Tư duy Kinh tế Việt Nam – Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989

    

Điểm sách

Tác giả: Đặng Phong

Số trang: 392 trang

Khổ sách: 16 x 24 cm

Giá bìa: 75.000 VND

Tủ sách Việt Nam đương đại

Nhà xuất bản Tri thức, 2008

 

 

*****

LỜI NÓI ĐẦU

Về công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam, đến nay kể đã có tới hàng trăm công trình nghiên cứu lớn, nhỏ, trong nước, ngoài nước...

Trong khối lượng đồ sộ các ấn phẩm đó, người đọc đã tìm thấy khá nhiều và khá rõ: Chuyển đổi mô hình, chuyển đổi cơ cấu, cải cách thể chế, mở cửa và hội nhập, tăng trưởng...

Người đọc lại có thể tìm thấy ở đó cả những mốc lịch sử quan trọng của đường lối và chính sách kinh tế Việt Nam qua các Đại hội Đảng, các Hội nghị Trung ương, qua những Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ, các Bộ luật được Quốc hội ban hành...

Thế là lộ trình đổi mới kinh tế Việt Nam đã được trình bày khá đầy đủ rồi!

Tập sách nhỏ nhoi này còn gì để nói?

Xin thưa: Còn.

Hình như người đọc vẫn còn thèm thuồng một khía cạnh nữa: Tư duy kinh tế.

Mọi đổi mới đều bắt đầu từ đổi mới tư duy. Cách nghĩ cũ tạo ra mô hình cũ. Cách nghĩ mới tạo ra mô hình mới. Vậy thì trong những bộ óc chủ chốt thời đó, cách nghĩ cũ chuyển sang cách nghĩ mới như thế nào? Những chủ trương chính sách mới đã được thai nghén rồi vào cuộc như thế nào? Bắt đầu từ những ai? Trong những hoàn cảnh nào? Rồi bằng những cách nào cái mới đã “chín” dần từ người này sang người khác? Phép mầu nào đã làm cho những “húy kỵ” đầy quyền uy đã được hóa giải một cách êm thấm, trong đồng thuận, không đổ vỡ?

Thiết tưởng những khía cạnh đó sẽ vẫn còn là điều thú vị. Trên con đường đó sẽ thấy được không chỉ có những sản phẩm của đổi mới, những cao ốc, nhà máy, đường cao tốc, các tập văn kiện, hồ sơ..., mà còn thấy được những con người mở đường, những bộ óc mở đường, nhất là không khí mở đường. Mà đã gọi là mở đường, thì trên những lối đi mới ắt phải gặp những rào cản, những cạm bẫy, những va vấp, những thất bại và cuối cùng là những lối ra rất ngoạn mục, rất Việt Nam.

Ban đầu, tác giả chỉ có ý định tìm hiểu những điều kể trên cho bản thân, cốt để hiểu sâu hơn về lịch sử nền kinh tế Việt Nam. Về sau, thấy tự nó có nhiều điều thú vị, nên đã đề xuất với lãnh đạo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam cho đăng ký thực hiện trong khuôn khổ một đề tài cấp bộ: Tư duy kinh tế và đổi mới kinh tế Việt Nam 1975-2005. Đề tài này đã hoàn thành và được nghiệm thu ngày 03 tháng 06 năm 2008.

Tập sách nhỏ này là sản phẩm phụ của công trình khoa học kể trên. Nó được quyết định đột xuất bởi một cái tang lớn của cả nước: Võ Văn Kiệt - một trong những người được nhắc đến nhiều nhất ở đây đã không còn nữa! Được các bạn Chu Hảo, Giám đốc, và Hồ Thị Hòa, Trưởng Ban Biên tập Nhà xuất bản Tri thức gợi ý, để thắp ngay một nén nhang tưởng nhớ đến con người có công lao to lớn đối với sự nghiệp đổi mới tư duy kinh tế Việt Nam, tác giả đã cố gắng rút tỉa từ đề tài khoa học kể trên để chia sẻ với bạn đọc về chặng đường đầu của sự nghiệp đổi mới: 1975-1989. Đó chính là chặng đường lắm thác ghềnh, nhưng thật ngoạn mục, mà trên chặng đường đó con người vừa vĩnh biệt chúng ta đã để lại biết bao dấu ấn vàng son!

Trong quá trình tìm tòi và biên soạn, tác giả đã may mắn được tiếp cận không chỉ những khối tư liệu đồ sộ, mà còn được tiếp cận với rất nhiều nhân vật đã từng là tác giả của lịch sử - những con người đã tham gia đẩy con thuyền tư duy vượt qua bao thác ghềnh, lướt tới, ra khơi:

Đó là các vị đã từng giữ những cương vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Chính phủ, đã có nhiều đóng góp lớn lao về tư duy kinh tế và chính sách kinh tế trong thời gian này: Võ Văn Kiệt - nguyên Thủ tướng Chính phủ, Trần Phương - nguyên Phó Thủ tướng, Nguyễn Văn Chính - nguyên Phó Thủ tướng, Đoàn Duy Thành - nguyên Phó Thủ tướng, Nguyễn Văn Trân - nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Hoàng Tùng - nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Đoàn Trọng Truyến - nguyên Tổng Thư ký Văn phòng Chính phủ, Phạm Như Cương - nguyên Viện trưởng Viện Triết học, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội, Lữ Minh Châu - nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, Phan Văn Tiệm - nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước...

Đó cũng là đông đảo các chuyên gia xuất sắc đã từng đảm đương trách nhiệm cố vấn, trợ lý của Tổng Bí thư, của Chủ tịch nước, của Thủ tướng và cũng là những nhà nghiên cứu chủ chốt của các cơ quan cấp cao của Đảng và Chính phủ: Trần Việt Phương, Lê Đăng Doanh, Đào Xuân Sâm, Vũ Quốc Tuấn, Trần Đình Bút, Lê Văn Viện...

Người viết xin chân thành cảm ơn các vị kể trên đã cho gặp gỡ, giãi bày, giải thích và chỉ bảo cho nhiều tình tiết rất quý báu để có thể dựng lại bức tranh lịch sử sinh động này.

Trên bức tranh lịch sử được trình bày dưới đây, có đôi điều về phương pháp mà người viết mong được tỏ bày với bạn đọc:

Thứ nhất, e rằng tập sách này có thể sẽ bị nhiều bạn đọc khiển trách ở chỗ trích dẫn quá nhiều các vị kể trên, phần của bản thân người viết không có bao nhiêu.

Xin thưa: Đúng. Nhưng đó là dụng ý. Tác giả không hề được tham gia chút nào vào việc hình thành những chủ trương và chính sách kinh tế trong thời đoạn lịch sử này. Bởi vậy tác giả phải dày công và cũng có ân huệ được các nhân vật vừa là nhân chứng vừa là tác giả của lịch sử kể trên tin yêu, đã cho gặp, cho hỏi, đã kể lại, đã giải thích từ những vấn đề then chốt đến những tình tiết phong phú. Những thu hoạch đó thật là quý hiếm, mà không phải ai cũng có được cái may mắn đó. Vậy thì chia sẻ với bạn đọc những điều quý báu đó hẳn là việc gây nhiều hào hứng hơn, vì người đọc được tiếp cận đến tận ngọn nguồn của những dòng chảy tư duy.

Thứ hai, người viết giữ thái độ cảm thông, thậm chí trân trọng đối với những sai lầm vấp váp trên những bước tìm đường. Đoàn quân vạch đường vào lịch sử không giống với một đoàn đồng diễn thể dục, với những con người mặc đồng phục và với những động tác đều răm rắp, theo một nhịp điệu đã định sẵn. Đoàn quân này giống với những đoàn thám hiểm, đi trên những con đường mà nhiều đoạn chưa có biển chỉ đường, thậm chí cũng chưa có vết chân người... Đó là đội hình của những con người can trường, đầy tâm huyết. Những vấp váp, nhỡ bước... đều là những trả giá khó tránh của sứ mệnh này và đáng được nhìn nhận bằng thiện cảm. Cách nhìn hằn học, đả kích đối với những cái cũ, cái sai sẽ không giúp cho thấy rõ con đường lịch sử, mà chỉ làm cho tầm nhìn hẹp lại và tầm vóc bản thân thấp xuống.

Thứ ba, để tránh cách nhìn sai lầm về những sai lầm, thì mặt khác lại dễ sa vào cái nhạt nhẽo bởi lối viết chung chung, một chiều, cái gì cũng tốt, lúc nào cũng đúng. Những cuốn sử được viết như thế thì người đọc chắc chắn sẽ không chê vào đâu được, nhưng chỉ cầm lên, giở qua rồi ngáp dài, gấp lại, bày trên tủ... Nếu viết về lịch sử chiến tranh và cách mạng, để nói rõ về ta thì phải nói cả về địch, vì xưa nay không có trận đánh nào chỉ có một bên. Mà càng tả rõ cái mạnh, cái giỏi của địch thì mới càng cao, càng sáng, càng đẹp cho người chiến thắng chứ!

Nay viết về sự nghiệp đổi mới, nhất là đổi mới tư duy, thì không có địch, mà chỉ có ta với ta, ta tự đấu tranh với ta để vượt lên chính mình, để lột xác, để thay da đổi thịt, để lớn lên. Đổi mới là vượt qua cái cũ. Tìm cái đúng là thoát được cái sai.

Nếu không có cái cũ, cái sai, thì cớ sao phải đổi mới?

Lịch sử của dân tộc ta trong thời đại nào cũng vậy, cái mới chỉ ra đời từ cái cũ, cái thành công thường là sự làm lại từ những thất bại, sự nhất trí cao là kết quả của rất nhiều những tìm tòi sáng tạo theo những hướng khác nhau, cuối cùng mới đi tới một đáp số chung trên cơ sở lợi ích của dân tộc, của đất nước.

Lịch sử thời kỳ đổi mới không phải là và không thể là chặng đường chỉ toàn những thành tích và thắng lợi. Nó là một chặng đường đầy những thử nghiệm và khai phá gian nan, đầy những khó khăn, vấp váp, trong đó có cả những sai lầm, thất bại, rồi chính từ đó mới bật ra những bước sáng tạo, bứt phá.

Chặng đường đổi mới cũng không phải là và không thể là một lộ trình đã được tính trước tất cả, đồng thuận tất cả. Đó là sự chung đúc những trăn trở, những ý tưởng, những sáng kiến của rất nhiều bộ óc, nhiều cơ sở, nhiều địa phương. Đó cũng là một quá trình vừa đi vừa tìm đường, vừa đi vừa điều chỉnh, đấu tranh với cái cũ, đấu tranh với chính mình, thuyết phục nhau, chờ đợi nhau, rồi từng bước đi tới đồng thuận. Trên lộ trình đó, có những bộ óc bứt phá, vươn lên trước và lần lượt cuốn hút cả tập thể tiến lên. Có cả những sức ỳ, những nghi kỵ, những cản trở do chưa kịp nhận thức ra cái mới. Có những bộ óc đã từng trì trệ, bỗng bừng tỉnh, vượt lên, tỏa sáng. Có những trường hợp sau khi vượt trội, tỏa sáng lại ngưng trệ, lu mờ, bị đà tiến chung vượt qua. Lại có không ít bộ óc rất cấp tiến về mặt này, nhưng lại chưa chuyển biến kịp về mặt kia. Nhưng tổng hợp lực của sự vận động là tiến tới, tiến tới trong sự đồng thuận ngày càng cao...

Nói lên được tất cả những bước quanh co, khúc khuỷu và gian nan đó chỉ càng làm rạng rỡ thêm ý nghĩa và giá trị lớn lao của sự nghiệp đổi mới.

Đó chính là vẻ đẹp của lịch sử, cũng là vẻ đẹp của những con người làm nên lịch sử. Engels đã từng gọi những con người làm công việc đó là những người khổng lồ (Khi thời đại cần có những người khổng lồ thì đã đẻ ra những người khổng lồ - Chống Dühring). Về vẻ đẹp của những con người như thế, người viết tự thấy không thể nói hay hơn Marxim Gorky trong bài thơ tuyệt bút về CON NGƯỜI:

“... Đi một mình trong sương mờ của những sai lầm

Đạp lên trên tro tàn của những định kiến cũ kỹ

Sau lưng là bụi tàn của những đám mây nặng trĩu đã thuộc về quá khứ

Trước mặt là bao nhiêu điều nan giải đang chờ đón lạnh lùng

Những điều nan giải là hằng hà sa số

Như những vì sao trong đáy thẳm của bầu trời

Và đường đi của con người là vô tận”.

Tôn vinh những con người như thế, ngắm nhìn con đường của họ, cả những tro tàn dưới bàn chân của họ, cả những sương mù và những vì sao trên bầu trời của họ... - đó vừa là nội dung, vừa là mục đích của cuốn sách này.

ĐẶNG PHONG

======

MỤC LỤC

Lời nói đầu

Nhập đề - Những think tank xưa và nay

1. Sự ra đời của các think tank

2. Think tank ở các nước XHCN

3. Vai trò của hệ thống các trường Đảng

Chương 1

GIAI ĐOẠN 1975-1979

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ CẢ NƯỚC SAU 1975

II. TƯ DUY KINH TẾ

1. “Không gian” của tư duy kinh tế trong phe xã hội chủ nghĩa

2. Giới nghiên cứu và hệ thống các cơ quan nghiên cứu

3. Lê Duẩn và sự hình thành chiến lược kinh tế cho cả nước

4. Tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang...”

5. Những hướng tư duy sau ngày giải phóng miền Nam

III. ĐƯỜNG LỐI KINH TẾ

1. Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và ba cuộc cách mạng

2. Làm chủ tập thể

3. Chế độ kế hoạch hóa tập trung

4. Kinh tế hiện vật và vai trò của giá trị sử dụng

5. Hợp tác hóa nông nghiệp

6. Cải tạo công thương nghiệp

7. Chủ nghĩa “Tân trọng nông” (néophisiocratie)

8. Nhà nước độc quyền quản lý các quan hệ kinh tế đối ngoại

Chương 2

GIAI ĐOẠN 1979-1986

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ NHỮNG NĂM 1979-1980

II. TƯ DUY KINH TẾ NHỮNG NĂM 1979-1980

1. Tình hình tư duy chính thống

2. Suy nghĩ của các nhà quản lý, các cấp lãnh đạo cơ sở

3. Giới nghiên cứu kinh tế

4. Lớp nghiên cứu về NEP

5. Những nghiên cứu bán chính thức

6. Tư duy kinh tế của các cấp lãnh đạo ở Trung ương

III. BƯỚC ĐỘT PHÁ ĐẦU TIÊN VỀ QUAN ĐIỂM KINH TẾ

1. Xem xét lại các kế hoạch kinh tế

2. Chuyển biến về tư duy và chính sách đối với giá thu mua nông sản

3. Hội nghị Trung ương lần thứ 6

IV. NHỮNG ĐỘT PHÁ Ở CƠ SỞ

V. NHỮNG CHUYỂN BIẾN ĐẦU TIÊN VỀ CHÍNH SÁCH

1. Thay đổi nhân sự

2. Nhìn nhận lại về công cuộc cải tạo công thương nghiệp

3. Nghị quyết 40/CP

4. “Khoán 100”

5. 25/CP và chế độ 3 kế hoạch

6. Cuộc cải cách giá lần thứ nhất

7. Bỏ nghĩa vụ bán thịt lợn

8. Dẹp bỏ các cửa hàng cung cấp đặc biệt

VI. NHỮNG KHỞI SẮC TRONG ĐỜI SỐNG KINH TẾ

VII. “LẬP LẠI TRẬT TỰ” - BƯỚC LÙI VỀ TƯ DUY 1983-1984

1. Xét lại Quyết định 25/CP

2. Chỉ thị 04-CT/TW của Ban Bí thư

3. Nghị quyết 01NQ/TW của Bộ Chính trị

4. Chỉ thị 11CT/TW

5. Nghị quyết TW 3 và việc lập lại kỷ cương trong Phân phối lưu thông

6. Nghị quyết 08-NQ/TW về công tác của Thủ đô Hà Nội

7. Chiến dịch Z.30 - một cuộc “làm chui” theo xu hướng siết lại

8. Các Hội nghị Trung ương 4-5 và xu hướng quay lại với chủ trương cải tạo

VIII. NHỮNG BỨT PHÁ VỀ TƯ DUY CÁC NĂM 1984-1985 - VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA TRƯỜNG CHINH

1. Tình thế bức bách

2. Sự “phản tỉnh” của Trường Chinh trong quá trình thâm nhập thực tế

3. Những bứt phá đầu tiên về tư duy kinh tế tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6

4. Tiến tới đột phá trong thực tế: Cuộc cải cách Giá - Lương - Tiền năm 1985

Chương 3

GIAI ĐOẠN 1986-1989

I. VÒNG XOÁY 1986

1. Tình hình kinh tế

2. Sự nở rộ của các think tank

3. Trước những bài toán của tư duy

II. TRƯỜNG CHINH VÀ VIỆC CHUẨN BỊ BÁO CÁO CHÍNH TRỊ CHO ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ VI

III. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA BÁO CÁO CHÍNH TRỊ

1. Đổi mới tư duy

2. Đổi mới phong cách lãnh đạo

3. Phải tìm căn nguyên của mọi ách tắc,

trì trệ, quan liêu, lãng phí... là mô hình

4. Mọi tư duy kinh tế phải lấy dân làm gốc

5. Lấy hiệu quả thực tế làm thước đo chân lý,

chống bệnh chủ quan, duy ý chí

6. Quan niệm lại về thời kỳ quá độ

7. Phải tôn trọng quy luật khách quan về mối quan hệ

giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

8. Phải thể hiện rõ tư tưởng năm thành phần kinh tế

9. Chuyển mạnh sang kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường

10. Kinh tế mở

IV. ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ VI

V. HAI NĂM CHUYỂN MÌNH GIAN NAN: 1987-1988

1. Ấn tượng Nguyễn Văn Linh

2. Khởi sắc trong nghiên cứu tìm tòi

3. Các nhóm nghiên cứu chống lạm phát

4. Sự ra đời những think tank không chính thức

5. “Mở cửa” đối với các chuyên gia Việt kiều

6. “Cởi trói” về ngôn luận

7. Võ Văn Kiệt và việc đưa những tư tưởng của Đại hội VI vào cuộc sống.

III. NHỮNG CHUYỂN BIẾN QUAN TRỌNG TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ

1. Nghị định số 27/NĐ về kinh tế tư doanh và Nghị định số 29/NĐ về kinh tế gia đình

2. Cởi trói cho lưu thông phân phối

3. Nhìn nhận lại về công nghiệp quốc doanh

4. Quyết định số 217/HĐBT

5. Luật đầu tư của nước ngoài

6. “Khoán 10” trong nông nghiệp

7. Điều chỉnh hệ thống giá

8. Đưa tỷ giá lên sát tỷ giá thị trường quốc tế

9. Kiều hối

10. Cải cách hệ thống ngân hàng - ra đời của hệ thống ngân hàng 2 cấp

11. Khơi thông các luồng hàng trong nước

IV. BƯỚC NGOẶT 1989

1. Hội nghị Trung ương lần thứ 6

2. Mở cửa biên giới Việt-Trung

3. Đưa lãi suất lên sát mức thực tế

4. Cuộc “tổng sát hạch” của thị trường

5. Chặn đứng lạm phát

6. Chấm dứt nạn thiếu đói kinh niên

7. Đột phá trong xuất khẩu

9. Xóa bỏ tem phiếu

10. Sửa đổi Hiến pháp

Kết luận

Biên niên các sự kiện kinh tế

Tài liệu tham khảo

Bảng chỉ mục

Tổng phát hành : Nhà xuất bản Trí Thức

 

           

©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org