Những bài cùng tác giả

Bài giới thiệu cuốn “From
Certainty to Uncertainty” của David Peat, Người dịch:
Phạm Việt Hưng, NXB Tri Thức, Tháng 12/2011.
Vào thời điểm bản lề chuyển từ thế kỷ 20
sang thế kỷ 21, tạp chí Times đã bình chọn Albert
Einstein là “nhân vật của thế kỷ 20” (person of the
century). Hầu hết mọi người đều tán thành với bình chọn
này, vì không thể có một nhân vật thứ hai nào đạt được
những thành tựu vĩ đại và phi thường như Einstein:
Thuyết lượng tử ánh sáng, Thuyết tương đối hẹp, Thuyết
tương đối tổng quát, và nhiều công trình quan trọng khác
nữa. Nhưng tại sao Lev Landau, nhà vật lý lỗi lạc người
Nga trong thập kỷ 1960, lại xếp Niels Bohr ở vị trí (–1)
trên trục số, trong khi Einstein tương ứng với vị trí
zero[1]
(ám chỉ Bohr còn sâu sắc hơn Einstein)? Điều này rất khó
hiểu đối với những ai không quan tâm tới vật lý, hoặc
làm vật lý nhưng không quan tâm tới những vấn đề thuộc
về triết học nhận thức. Để giải đáp thắc mắc này, phải
tìm hiểu khá nhiều về vật lý lượng tử, đặc biệt về tư
tưởng của hai nhân vật lỗi lạc này xung quanh vấn đề bản
chất của hiện thực, thông qua cuộc tranh luận kéo dài
của họ về tính bất định lượng tử. Đó là một trong những
trang sử hấp dẫn nhất của vật lý học nói riêng và khoa
học nói chung. Thông qua trang sử đó, người đọc không
chỉ thấy rõ chân dung hai nhà tư tưởng vĩ đại, mà còn
chứng kiến một cuộc chuyển
biến tư tưởng vô cùng sâu sắc của khoa học từ thế giới
quan cổ điển (Einstein) sang thế giới quan hiện đại
(Bohr).
Đối với Einstein, luôn luôn tồn tại
một hiện thực khách quan, dù ở bất cứ cấp độ nào – vĩ mô
hay hạ nguyên tử – và nhiệm vụ của khoa học đơn giản là
làm sao hiểu được hiện thực khách quan đó. Dù đối tượng
nghiên cứu là các hành tinh khổng lồ hay các hạt lượng
tử vô cùng bé, tất cả đều giống nhau ở chỗ chúng tồn tại
khách quan, độc lập với nhận thức của chúng ta. Có lần
Einstein nói rằng ông không thể tin mặt trăng sẽ ngừng
tồn tại khi chúng ta ngừng quan sát nó – nếu mặt trăng
không tồn tại thì vũ trụ sẽ trở thành vô nghĩa và khoa
học không đáng để chúng ta phải mất công vì nó. Những gì
nói về mặt trăng cũng có thể nói về electron hay bất cứ
một hạt lượng tử nào khác. Nếu khoa học có thể thiết lập
nên những định luật xác định dưới dạng toán học cho thế
giới thông thường thì cớ gì không thể làm được điều đó
cho thế giới lượng tử. Đó là tư tưởng của Einstein.
Nhưng…
Chính tại đây, vật lý thế kỷ 20 đã
bước vào khủng hoảng.
Khi nghiên cứu hiện tượng phóng xạ của
radium, Marie Curie khám phá ra một sự thật hoàn toàn
bất ngờ: nguyên tử phóng xạ bị phân rã một cách ngẫu
nhiên, không tuân thủ bất cứ một quy luật xác định nào
cả – có thể tính tuổi cho sự phân huỷ của một nguyên tố
phóng xạ nhưng không thể biết một nguyên tử khi nào sẽ
bắt đầu phân rã. Không thể chỉ ra một lực, một tương tác
cụ thể nào như một nguyên nhân gây ra sự phân huỷ. Luật
nhân quả mất hiệu lực khi giải thích hiện tượng phân rã.
Hoá ra Tự Nhiên mang tính ngẫu nhiên hơn ta tưởng. Đó là
lời cảnh báo đầu tiên!
Hàng loạt nghiên cứu tiếp theo trong
khoảng 20 năm đầu tiên của thế kỷ 20 đã xác nhận rằng
tính xác định bị vi phạm nghiêm trọng trong thế giới
lượng tử, và hệ quả tất yếu của nhận thức này là sự ra
đời của Nguyên lý Bất định của Werner Heisenberg trong
Cơ học lượng tử, tạo nên một cú shock chưa từng có trong
khoa học. Cú shock đó lớn đến nỗi Niels Bohr phải nhấn
mạnh: “Nếu cơ học lượng tử chưa gây shock một cách
sâu sắc cho bạn thì có nghĩa là bạn chưa hiểu gì về nó”.
Người bị shock nhất chính là Einstein,
vì không ai khao khát khám phá ra Cái Đẹp của vũ trụ
bằng Einstein. Cái Đẹp phải là cái gì rõ ràng, chắc
chắn, xác định. Cái Đẹp không thể mập mờ, bất định. Đó
là lý do để Einstein chống lại tư tưởng bất định đến
cùng, trong khi Bohr, với tư cách là một thủ lĩnh của tư
tưởng mới, cũng bảo vệ tư tưởng bất định đến cùng.
Bohr
đã đẩy tư tưởng bất định lượng tử đi xa tới mức không
một ai cùng thời có thể theo kịp. Ngay cả Heisenberg
cũng bị Bohr bác bỏ khi cố gắng giải thích Nguyên lý Bất
định của chính mình bằng những lập luận dựa trên tương
tác giữa các hạt theo tinh thần của cơ học thông thường:
Heisenberg cho rằng mỗi hành động quan sát sẽ làm nhiễu
một trong các đặc trưng của các hạt lượng tử. Bohr cho
rằng giải thích này đã phạm sai lầm ngay từ giả định ban
đầu khi cho rằng các hạt cơ bản có một vị trí và tốc độ
của nó, tức là thừa nhận có một hiện thực lượng tử,
trong hiện thực này mỗi đối tượng lượng tử có những đặc
trưng của nó, giống như các vật thể thông thường cũng có
những đặc trưng như vị trí, vận tốc, v.v. trong thế giới
thông thường.
Nói cách khác, Heizenberg đã phạm sai
lầm ngay từ trong cách nhận thức: để giải thích một khái
niệm hoàn toàn mới của một thế giới hoàn toàn xa lạ, ông
vẫn bám víu vào những khái niệm quen thuộc của thế giới
thông thường, điều này chẳng khác gì những giải thích về
thế giới sau cái chết bằng những gì đã biết trong thế
giới sống. Sự bác bỏ của Bohr đối với cách giải thích
của Heisenberg làm cho chính Heisenberg cũng phải cảm
thấy khó chịu, huống chi một người như Einstein, vốn
không chấp nhận Nguyên lý Bất định ngay từ trong nền
tảng của nhận thức, bởi theo ông, đó chẳng qua chỉ là
biểu hiện của sự bất lực và kém cỏi của nhà khoa học mà
thôi.
Quả thật, thấm nhuần tư tưởng bất định
theo cách hiểu của Bohr là quá khó khăn, đến nỗi các nhà
vật lý ngày nay vẫn còn bối rối khó xử trước những ẩn ý
trong tư tưởng của Bohr. Nhà vật lý Basil Hiley nhận xét
rằng các nhà vật lý ngày nay miệng thì nói theo Bohr và
phủ nhận Einstein, nhưng thực ra phần lớn lại chẳng hiểu
những gì Bohr nghĩ và rồi vẫn suy nghĩ như Einstein. Suy
nghĩ như Einstein là suy nghĩ theo logic xác định, mà
thói quen đó không dễ gì từ bỏ, thậm chí không thể từ
bỏ. Đó là một nghịch lý vô cùng trớ trêu khi bước chân
vào thế giới lượng tử.
Xét cho cùng thì đó là chuyện trớ trêu
của ngôn ngữ: ngôn ngữ của chúng ta, dù là ngôn ngữ
thông thường hay ngôn ngữ trừu tượng của toán học, đều
là sản phẩm phản ánh cuộc sống thông thường của chúng ta
trong đời sống hàng ngày. Sử dụng ngôn ngữ đó để mô tả
một thế giới hoàn toàn xa lạ với thế giới thông thường
sẽ là điều bất khả, bởi hiện thực của thế giới đó không
tương thích với mọi ngôn ngữ mà chúng ta có, thậm chí
hiện thực đó có tồn tại hay không, chúng ta cũng không
thể khẳng định một cách chắc chắn. Bohr kết luận: “Tất
cả chúng ta đều bị treo lơ lửng trong ngôn ngữ”, và
đó là một triết luận mà những người quen tư duy logic
máy móc không sao hiểu được.
Vậy làm thế nào để hiểu Bohr nói riêng
và hiểu những tư tưởng sâu sắc của khoa học thế kỷ 20,
tức là của khoa học hiện đại? Một lần nữa, câu trả lời
là phải đọc, phải tìm hiểu vật lý không chỉ trên góc độ
thuần tuý kỹ thuật, mà trên bình diện tư tưởng. Đáp ứng
với đòi hỏi này, một cuốn sách đã ra mắt công chúng:
“Từ xác định đến bất định”
(From Certainty to Uncertainty) của David Peat, do
Joseph Henry Press, một nhà xuất bản của Viện Hàn lâm
Quốc gia Mỹ, xuất bản lần đầu tiên năm 2002 tại
Washington DC, đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi
dịch giả Phạm Việt Hưng, do NXB Tri Thức xuất bản tại
Hànội tháng 12/2011.
Lời
giới thiệu trên bìa sách viết:
“Các nhà
khoa học trước đây tin rằng khoa học hứa hẹn sẽ tìm ra
những quy luật xác định. Được xây trên nền tảng của hiện
thực và tạo dựng bởi những công cụ khách quan và đáng
tin cậy, khoa học tạo ra tri thức một cách nhất quán
(phi mâu thuẫn). Nhưng những khám phá gây phiền nhiễu
của các nhà khoa học thế kỷ 20 đã để lộ ra rằng tri thức
này về căn bản sẽ luôn luôn không hoàn thiện và rằng một
sự hiểu biết thực sự về thế giới rốt cuộc lại vượt quá
khả năng nắm bắt của chúng ta.
Trong cuốn sách giầu suy tư và đầy
thuyết phục này, nhà vật lý David Peat đã khảo sát tư
tưởng xác định như một triết học nền tảng đặc trưng cho
tư duy của nhân loại trong thế kỷ 19 và mô tả sự đối lập
tương phản của nó với sự sụp đổ đến ngỡ ngàng của tư
tưởng xác định trong thế kỷ 20. Thật vậy, thế kỷ 19 được
đánh dấu bởi chủ nghĩa lạc quan và niềm tin vô hạn vào
sức mạnh của tiến bộ và công nghệ. Tinh thần hăm hở của
chúng ta lúc đó thật lớn lao, niềm tin vào khoa học của
chúng ta lúc đó thật chắc chắn, đến nỗi chủ tịch Hội
Hoàng gia Anh năm 1900 đã tuyên bố mọi thứ quan trọng
đều đã được khoa học khám phá ra rồi.
Nhưng không lâu trước đó, những
hạt giống của một cuộc cách mạng trong khoa học đã bén
rễ.
Những khái niệm do vật lý Newton
nêu lên đã bị đổ vỡ tan tành bởi những tư tưởng được đề
cập trong cả lý thuyết lượng tử lẫn thuyết tương đối
tổng quát. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng tri thức của
chúng ta, dù ở mức tốt nhất, cũng không hoàn hảo – và có
thể tình trạng này sẽ kéo dài mãi mãi. Lý thuyết hỗn độn
tiến xa tới mức chứng minh cho thấy những giới hạn cố
hữu của nhận thức, của khả năng dự đoán, và của khả năng
kiểm soát thế giới xung quanh chúng ta.
Cách nhìn mới về thế giới này có
một ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với khoa học, mà còn
đối với nghệ thuật, văn chương, triết học, và quan hệ xã
hội. Thế kỷ 21 hiện nay đã bắt đầu bằng một sự chấp nhận
khái niệm bất định một cách khiêm tốn, mặc dù không phải
là hoàn toàn dễ chịu…”.
Để thấy rõ cuộc chuyển biến tư tưởng “Từ
Xác định đến Bất định” trong thế kỷ 20, cần đặc
biệt nhấn mạnh rằng khái niệm bất định ở đây không đơn
thuần là bất định lượng tử, mà phải được hiểu theo nghĩa
rộng là đặc trưng của bất kỳ một hiện tượng hay một quá
trình tự nhiên hoặc xã hội nào không cho phép chúng ta
dự đoán được kết quả một cách chính xác và chắc chắn.
Với cách hiểu đó, nhận thức về cái bất
định biểu lộ theo nhiều cách khác nhau trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, nhưng kỳ lạ thay, tất cả đều nở rộ trong
cùng một thời đại:
Hội hoạ có lẽ là lĩnh vực đi tiên
phong trong việc thừa nhận tính bất định như một bản
chất của Cái Đẹp, mặc dù nhận thức được Cái Đẹp bất định
khó hơn rất nhiều so với Cái Đẹp xác định. Đó là trường
phái ấn tượng (impressionism), trong đó ánh sáng, mầu
sắc chấp nhận một độ nhoè, nhiều hoặc ít tuỳ theo cảm
xúc của hoạ sĩ, nhưng luôn luôn thả lỏng cảm xúc của
người xem, cho phép họ thưởng thức Cái Đẹp theo nhiều
góc độ khác nhau. Nổi bật trong trường phái này phải kể
đến những tên tuổi như Paul Cézanne, Claude Monet,
Vincent Van Gogh, … Tiếp theo là trường phái hậu ấn
tượng (post-impressionism), rồi lập thể (cubism), trừu
tượng (abstractionism), v.v. Trong tất cả những trường
phái này, hầu như mọi quy tắc xác định của hội hoạ cổ
điển đều bị đổ vỡ.
Trong văn chương, tính bất định lộ rõ
trong chủ nghĩa hậu hiện đại (post-modernism), nơi độc
giả trở thành chủ thể đồng sáng tạo với tác giả, người
đọc có thể thưởng thức tác phảm theo cách đọc riêng của
mình.
Trong ngôn ngữ, đó là những khám phá
của Ludwig Wittgenstein. Nếu xuất phát từ những bất định
lượng tử, Bohr đi tới kết luận vô cùng sâu sắc rằng “tất
cả chúng ta đều bị treo lơ lửng trong ngôn ngữ” thì
Wittgenstein, bằng con đường ngôn ngữ thuần tuý, cũng
khám phá ra rằng “…tính xác
định của ngôn ngữ học là một trong số những ảo tưởng của
con người đầu thế kỷ 20 … Chúng ta không bao giờ có thể
hoàn toàn tránh khỏi tính mơ hồ nhập nhằng trong khi
nói. Chúng ta không thể trói buộc thế giới vào từ ngữ.
Nhưng rồi từ ngữ lại có rất nhiều thứ để cung cấp cho
chúng ta, và cuộc sống của chúng ta sẽ phong phú hơn rất
nhiều khi ngôn ngữ không bị bó vào trong một cái áo dành
cho người điên[2]”[3].
Trong toán học, tính bất định đã được
khẳng định bởi Định Lý Bất toàn (Theorem of
Incompleteness) của Kurt Gödel, trong đó chỉ ra rằng
toán học chứa đựng những chân lý không thể quyết định
được (không thể chứng minh và cũng không thể phủ nhận).
Đó là lý do làm tan vỡ “Giấc mơ về một lý thuyết
cuối cùng của toán học” (một tham vọng ảo tưởng của
Chủ nghĩa toán học hình thức trong thế kỷ 20), buộc toán
học phải quay lại những chủ đề nghiên cứu mang ý nghĩa
thiết thực. Định lý Gödel khẳng định rằng nhận thức có
giới hạn. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong khoa học
computer, và cũng đặc biệt có ý nghĩa đối với vật lý học
hiện đại – nó cảnh báo “Giấc mơ về một lý thuyết
cuối cùng”[4]
của vật lý học cũng có nguy cơ tan vỡ. Điều này đã được
Stephen Hawking thảo luận kỹ trong bài giảng “Gödel
& sự kết thúc của vật lý”, nhưng vì khuôn
khổ hạn hẹp của một bài báo, xin dành chủ đề này cho bài
báo kỳ sau.
Xem thế thì thấy bất định có mặt ở
khắp nơi!
Nhưng… phải chăng trong thế giới thông
thường, nơi Cơ học Newton phát huy tác dụng, vũ trụ là
xác định?
Chẳng phải cuối thế kỷ 19, Cơ học
Newton đã được coi như một thứ lý thuyết về mọi thứ rồi
đó sao? Chẳng phải Cơ học Newton đã cho phép thiên văn
học dự đoán chính xác sự xuất hiện của những hành tinh
chưa từng biết đó sao? Chẳng phải Cơ học Newton là cơ sở
hình thành Quyết định luận Laplace (Laplace’s
Determinism) đó sao?
Nhưng lời giải Bài toán Ba vật thể
do Henri Poincaré công bố trên tạp chí Acta
Mathematica Tháng 11 năm 1890 đã chỉ ra rằng không
thể dự đoán chính xác tương lai của các hệ động lực học
phức tạp, vì những hệ này có bản chất hỗn độn.
Vì thế, mặc dù Poincaré không hề nêu lên một lý thuyết
nào được gọi là Lý thuyết Hỗn độn, ông vẫn được coi là
cha đẻ của lý thuyết này. Nếu Lý thuyết hỗn độn được
phát biểu sớm hơn, ngay khi Albert Einstein đang còn
sống, không biết Einstein có chống đối lý thuyết này như
ông đã từng chống đối Nguyên lý Bất định hay không?
Nhưng điều chắc chắn là từ cuối thập kỷ 1960 đến nay,
khoa học đã thừa nhận bản chất hỗn độn và bất định của
rất nhiều hệ thống tự nhiên, sinh học, kinh tế, và xã
hội, khi những hệ này trở nên đủ lớn và đủ phức tạp. Đó
là lý do để cuốn sách của David Peat đặc biệt ưu tiên lý
thuyết này: nếu Chương 1 dành cho bất định lượng tử chỉ
có 27 trang thì Chương 6 có tới 40 trang dành cho Lý
thuyết Hỗn độn. Điều này nói lên rằng những khái niệm về
hỗn độn đã trở nên quan trọng chừng nào đối với cuộc
sống của xã hội hiện đại.
Kết:
Bản chất bất định của thế giới có ý
nghĩa gì với chúng ta? Lời giới thiệu sách cũng đã trả
lời: “Gợi ra những bài học mà chúng ta có thể học từ
lịch sử, David Peat đã suy xét vấn đề làm thế nào để
chúng ta tìm cách điều chỉnh cuộc sống của chúng ta
thích hợp với một tương lai bất định”.
Thật vậy, thuyết tiến hoá nói rằng
sinh vật có khả năng thích nghi với môi trường xung
quanh. Con người là sinh vật thông minh nhất, do đó phải
có khả năng thích nghi tốt nhất. Nhưng muốn thích nghi
với môi trường, con người phải nắm vững bản chất của nó.
Nếu bản chất của môi trường là bất định, chúng ta phải
hiểu rõ bản chất đó để làm sao thích ứng với nó một cách
hợp lý và hiệu quả nhất.
Ngày 01 tháng 12 năm
2011
PVHg
[1]
Xem “Bohr, vị trưởng lão quyết đoán”
của Chu Hảo, trong Kỷ yếu Max Planck, NXB Tri
Thức, 2009,
[2]
Áo có hai ống tay đủ dài để có thể trói buộc hai
tay lại.
[3]
Đoạn kết Chương 4, “Từ Xác định tới Bất định”,
David Peat.
[4]
“Dreams of A Final Theory”, tên một cuốn sách
của Steven Weinberg, xuất bản năm 1992, thể hiện
khát vọng tìm thấy một Lý thuyết cuối cùng của
vật lý – một “Lý thuyết về mọi thứ” cho phép
giải thích “mọi thứ” của vật lý.
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Phạm Việt Hưng
|