Émile hay là về giáo dục

     28/07/2008

 

Điểm sách

Tên sách: Émile hay là về giáo dục

Tác giả:     Jean-Jacques Rousseau

Dịch giả:    Lê Hồng Sâm, Trần Quốc Dương

Số trang:   692 trang

Khổ sách: 16 x 24 cm

Giá bìa:     117000 VND

Tủ sách Tinh hoa Tri thức Thế giới

Nhà xuất bản Tri thức, tháng 7/2008

 

Tổng phát hành : Nhà xuất bản Trí Thức  

 

Cuốn sách kinh điển về giáo dục của Jean-Jacques Rousseau

 

1. Tác giả - tác phẩm

Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), nhà triết học, nhà văn, nhà sân khấu xuất thân từ một gia đình gốc Pháp, được nuôi dạy theo truyền thống Tin lành. Ông ham thích các tác phầm lãng mạn và các tác phẩm của Plutarque - sử gia Hy Lạp cổ đại. Sau nhiều năm học tập gian khổ và sau cuộc gặp gỡ có tính chất quyết định với bà de Warens, từ cuộc sống lang thang để lại những kỉ niệm đáng yêu, Rousseau đến với người bảo trợ ở Chambéry, rồi ở Charmettes, say mê học nhạc và đọc sách. Ở Paris, sau những thất vọng trong xã hội phù hoa ông kết bạn với Diderot và cộng tác với Từ điển bách khoa. Với tư cách là một triết gia theo thuyết tự nhiên thần và nhị nguyên luận, ông đề cao tình yêu đối với thiên nhiên và có một quan niệm bi đát về xã hội, cho rằng xã hội văn minh làm hư hỏng con người. Tác phẩm Khế ước xã hội (1762) đã làm cho Rousseau có vai trò quan trọng trong triết học chính trị. Rousseau đã đi xa hơn Ch. L. Montesquieu và Voltaire trong việc bảo vệ tự do và bình đẳng trên cơ sở hoà giải quyền tự do cá nhân với những yêu cầu của đời sống xã hội. Theo ông, cần thiết lập một trật tự xã hội “tự nhiên”. Đây là một học thuyết về nhà nước mà nền tảng là sự hiệp thương giữa mọi người, nhân dân có quyền nắm chính quyền, lật đổ chúa phong kiến. Khế ước xã hội của Rousseau đã gợi ý cho việc soạn thảo Tuyên ngôn về nhân quyền - tác phẩm thể hiện quan điểm chính trị của cuộc cách mạng tư sản, có ảnh hưởng đến các nhà triết học lớn của Đức như I. Kant và J. G. Fichte.

Với tư cách là một nhà văn, ông nổi tiếng trên văn đàn với những tác phẩm như Julie hay nàng Héloise mới (1761), Thú nhận (1782) Những mơ mộng của một người dạo chơi cô độc (1772-1778). Những tác phẩm này thể hiện nhân cách phức tạp của Rousseau mà "những niềm say đắm dữ dội, trào dâng" luôn vấp phải thực tế và ràng buộc xã hội, bộc lộ rõ tư tưởng của Rousseau về quan hệ con người trong xã hội, tạo cơ sở cho sự hình thành tính tâm lí trong văn học châu Âu. Rousseau là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa linh cảm trong lí luận văn học và sân khấu, là người có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền văn học Châu Âu không chỉ trong thời đại Khai sáng.

Émile hay là về giáo dục (Émile ou de l'éducation) là sự hoà quyện giữa văn chương và triết lý. Như tiêu đề của nó đã chỉ ra, đó là một chuyên luận về giáo dục, hay đúng hơn là một chuyên luận về "nghệ thuật hình thành con người". Tuy nhiên, cũng có thể coi đó là một tiểu thuyết xã hội - sư phạm với nhân vật hư cấu là cậu bé Émile. Việc giáo dục Émile chỉ nhằm một mục đích: đào tạo một con người tự do, có khả năng tự bảo vệ chống mọi sự gò ép khiên cưỡng; mà muốn đào tạo một con người tự do thì chỉ có một cách duy nhất là đối xử với họ như một sinh thể tự do, tôn trọng tự do của đứa trẻ. Chính ở chỗ này nảy sinh một sai lầm nghiêm trọng trong cách hiểu tác phẩm, tuy rằng Rousseau đã cẩn thận phân biệt rõ việc tôn trọng các nhu cầu tự nhiên của đứa trẻ (và tự do là nhu cầu đầu tiên trong các nhu cầu đó) với việc thỏa mãn các ham muốn, các ý thích thất thường của trẻ.

 Bách khoa toàn thư Việt Nam có viết: “Cùng với những vấn đề về giáo dục được đặt ra, Rousseau phê phán nền giáo dục đương thời đàn áp nhân cách của trẻ, kể cả dùng nhục hình. Ông cho rằng bản tính con người vốn là thiện, nhưng đã bị xã hội bất bình đẳng huỷ hoại, nên cần xây dựng một nền giáo dục mới, phù hợp với thiên nhiên và bản tính vốn có của con người. Nhân vật chính là Émile - người được hưởng sự giáo dục toàn diện, trong đó thầy tôn trọng nhân phẩm trò, giáo dục trò bằng sự thuyết phục. Tác phẩm thể hiện lòng yêu trẻ tha thiết, tinh thần dân chủ và chủ nghĩa nhân văn, tôn trọng tự do và nhân phẩm con người.” Tư tưởng sư phạm của Rousseau được phản ánh trong các đề án cải cách giáo dục quốc dân của Pháp thời Cách mạng 1789 và có ảnh hưởng đến nhiều nhà tư tưởng - sư phạm, như J. H. Pestalozzi, A. S. Makarenko, J. Dewey v.v… Cho đến nay, Émile hay là về giáo dục vẫn là một tác phẩm được đọc nhiều nhất và phổ cập nhất về đề tài này. Đặc biệt ở Nhật Bản, người ta bắt buộc tất cả các giáo viên mầm non phải đọc cuốn sách này trước khi bước vào nghề.

 

Tác phẩm gồm các phần như sau:

  Quyển I (Kể về giai đoạn bé Émile từ lúc ra đời đến lúc tập nói, tức là khoảng từ 0 đến 2 tuổi): Trong giai đoạn này, nhà giáo dục cần chăm sóc sức khỏe của bé, từ việc ăn uống đến việc tập luyện cử động tay chân và sử dụng các giác quan. Cần để ý tới các nhu cầu  thiết yếu và những nhu cầu giả tạo có tính hình thức và bất lợi của bé.

Quyển II (Giai đoạn Émile từ 3 đến 12 tuổi): Chú bé Émile đang ở lứa tuổi nhi đồng. Sự phát triển của cậu bé luôn gắn với các trò chơi giáo dục, chơi mà học, các hình thức  giải trí, trò chơi vận động… được nhà giáo dục áp dụng. Tuy nhiên cần để ý là trí óc của bé Émile còn non nớt, cho nên các hình thức giáo dục chủ yếu vẫn là cho nó chơi. Chú bé Émile không chỉ học tập qua sách vở mà quan trọng nhất là qua kinh nghiệm cuộc sống và môi trường xung quanh.

Quyển III (Giai đoạn Émile từ 12 đến 15 tuổi): Cậu bé Émile được giáo  dục chẳng những qua sách vở, qua kinh nghiệm cuộc sống, mà còn được học kiến thức thực nghiệm hướng nghiệp cho nghề nghiệp tương lai. Cậu được học toán học, tự nhiên học, khoa học thực nghiệm để nắm vững các tri thức và ứng dụng vào đời sống. Cậu còn được học môn lịch sử nhân loại, môn tâm lý học ứng dụng để ứng xử mọi tình huống xảy ra trong đời sống hằng ngày. Cậu bé Émile đang đi vào tuổi trưởng thành cho nên việc phát triển tư duy logic, tư duy lý luận, phân tích và tổng hợp… được các nhà giáo dục coi trọng.

Quyển IV (15 đến 20 tuổi: tuổi của lý trí và những đam mê): Cậu bé cần được hưởng nền giáo dục  đạo đức (trong đó có cả giáo dục giới tính, giáo dục thẩm mỹ…) và giáo dục tôn giáo để bước vào thế giới của người lớn mà không ngỡ ngàng, vấp váp.

Quyển V (Émile 20 đến 25 tuổi - độ tuổi khôn lớn và hôn nhân):  Rousseau kể chuyện về Sophie, người sẽ là vị hôn thê tương lai của Émile. Như vậy  Rousseau dành riêng quyển cuối cùng này để nói về giáo dục các em gái.  

 

2. Thông tin về dịch giả

2.1. Dịch giả Lê Hồng Sâm

Dịch giả Lê Hồng Sâm sinh năm 1930, từng dạy tại khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp, Chủ nhiệm bộ môn văn học Pháp. Bà đã tham gia vào nhiều hoạt động nghiên cứu và dịch thuật các tác phẩm của Pháp, chẳng hạn như là đồng chủ biên Tuyển văn học Pháp thế kỷ XIX, NXB Thế giới, 1997 (sách song ngữ), chủ biên dịch và giới thiệu Tấn trò đời (Balzac), 16 tập, NXB Thế giới, 1999-1001. Riêng về sách dịch, bà đã dịch và giới thiệu trên dưới 20 tác phẩm văn học Pháp tới bạn đọc Việt Nam, mà gần đây nhất là các cuốn  Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa (Đới Tư Kiệt), NXB Văn học, 2003; Nữ hoàng (Sơn Táp), NXB Hội nhà văn, 2007; Bản mệnh của lý thuyết (Antoine Compagnon), NXB Đại học Sư phạm, 2006. Có thể nói, bà đã có nhiều đóng góp nghiêm túc trong việc trao đổi văn hoá giữa hai nước Pháp Việt.

 

2.2. Dịch giả Trần Quốc Dương

Sinh năm 1935

Nghề nghiệp: giáo viên trung học, trưởng phòng nghiên cứu giáo dục so sánh, Viện Khoa học Giáo dục (1979-1990), Tiến sĩ Giáo dục học (Berlin 1984). Đã từng tham gia dịch bộ Tấn trò đời (Balzac), và một số sách thiếu nhi.

 

 

MỤC LỤC

 

Bùi Văn Nam Sơn giới thiệu

“ÉMILE HAY LÀ VỀ GIÁO DỤC” - MỘT TRIẾT LÝ GIÁO DỤC NHÂN BẢN: DẠY VÀ HỌC LÀM NGƯỜI

 

Lê Hồng Sâm dịch

LỜI NÓI ĐẦU

QUYỀN MỘT

QUYỂN HAI

QUYỀN BA

 

Trần Quốc Dương dịch

QUYỂN BỐN

QUYỂN NĂM

 

Trích sách: Émile hay là về giáo dục, trang 25

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Tập sách gồm những suy tư và quan sát này, không thứ tự và hầu như không mạch lạc, được khởi thảo để chiều lòng một bà mẹ hiền biết suy nghĩ. Thoạt tiên tôi chỉ dự định viết một bài thuyết minh chừng vài trang; do đề tài lôi cuốn tôi ngoài ý muốn, bài thuyết minh dần dà thành một công trình hẳn là quá to tát đối với nội dung của nó nhưng lại quá nhỏ bé đối với vấn đề mà nó bàn luận. Tôi đã cân nhắc rất lâu việc công bố nó; và trong khi soạn thảo, nhiều lần nó đã khiến tôi cảm nhận rằng từng viết vài tập mong mỏng không đủ để biết cấu thành một cuốn sách. Sau nhiều nỗ lực vô bổ để làm tốt hơn, tôi cho rằng phải đưa nó ra đúng như nó vốn thế, bởi xét thấy cần hướng sự chú ý của công chúng về phía đó; và xét rằng, dù các ý tưởng của tôi có dở, song nếu tôi làm nảy ra được những ý tưởng hay ở người khác, thì tôi không hoàn toàn uổng phí thì giờ của mình. Một con người, từ nơi ẩn cư, tung những trang viết của mình ra với công chúng, không người ca ngợi hưởng ứng, không có phe phái bênh vực, thậm chí chẳng biết mọi người nghĩ gì hoặc nói gì về những trang viết ấy, thì nếu như có lầm lẫn, cũng chẳng phải sợ mọi người chấp nhận những sai lầm đó mà không kiểm tra xem xét.

Tôi sẽ nói ít về tầm quan trọng của một sự giáo dục tốt; tôi cũng sẽ không dừng lại để chứng minh rằng sự giáo dục hiện hành là dở; hàng ngàn người khác đã làm việc đó trước tôi, và tôi không thích viết đầy một cuốn sách những điều mà ai cũng biết. Tôi chỉ nhận xét rằng, từ lâu lắm rồi, chỉ có một sự kêu ca phàn nàn về cách làm đã được xác lập, mà không người nào tính đến chuyện đề xuất một cách làm tốt hơn. Văn chương và tri thức thời đại chúng ta có khuynh hướng phá hủy nhiều hơn là xây dựng. Người ta chỉ trích với giọng ông thầy; để đề xuất, phải dùng một giọng điệu khác, mà triết lý cao ngạo không ưa thích lắm. Mặc dù đã có bao nhiêu sách vở, như người ta nói, chỉ nhằm mỗi mục tiêu là công ích, song lợi ích đầu tiên của mọi lợi ích, là nghệ thuật đào tạo con người, hãy còn bị lãng quên. Đề tài của tôi hãy còn hoàn toàn mới mẻ sau cuốn sách của Locke[1], và tôi rất sợ là nó vẫn còn mới mẻ sau cuốn sách của tôi.

Người ta không hề hiểu biết tuổi thơ: dựa trên những ý tưởng sai lầm của ta về tuổi thơ, thì càng đi, càng lạc lối. Những bậc hiền minh nhất chuyên chú vào những điều con người cần biết, mà không coi trọng những điều trẻ con có thể học được. Họ luôn tìm kiếm người lớn trong đứa trẻ, mà không nghĩ về hiện trạng của đứa trẻ trước khi nó là người lớn. Đó là điều tôi đã chuyên tâm nghiên cứu hơn cả, để nếu như toàn bộ phương pháp tôi đề xuất có sai lầm và hão huyền, thì mọi người vẫn có thể lợi dụng được các quan sát của tôi. Tôi có thể đã nhìn rất kém điều cần làm; nhưng tôi cho rằng mình đã nhìn rõ chủ thể mà trên đó ta cần thao tác. Vậy xin các vị hãy bắt đầu bằng việc nghiên cứu kỹ hơn các học trò của mình; bởi chắc chắn rằng các vị không hề hiểu chúng; mà nếu các vị đọc cuốn sách này với ý đó, thì tôi nghĩ cuốn sách chẳng phải là vô ích đối với các vị.

Về những gì mà người ta sẽ gọi là phần hệ thống, ở đây chẳng là gì khác ngoài sự vận hành của tự nhiên, đó chính là điều sẽ khiến độc giả khó nghĩ nhất; chắc người ta cũng sẽ công kích tôi ở điều này, và có lẽ họ không sai đâu. Người ta sẽ nghĩ rằng mình đang đọc những mơ mộng của một nhà ảo tưởng về giáo dục hơn là một khảo luận về giáo dục. Làm thế nào được? Tôi không căn cứ vào các ý tưởng của người khác mà viết; tôi căn cứ vào các ý tưởng của mình. Tôi không hề nhìn như những người khác; từ lâu người ta đã trách tôi về điều này. Nhưng việc cho mình những con mắt khác, những ý tưởng khác, có tùy thuộc vào tôi hay chăng? Không. Tùy thuộc vào tôi là việc đừng tự tán thành, đừng tưởng rằng riêng mình khôn ngoan hơn toàn thể thiên hạ; tùy thuộc vào tôi, không phải việc thay đổi cảm nghĩ, mà là nghi ngờ cảm nghĩ của mình: đó là tất cả những gì tôi có thể làm, và là những gì tôi đang làm. Nếu đôi khi tôi lấy giọng quả quyết, thì đó không hề là để áp đặt với độc giả; đó là để nói với độc giả giống như tôi nghĩ. Tại sao tôi lại đề xuất dưới hình thức nghi vấn điều mà, về phần mình, tôi chẳng hề nghi ngờ? Tôi nói đúng điều đang diễn ra trong đầu óc mình.

Trong khi trình bày một cách thoải mái cảm nghĩ của mình, tôi rất ít muốn cảm nghĩ ấy có uy quyền, thành thử tôi luôn kèm theo đó các lý lẽ của tôi, để mọi người cân nhắc chúng và xét đoán tôi: nhưng, dù tôi không hề định khăng khăng bênh vực các ý tưởng của mình, tôi vẫn cho rằng mình buộc phải đề xuất chúng; bởi các phương châm mà về chúng tôi có ý kiến trái ngược với ý kiến những người khác không hề vô sự. Chúng thuộc những phương châm mà ta cần phải biết là đúng hay sai, những phương châm tạo nên hạnh phúc hay bất hạnh cho loài người.

Hãy đề xuất điều gì có thể làm được, người ta không ngừng nhắc đi nhắc lại với tôi như vậy. Cứ như thể người ta bảo tôi: hãy đề xuất làm điều người ta đang làm; hoặc chí ít hãy đề xuất điều thiện nào đó dung hòa được với điều ác hiện hữu. Một dự án như thế, về một số vấn đề, còn hão huyền hơn các dự án của tôi rất nhiều; bởi, trong sự dung hòa ấy, cái thiện hỏng đi, còn cái ác không chữa khỏi. Chẳng thà tôi nhất nhất tuân theo cách làm đã được xác lập, còn hơn là có một cách làm tốt nửa vời; như vậy trong con người có lẽ sẽ ít mâu thuẫn hơn; con người không thể đồng thời hướng về hai mục đích đối lập. Hỡi các bậc cha mẹ, điều có thể làm được là điều các vị muốn làm. Tôi có phải chịu trách nhiệm về ý muốn của các vị hay không?

Trong mọi loại dự án, có hai điều cần xem xét: thứ nhất, tính tốt đẹp tuyệt đối của dự án; thứ hai, tính dễ dàng của việc thực hiện.

Về điều thứ nhất, để cho bản thân dự án có thể được chấp nhận và bản thân nó có thể thực thi, chỉ cần những gì tốt đẹp ở nó thuộc về bản chất của sự vật; thí dụ như ở đây, sự giáo dục được đề xuất cần phù hợp với con người, và rất thích ứng với lòng người.

Điều thứ hai phụ thuộc vào các quan hệ nhất định trong một số tình thế: đó là những quan hệ ngẫu nhiên với sự vật, do vậy, chúng không hề là tất yếu, và có thể biến thiên đến vô tận. Chẳng hạn sự giáo dục này có thể thực thi tại Thụy Sĩ, mà không thực thi được tại Pháp; sự giáo dục kia có thể thực thi ở tầng lớp thị dân, còn sự giáo dục nọ ở giới quyền quý. Tính dễ dàng nhiều hay ít của việc thi hành phụ thuộc vào hàng ngàn trường hợp không thể xác định bằng cách nào khác ngoài việc ứng dụng riêng biệt phương pháp cho xứ sở này hay xứ sở nọ, cho trạng thái này hay trạng thái nọ. Mà tất cả những sự ứng dụng riêng biệt ấy, do không thiết yếu đối với đề tài, nên không ở trong kế hoạch của tôi. Những người khác có thể lo điều đó nếu họ muốn, mỗi người lo cho Xứ sở hoặc Quốc gia mà họ sẽ nhằm tới. Đối với tôi, chỉ cần nơi đâu sẽ ra đời những con người, ta có thể đào tạo họ theo những gì tôi đề xuất; và trong khi đào tạo họ theo những gì tôi đề xuất, ta đã làm điều tốt nhất cả cho họ cả cho người khác, thế là đủ. Nếu tôi không làm trọn lời hứa này, chắc hẳn là tôi sai trái; nhưng nếu tôi làm trọn lời hứa, thì mọi người cũng sai trái khi đòi hỏi nhiều hơn ở tôi, bởi tôi chỉ hứa có vậy mà thôi.

 


[1] * John Locke (1632-1704), triết gia người Anh, đã viết những tác phẩm Về trí năng của con người (1690), Về sự giáo dục trẻ em (1693).

Những chú thích có kèm dấu * là của người dịch.

           

©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org