Điểm sách
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC TRÂN TRỌNG GIỚI THIỆU
Tên sách: Dân chủ và giáo dục, Một dẫn nhập vào triết lý giáo dục
Tác giả: John Dewey
Dịch giả: Phạm Anh Tuấn
Số trang: 450
Khổ sách: 16 x 24 cm
Giá bìa: 75.000 VND
Nhà xuất bản Tri thức, 2008
Tủ sách Tinh hoa Tri thức Thế giới
***
I. Tác giả:
John Dewey là một nhà triết học thuộc chủ nghĩa thực dụng, nhà tâm lý
học và là nhà giáo dục thường được coi là cha đẻ của phong trào cải cách
giáo dục, sinh ngày 20 tháng Mười năm 1859 tại Burlington, Vermont, Hoa
Kỳ. Năm 1875, Dewey vào học ở Đại học Vermont và nhận bằng cử nhân ở
đây. Năm 1894, Dewey chuyển đến Đại học Chicago với vai trò là Trưởng
khoa Triết học, Tâm lý và Giáo dục học. Năm 1896, ông thành lập Đại học
Thực nghiệm, ngày nay được biết đến nhiều hơn với tên gọi “Trường
Dewey”. Dewey rời Chicago đến Columbia vào năm 1904 do có xung đột về
cách quản lý Trường Thực nghiệm. Sau đó, ông trở thành một triết gia,
một nhà giáo dục xuất chúng được nhiều người biết tới. Dewey nghỉ hưu
vào năm 1930, mặc dù ông tiếp tục giữ cương vị giáo sư danh dự cho đến
năm 1939; ông vẫn hoạt động cống hiến không ngừng cho đến khi qua đời
vào ngày 1 tháng Sáu năm 1952 trong ngôi nhà của mình ở New York.
II. Tác phẩm:
“Cuốn sách này là kết quả của một nỗ lực nhằm phát hiện và trình bày
những quan niệm gắn liền với một xã hội dân chủ, và vận dụng các quan
niệm đó vào những vấn đề của hoạt động giáo dục. Cuốn sách chỉ rõ những
mục tiêu và phương pháp kiến tạo của nền giáo dục công lập xét từ quan
điểm nói trên, và đưa ra đánh giá có tính phê phán các lý luận về nhận
thức và sự phát triển đạo đức. Các lý luận đó đã được phát biểu trong
những điều kiện xã hội trước đó song vẫn tiếp tục có hiệu lực trong
những xã hội mang danh xưng dân chủ và cản trở việc thực hiện đầy đủ cái
lý tưởng dân chủ.”
Việc phân chia xã hội thành nhiều giai cấp gây nên hậu quả tai hại là
tạo ra những sự phân ly có tính nhị nguyên, đang cản trở sự phát triển
của giáo dục (như sự đối lập giữa hoạt động chân tay và hoạt động trí
óc, giữa "văn hóa" và "học nghề"…). Chúng đưa đến quan niệm sai lầm rằng
nội dung giáo dục là gồm nhiều lĩnh vực cô lập với nhau và có giá trị
khác nhau đối với đời sống xã hội. Nguyên nhân sâu xa của sự đối lập này
là xem Tinh thần, hành động và bản tính tự nhiên là khác nhau về bản
chất.
Triết lý [giáo dục] của Dewey cho rằng tinh thần con người tìm thấy
nguồn gốc và cả chức năng của mình ở trong hoạt động kiến tạo môi trường
sống chung quanh, nơi đó thể xác và tinh thần, tư duy và kinh nghiệm, cá
nhân và cộng đồng, môi trường vật lý và môi trường xã hội không được
phép tách biệt và tháo rời khỏi nhau.
“Như [nội dung] cuốn sách này sẽ dần dần bộc lộ, triết lý được trình bày
ở đây gắn sự trưởng thành của dân chủ với sự phát triển của phương pháp
thực nghiệm trong các môn khoa học, các khái niệm về tiến hóa của khoa
sinh học, và sự tái tổ chức lại nền công nghiệp, đồng thời chỉ ra những
thay đổi trong nội dung và phương pháp của giáo dục do sự đòi hỏi của
những phát triển đó.”
III. Mục lục
John Dewey, Giáo dục chính là cuộc sống
Lời người dịch
Lời nói đầu
Chương I
Giáo dục xét như là một tất yếu của sự sống
Chương II
Giáo dục xét như là một chức năng xã hội
Chương III
Giáo dục xét như là điều khiển
Chương IV
Giáo dục xét như là sự tăng trưởng
Chương V
Sự chuẩn bị, sự bộc lộ và Chương VI
Nền giáo dục bảo thủ và nền giáo dục tiến bộ
Chương VII
Khái niệm dân chủ trong giáo dục
Chương VIII
Mục tiêu trong giáo dục
Chương IX
Sự phát triển tự nhiên và hiệu quả xã hội xét như là mục tiêu
Chương X
Hứng thú và kỷ luật
Chương XI
Kinh nghiệm và tư duy
Chương XII
Tư duy trong giáo dục
Chương XIII
Bản chất của phương pháp
Chương XIV
Bản chất của nội dung
Chương XV
Giải trí và làm việc trong chương trình học của nhà trường
Chương XVI
Ý nghĩa của môn địa lý và môn lịch sử
Chương XVII
Khoa học trong chương trình học
Chương XVIII
Giá trị của giáo dục
Chương XIX
Lao động và nhàn hạ
Chương XX
Môn học lý thuyết và môn học thực hành
Chương XXI
Các môn học tự nhiên và các môn học xã hội: Thuyết duy tự nhiên và
thuyết nhân văn
Chương XXII
Cá nhân và thế giới
Chương XXIII
Những khía cạnh nghề nghiệp của giáo dục
Chương XXIV
Triết lý giáo dục
Chương XXV
Những lý luận về nhận thức
Chương XXVI
Những lý luận về đạo đức
Mục lục vấn đề và nội dung thuật ngữ
Niên biểu tóm tắt về cuộc đời và tác phẩm của John Dewey
IV. LỜI NGƯỜI DỊCH
Tôi có vinh dự xen lẫn niềm vui cá nhân khi được tiếp cận cuốn Dân
chủ và giáo dục của John Dewey với tư cách một dịch giả. Một người
“ngoại đạo” như tôi được đảm nhận dịch một tác phẩm được coi là quan
trọng nhất của triết gia – nhà giáo dục khởi xướng trào lưu Tân giáo dục
tại Mỹ và châu Âu vào cuối thế kỷ XIX thì quả là niềm hân hạnh lớn. Tròn
hai mươi năm trước – năm 1988 – cuộc đời đã tình cờ cho tôi có dịp quan
sát và tìm hiểu ở phạm vi gần một cơ sở thực nghiệm giáo dục tại Việt
Nam có nhiều nét tương đồng về triết lý giáo dục (dù sự hình thành có
thể khác nhau) với trường học thực nghiệm giáo dục của John Dewey tại
Chicago trước đó hơn tám chục năm (Chicago Laboratory School of
Education). Sự tương đồng được thấy ở quan niệm coi trẻ em là trung tâm
thay vì người thầy trên bục giảng. Sự phản hồi xã hội trước hai trường
học thực nghiệm này thật thú vị. Ở Mỹ, người ta tưởng rằng đề cao trẻ em
tức là để cho chúng tự do thể hiện (express themselves freely). Ở Việt
Nam, hầu hết mọi người đều đinh ninh rằng tôn trẻ em lên vị trí cao nhất
có nghĩa là làm hư chúng. Thực thể thực nghiệm giáo dục tại Việt Nam mà
tôi đang nói tới là Trường Thực nghiệm Giáo dục Phổ thông (Experimental
School of General Education) được thành lập năm 1978 tại Hà Nội mà người
hiệu trưởng đầu tiên là Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại. Trường thực nghiệm của John
Dewey tồn tại trong hơn bốn năm. Trong bốn năm ấy trường thực nghiệm đã
giúp cho John Dewey có chất liệu để viết cuốn sách về giáo dục quan
trọng đầu tiên của ông The School and Society (Nhà trường và xã
hội). Trường thực nghiệm tại Hà Nội vẫn tiếp tục tồn tại cho đến hôm
nay, trên danh nghĩa, và từ lâu đã bắt đầu gia nhập dòng giáo dục “chủ
lưu”. Trong cuốn tiểu thuyết Tìm lại thời gian đã mất của nhà văn
Pháp Marcel Proust, nhân vật chính – người kể chuyện đã bị ký ức đột
ngột hiện về xâm chiếm khi anh ta bắt gặp mùi vị của chiếc bánh
madeleine nhúng vào tách trà nóng… Có lẽ tôi đã ở trong tâm trạng tương
tự trong thời gian dịch cuốn sách này. Đối với tôi, quãng thời gian thực
hiện bản dịch tưởng như là một chuyến đi trở về hai mươi năm trước.
Nhiều câu hỏi và sự băn khoăn của ngày ấy đã phần nào tìm được lời giải
đáp ở trong cuốn sách này.
John Dewey cho rằng nhà trường không phải là nơi được xây dựng để làm
chỗ cho trẻ em đến đó học. Nhà trường chính là môi trường sống của ngày
hôm nay. Không có sự tháo rời giữa nhà trường và cuộc đời thực bên
ngoài. Hai mươi năm trước, khẩu hiệu của Trường Thực nghiệm Giáo dục Phổ
thông tại Việt Nam là: “Hạnh phúc đi học.” Hơn tám chục năm trước đó,
John Dewey đã viết: “Nếu được đề nghị nêu đâu là sự cải cách cấp thiết
nhất về ý nghĩa đích thực của giáo dục, tôi sẽ đáp: ‘Hãy chấm dứt coi
giáo dục như là sự chuẩn bị đơn thuần cho cuộc sống tương lai, hãy coi
giáo dục như là ý nghĩa đầy đủ của đời sống đang diễn ra trong hiện
tại’.” (The Philosophical Review, Vol.2, No. 6, Nov., 1893:
Tạp chí Triết học, Tập 2, Số 6, Tháng 11 năm 1893).
Nhưng John Dewey – người khởi xướng trào lưu Tân
giáo dục lại cảnh giác và cảnh báo những nguy cơ đến từ chính Tân giáo
dục. Ngay từ đầu, ông đã luôn giữ khoảng cách với phe “lãng mạn” của
trào lưu này. Ông cho rằng Tân giáo dục không chỉ đơn giản là sự chống
lại nền giáo dục truyền thống bởi điều đó lại dẫn đến một tình thế nhị
nguyên, một sự phân đôi còn tai hại hơn. Đúng ra, Tân giáo dục còn
“nghiêm ngặt”, “khắt khe” hơn về phương pháp, so với nền giáo dục truyền
thống, và thật thú vị là tuy John Dewey đề cao trẻ em song ông đòi hỏi
rất nhiều ở người thầy. “Hãy tôn trọng trẻ em, tôn trọng chúng đến cùng,
song hãy tôn trọng cả bản thân chúng ta [người lớn] nữa.” (Dân chủ và
giáo dục, Chương IV, John Dewey dẫn lời của Emerson). Người thầy
phải có khả năng cùng một lúc nhìn thế giới bằng con mắt của trẻ em và
con mắt của người lớn. “Giống như cô bé Alice lạc vào Xứ sở Diệu kỳ,
người thầy phải cùng trẻ em bước vào mặt sau của chiếc gương, bước vào
chiếc kính lăng trụ của trí tưởng tượng, nhìn mọi sự bằng con mắt của
trẻ em với mọi hạn chế bắt nguồn từ kinh nghiệm riêng của chúng; thế
nhưng, bởi người thầy tất yếu phải bước ra khỏi chiếc gương đó, vì thế
mà người thầy còn phải đủ khả năng khôi phục lại cách nhìn theo quan
điểm của người lớn để cung cấp cho trẻ em những mốc tri thức và phương
tiện của phương pháp.” (Tạp chí Perspectives của UNESCO, vol
XXIII, no.1-2, 1993, tr. 277-193).
Nguyên lý về tính liên tục (continuity) và tính tương tác
(interaction) trong Lý thuyết Kinh nghiêm (Theory of Experience) của
John Dewey đã thủ tiêu hoàn toàn thuyết nhị nguyên từng tồn tại dai dẳng
cùng những tác hại của nó trong giáo dục kể từ thời cổ đại với giáo dục
theo kiểu Plato. Sự thủ tiêu mọi thuyết nhị nguyên hoặc những sự đối lập
nhị nguyên còn đưa ông đến một lý luận mới về sự hình thành nhận thức
(epistemology), một lý luận về logic của sự truy tìm nhận thức (theory
of inquiry). Như tôi biết, đây là hai đóng góp lớn nhất của John Dewey
cho triết lý giáo dục nói riêng.
Triết học của John Dewey phát triển lên từ kinh nghiệm thông thường và
có thể kiểm chứng được bằng kinh nghiệm thông thường, vì thế triết học
của ông không chỉ thích hợp với sự nghị luận trong giới học thuật mà còn
còn có thể thích hợp với bất kỳ ai dù làm nghề gì. Báo The New York
Times ngày 3 tháng 3 năm 1925 trong bài điểm sách cuốn
Experience and Nature (Kinh nghiệm và tự nhiên) của John Dewey đã
viết: “Không phải ai cũng có thể hiểu được triết học của ông, nhưng hầu
như ai cũng ắt phải thực hành triết học của ông trong chừng mực nào đó.”
Chuyển ngữ tư tưởng của John Dewey có khó khăn ở chỗ làm sao tránh được
cách hiểu dễ sa vào sự “tầm thường hóa” các vấn đề triết học. Chữ “kinh
nghiệm”, chẳng hạn, dễ khiến ta liên tưởng đến nghĩa xấu của từ này.
John Dewey chú trọng tới nghĩa của câu văn hơn là tới cách hành văn. Ông
thường dùng cả đoạn văn dài lê thê và “ngổn ngang” để phát biểu một ý
tưởng nào đó, bởi ngay chính ông cũng đang phải vật lộn để tìm và chọn
“từ” nhằm diễn đạt những điều mà cho tới khi đó còn chưa được nói tới
trong triết học. Ông là kẻ vác thánh giá (crusader) đi tìm chân lý, chứ
không phải là kẻ giải thích chân lý có sẵn. Vì thế, trong khi tôn trọng
nguyên tắc đề cao sự nghiêm ngặt trong việc dịch các tác phẩm kinh điển,
chúng tôi vẫn buộc phải thỉnh thoảng sử dụng đến dấu ngoặc vuông “[]” để
làm rõ một ý hoặc để nối liền mạch một đoạn văn, song nhất quyết không
phải theo nghĩa “diễn dịch” theo ý riêng. Người đọc – và nhất là người
học – có quyền tham khảo, trích dẫn gần như từ nguyên tác, là một yêu
cầu được chúng tôi đề cao, đặc biệt khi mà cuốn sách chắc hẳn sẽ được sử
dụng nhiều trong giới sư phạm “mô phạm”.
Đối với người đọc vì mục đích nghiên cứu, phần “Mục lục vấn đề và nội
dung thuật ngữ” nằm ở cuối cuốn sách sẽ giúp ích phần nào. Tại đây,
người đọc có thể dễ dàng tra cứu, tìm vị trí xuất hiện của thuật ngữ
hoặc vấn đề liên quan trong cuốn sách. Bên cạnh đó, phần “Niên biểu tóm
tắt cuộc đời và tác phẩm của John Dewey” sẽ giúp người đọc có được hình
dung tương đối tổng thể về tác giả của tác phẩm này.
Cuối cùng, như là vấn đề cố hữu của triết học, các thuật ngữ và vấn đề
triết học có đời sống tồn tại riêng đối với mỗi một nhà triết học. Nội
dung thuật ngữ vừa bị ấn định theo mỗi nhà triết học, nhưng đồng thời
chúng lại không ngừng diễn biến. Vì thế mà sự trao đổi và tranh luận đến
cùng nên là tinh thần được duy trì liên tục, thậm chí đôi khi tranh luận
không phải để đi đến sự đồng thuận.
Dù chỉ trong khuôn khổ hẹp của một bản dịch, mối quan hệ giữa người dịch
và biên tập viên của nhà xuất bản bao giờ cũng có tầm quan trọng đặc
biệt. Người biên tập không phải là người đứng ở ngoài “soi xét” bản
dịch, họ thực sự còn là người tham gia mà không vi phạm tới “tự do” của
người dịch. Trên tinh thần đó, tôi muốn cảm ơn chị biên tập viên vì sự
giúp đỡ thiết thực và hiệu quả, và vì rất nhiều thời gian cùng sự kiên
nhẫn mà chị đã dành cho tôi.
Cuối cùng, xin cảm ơn Nhà xuất bản Tri thức đã cho tôi cơ hội có được
vinh dự và niềm vui dịch tác phẩm quan trọng này!
Phạm Anh Tuấn
Hà Nội, mùa xuân 2008
Tổng phát hành : Nhà xuất bản Trí Thức
|