt hậu mấy
trăm năm mà ông cha ta chưa hiểu như người Nhật đã
hiểu. Hãy hiểu sức mạnh nằm trong tri thức: “Tri
thức là sức mạnh”. Hãy nhớ, sách vỡ, tri thức cũng
là “nguồn tư bản âm thầm sinh lợi”, như Goethe đã
nói. Sự ham mê tìm tòi đọc sách của một dân tộc
chính là biểu tượng của một dân tộc muốn vươn lên
(hay không) trong cuộc chấn hưng, xây dựng đất nước
bằng trí tuệ, bằng cái đầu cao cả chứ không phải chỉ
bằng tay chân thô thiển, thấp kém. Đổi mới đã bắt
đầu hơn 20 năm nay trên quê hương, nhưng đất nước
vẫn còn bị tự cô lập và trì trệ về trí tuệ. Đất nước
cần một cuộc đổi mới thứ hai, hay cuộc duy tân trí
tuệ, cuộc duy tân đáng lẽ đã phải được tiến hành từ
hai trăm năm nay chứ không phải chỉ mới hôm nay. Thế
giới Việt Nam, và thế giới trí tuệ phương Tây vẫn
còn là hai thế giới xa lạ nhau. Đất nước thật sự chỉ
được “khai sáng” khi cây cầu trí tuệ được bắt qua
thế giới bên ngoài. Người Việt Nam chỉ có thể hiểu
được chính mình, và có được một sự phát triển lành
mạnh, cao cả, khi học hỏi và hiểu biết được thế giới
bên ngoài. Không có đủ sách để đọc, và không chịu
học của thế giới, chúng ta giống như một cơ thể mà
không có cái đầu, hay một con thuyền đang mang sức
chở nặng nề đi trên đại dương mà lại không có la
bàn. Chúng ta ngày nay vẫn còn là những đứa con lạc hậu
của các thể kỷ trước, của sự lạc hậu tích lũy hàng
bao thế kỷ mà hệ quả đã để lại cho đất nước quá nặng
nề. Tất cả chỉ vì người Việt Nam không biết mở mắt
học hỏi nhanh chóng và kịp thời, và toàn diện, như
người Nhật đã làm. Ai bảo ngày nay người Việt Nam đã
ý thức hết sự tụt hậu trong cái đầu của mình, và làm
thế nào để nhanh chóng san lấp lổ hỗng tụt hậu đó?
Càng ngơ ngát, càng không chịu học hỏi, đọc sách, sự
lạc hậu vẫn còn tiếp diễn, cho dù áo quần chúng ta
ngày nay mặc đẹp hơn hôm qua. Nhưng cái đầu hôm nay
không khá bao nhiêu so với cái đầu hôm qua. Cho nên phải có thật nhiều sách, và sách hay, như
những ngọn đèn để thắp sáng khắp các miền đất nước.
Phải có các thư viện công ở khắp nơi quận huyện cho
đủ mọi lứa tuổi. Thế mới có thể gọi là các khu phố
văn hóa, và đất nước mới được gọi là đất nước văn
hóa. Đọc sách là mở mắt ra trước thế giới. Không
chịu đọc sách là nhắm mắt lại, ngay cả khi sống ở
nước ngoài, sống ngay ban ngày mà thế giới nội tâm
và tri thức vẫn có thể như đêm. Đọc sách để hiểu biết thế giới cũng chính là để tái
tạo lại chính mình mà mình đã đánh mất từ lâu. Đó là
một công cuộc tái tạo vĩ đại mà hôm nay chúng ta
phải tiến hành, mặc dù đã quá muộn màng. Viết cho buổi hội thảo “Người Việt Có Mê Đọc Sách”
của “SachHay.com” Ngày 4/3/2008
|