Điểm sách
Tên sách: 5 đường mòn Hồ Chí Minh Tác giả: Đặng Phong Số trang: 356 trang Khổ sách: 16 x 24 cm Giá bìa: 78.000 VND Tủ sách Việt Nam đương đại Nhà xuất bản Tri thức, 2008
LỜI GIỚI THIỆU
NGÔ VĨNH LONG*
Tác phẩm này là một công trình rất quý giá, vì đây là lần đầu tiên tư
liệu trong và ngoài nước được tập hợp trong một cuốn sách để miêu tả và
giải thích tầm quan trọng và quan hệ của “5 đường mòn Hồ Chí Minh” trong
việc chi viện cho cuộc đấu tranh giải phóng Miền Nam cũng như trong việc
giữ liên lạc giữa miền Nam với miền Bắc. Trước đây, khi nói đến chi viện miền Bắc cho chiến trường miền Nam thì
người ta chỉ chủ yếu nghĩ đến đường Trường Sơn, một phần vì sự tàn khốc
ở đây: khoảng một triệu tấn bom đạn Mỹ đã tàn phá dọc đường này, làm cho
khoảng hai vạn chiến sĩ miền Bắc đã ngã xuống và khoảng 20.000 người bị
tàn phế. Các đường tiếp viện khác, tuy đã đóng góp rất lớn trong việc
chi viện cho miền Nam và việc giữ liên lạc giữa hai miền, không được
người ta chú ý đến nhiều vì chúng đã được bảo đảm bí mật bởi những người
trong cuộc, bởi dân chúng trong nước và những người yêu mến Việt Nam ở
nước ngoài. Không phải chính phủ Hoa Kỳ và các chính quyền Sài Gòn không biết đến
bốn đường tiếp viện khác, ngoài đường Trường Sơn, như được miêu tả trong
sách này. Đọc những báo cáo của Mỹ về chiến trường tại Việt Nam trong
các kho lưu trữ tại Hoa Kỳ, ta thấy là các cục tình báo Mỹ đã đề cập đến
các con đường này hàng nghìn lần. Nhưng vì sự bảo đảm bí mật nói trên,
họ chỉ biết rất lõm bõm nên đã không thể đánh giá đầy đủ tầm quan trọng
của chúng để có những biện pháp ngăn chặn hay phá hủy một cách hữu hiệu
hơn. Nhưng vì yêu cầu bảo đảm bí mật nên chính những người trong cuộc
cũng chỉ biết đường dây của chính mình thôi và không biết rõ những hoạt
động của người khác hay biết bức tranh toàn cảnh là gì. Cuốn sách này, lần đầu tiên, giúp cho người đọc biết tương đối rõ rệt
bức tranh toàn cảnh của việc chi viện cho miền Nam cũng như những hoạt
động cụ thể của từng con đường tiếp viện và của các nhân vật chủ chốt
trong đó. Tiếng nói của các nhân vật chủ chốt được trích trong sách này
là một đóng góp rất quan trọng và rất sống động mà chưa quyển sách nào
hay bài báo nào làm được. Nhiều nhân vật chủ chốt đều cho biết họ sẽ
không thể hoàn thành những nhiệm vụ được giao phó nếu không có sự ủng
hộ, sáng tạo và bảo vệ của người dân. Nhưng những nhân vật chủ chốt được
trích trong sách này đã không nói rõ là vì sao nhân dân đã hi sinh lớn
đến như vậy để giúp thiết lập và bảo vệ “5 đường mòn Hồ Chí Minh” này.
Đó là nhờ trong suốt thời gian từ năm 1945 đến năm 1975 Cách mạng đã
giành được chính nghĩa. Chính phủ miền Bắc và Mặt trận Giải phóng Miền
Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng Lâm thời) có chính danh vì đã tranh
đấu giành độc lập và tự do cho đất nước và nhân dân Việt Nam. Chính
nghĩa và chính danh, chứ không phải chỉ các hoạt động bí mật và sáng
tạo, đã giúp cho Cách mạng không những bảo vệ được 5 con đường miêu tả
trong sách này mà còn bảo vệ tổ quốc và giành lại độc lập cho toàn dân
tộc. Nếu cuốn sách này có gợi ra được một ấn tượng, hay một ý gì đáng suy
nghĩ nhất cho người đọc thì đó là việc huy động được lòng dân - nhân dân
trong nước và nhân dân thế giới. Thêm vào đó, người đọc có cảm nhận ngay đây là một cuốn sách có tinh
thần khoa học rất cao. Tác giả đã nghiên cứu rất công phu, đã đối chiếu
và phân tích các tư liệu với sự trung thực của một sử gia, và đã không
qua đó mà phê phán cách tiếp cận của bất cứ một người nào hay đường lối
chính trị của bất cứ một phe phái nào từ trong cuộc chiến đến nay. LỜI TÁC GIẢ Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước (theo cách gọi của Việt Nam), hay
chiến tranh Việt Nam (theo cách gọi của người Mỹ và đồng minh), là một
trong những cuộc chiến tranh khốc liệt nhất, để lại những dấu ấn sâu sắc
nhất trong dư luận và tâm linh của nhân loại thế kỷ XX. Những dấu ấn đó
có nhiều chiều và nhiều ý nghĩa khác nhau: Là niềm tự hào nơi người
chiến thắng, là sự bẽ bàng và khủng hoảng trong đời sống chính trị và
tâm linh Mỹ, là sự day dứt nơi những người đã từng tham gia quân đội và
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa... Có lẽ cũng vì những loại dấu ấn rất khác nhau đó, cho nên dù chiến tranh
đã kết thúc hơn 30 năm, vẫn tiếp tục một loại “chiến tranh” trong giải
thích và bình luận lịch sử. Cuốn sách này không nhằm tham gia vào cuộc “chiến tranh” đó, và cũng
không chọn một chỗ đứng nào trong ba góc nhìn kể trên. Mục đích của cuốn sách này là trình bày một khía cạnh lịch sử quan trọng
của cuộc chiến tranh mà nhiều chỗ vẫn còn chưa được biết tới, hoặc biết
rất không đầy đủ: Đó là những hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh. Cho đến nay, có biết bao nhiêu tài liệu đã được công bố từ cả ba phía,
biết bao nhiêu cuốn sách đã được viết ra nhưng vẫn chưa nói hết được
những câu chuyện về các con đường mòn Hồ Chí Minh đó, thậm chí có những
con đường hầu như chỉ ai đã đi thì mới biết. Sách báo Mỹ đã biết khá rõ về con đường Hồ Chí Minh trên bộ, tức là
đường Trường Sơn. Nhưng cả những tài liệu đã được giải mật lẫn những
sách báo đã được viết ra vẫn chưa giúp người đọc thỏa mãn một câu hỏi:
Vì sao mà những phương tiện hiện đại nhất của Mỹ, dù đã được huy động
tối đa vào đây, vẫn bị vô hiệu hóa bởi những con người mà xét về cả tiền
bạc lẫn kỹ thuật đều thua kém nhiều lần? Những biện pháp để làm đường,
những cách tổ chức vượt đường, hệ thống quản lý các cung đường, hệ thống
các kho tàng, các trạm quân y, quân nhu, dịch vụ, sửa chữa và nhất là
những cách để tránh bom đạn và “đánh lừa” kỹ thuật Mỹ... mà đến nay
chính là những chuyện lý thú nhất, thì hình như sách báo Mỹ vẫn chưa nói
được bao nhiêu, thậm chí cho đến gần đây nhất vẫn có những chuyện hiểu
lầm (như chuyện hoang đường mới được phía Mỹ công bố đầu năm 2008 về
việc “tình báo Việt cộng” lọt được vào hệ thống thông tin quân sự của Mỹ
để “ra lệnh” cho máy bay Mỹ ném bom các căn cứ quân sự Mỹ). Con đường thứ hai là con đường xăng dầu, với tổng chiều dài tới 5.000
km, để vận chuyển nhiên liệu suốt từ biên giới Việt - Trung và các cảng
biển miền Bắc vào đến tận Nam Bộ, có chỗ vượt qua cả những độ cao tới
gần ngàn mét là điều có vẻ là bất khả thi đối với kỹ thuật đường ống.
Con đường này người Mỹ dường như cũng biết rằng có và cũng đã đánh phá
được một số điểm. Nhưng nó có bằng cách nào và nó đã đóng vai trò ra sao
trong việc cung cấp nhiên liệu cho các đoàn xe vận tải vũ khí, cung cấp
nhiên liệu cho xe tăng trong các trận đánh lớn ở miền Nam, thì hình như
trong những tài liệu đã giải mật gần đây nhất cũng không có được những
thông tin cụ thể. Con đường thứ ba là con đường trên biển, thì hải quân, không quân của Mỹ
và của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng đã cảm thấy hình như có chuyện
và đã tổ chức đề phòng. Nhưng trong suốt 7 năm đầu hoạt động, các đoàn
tàu không số đã đưa được hàng chục ngàn tấn vũ khí vào Nam rồi mà đối
phương vẫn không bắt được vụ nào. Chỉ đến năm 1966 họ mới giật mình khi
bắt được một vài vụ. Nhưng họ vẫn không sao tìm ra manh mối. Một số con
tàu chớm bị phát hiện, sắp bị vây bắt, thì thuỷ thủ đoàn đã tự đánh đắm
và tự thủ tiêu. Do đó nó vẫn là một con đường “phi tang”. Nếu lại so
sánh những hải đồ do phía hải quân Mỹ vẽ về các tuyến đi của các con tàu
không số và hải đồ thật của Lữ đoàn 125 thì khoảng cách sai biệt vẫn rất
lớn. Rồi khi những “con tàu đánh cá giả” bị họ theo dõi sít sao, thì
những “con tàu đánh cá thật”, hoàn toàn hợp pháp mà họ quen mặt từ lâu,
lại bắt đầu chuyển sang chở vũ khí, còn công nhiên chở cả những cán bộ
lãnh đạo quan trọng như Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh ra Bắc, vào Nam…, thì
cho đến ngày giải phóng đối phương cũng chưa hề biết đến. Con đường thứ tư là con đường hàng không, bí mật trong công khai, đi từ
Phnom Penh, bay qua lãnh thổ miền Nam Việt Nam, thậm chí bay qua chính
Sài Gòn, tới Hồng Kông hoặc Quảng Châu, rồi về Hà Nội. Con đường này đã
từng vận chuyển hàng ngàn lượt tướng tá của miền Bắc vào Nam và từ Nam
ra Bắc, vận chuyển hàng triệu đô la cho cơ quan Kinh-Tài của miền Nam,
vận chuyển rất nhiều thứ máy móc, thuốc men và hóa chất quan trọng, vận
chuyển thương binh, vận chuyển vợ con những chiến sĩ và cán bộ của miền
Nam ra Bắc để học tập và điều dưỡng… Nhưng phía Mỹ và Chính quyền Sài
Gòn hình như cũng hoàn toàn chưa biết gì. Con đường thứ năm, con đường chuyển ngân thì còn bí hiểm hơn. Đó là con
đường vô hình, không có đường, không có lối trên đất liền, trên biển,
trên không, trên những đường ống... Nó đi theo hệ thống ngân hàng của
chính các nước phương Tây và hệ thống ngân hàng ở ngay Sài Gòn để chuyển
tiền một cách hợp pháp từ Bắc vào Nam, từ các nguồn tài trợ của các nước
vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn rút ra tiền bản địa để chi tiêu cho những
lực lượng Giải phóng. Không cần ô tô, không cần máy bay, không cần tàu
thủy, không cần gùi thồ, chỉ những mật mã, những cú điện... là tiền từ
Paris, London, Hong Kong, Bangkok, Moskva, Bắc Kinh... được chuyển qua
Sài Gòn rồi lên các căn cứ địa ở khắp miền Nam, được thanh toán cho
những địa chỉ cần thiết ở bất kỳ nơi nào trên thế giới... Con đường đó
suốt hai mươi năm chiến tranh chỉ “ai làm thì biết”, Mỹ không biết,
Chính quyền Sài Gòn không biết, nên không một ai bị bắt, không một vụ
chuyển ngân nào bị phát hiện… Không riêng người Mỹ, không riêng những người nước ngoài, ngay cả những
người Việt Nam, thậm chí cả những chiến sĩ, những cán bộ và cả những
người lãnh đạo cấp cao trong hệ thống các con đường Hồ Chí Minh kể trên
cũng không biết hết được những gì ngoài phạm vi mình phụ trách. Người
phụ trách đường bộ không biết được bao nhiêu về hệ thống đường biển.
Người phụ trách đường biển không biết bao nhiêu về hệ thống đường hàng
không. Và tất cả những lực lượng đó hoàn toàn không biết đến hệ thống
đường chuyển ngân bí mật qua các ngân hàng. Sự “không biết” đó của cả
bên này lẫn bên kia càng chứng tỏ rằng ngoài những điều thần kỳ của ý
chí, tài năng và cách tổ chức, còn có một điều thần kỳ nữa: Sự bí mật!
Ở Việt Nam đến nay cũng đã có rất nhiều sách viết về đường Trường Sơn,
một số sách viết về con đường trên biển. Nhưng do những sách đó vẫn còn
nặng về biểu dương thành tích, về lòng tự hào và ngợi ca, nhẹ về mô tả
lịch sử và đúc kết lịch sử, mà có đúc kết thì cũng không ngoài mấy bài
học đã thuộc từ lâu, nên tuy số trang thì kể ra đã có tới hàng ngàn,
hàng vạn, mà người đọc vẫn khó thu lượm được những điều mà họ thực sự
cần tìm. Có thể nói, cho đến nay chưa có một sự trình bày tổng hợp nào về cả 5
đường mòn Hồ Chí Minh đó cũng như tính liên hoàn của chúng, để làm sao
trong vòng hai, ba trăm trang thôi, có thể nói lên được những nét chính
yếu của hệ thống chi viện vừa đa phương, vừa đa dạng cho miền Nam suốt
trong 20 năm chiến tranh. Đó đang là nhu cầu của cả những thế hệ đương
thời lẫn những thế hệ hậu chiến, ở Việt Nam cũng như ở Hoa Kỳ. Đó chính là lý do thúc đẩy tác giả viết nên tập sách nhỏ này. Cũng xin nói rõ rằng tác giả không hề có cương vị nào trong sự nghiệp
lớn lao này, nên không hề dám làm điều gì vượt trội những tác giả tiền
bối mà chỉ xin khiêm tốn nhặt nhạnh lại của những người đi trước (cả
những người đã viết lẫn những người đã làm, cả phía bên này và phía bên
kia), lại dựa thêm vào những tài liệu mới được giải mật của Mỹ, cộng với
việc phỏng vấn nhiều nhân vật quan trọng đương thời, rồi sau đó tuyển
chọn, sắp xếp lại một cách có hệ thống những gì mà người viết hiểu rằng
người đọc ngày nay thực sự cần biết. Cũng xin nói rõ thêm rằng trong công việc sưu tầm này, có nhiều khi tác
giả không thể vượt qua được một khó khăn rất lớn là: Những nguồn số liệu
thống kê trong thời kỳ này có nhiều chỗ còn mâu thuẫn với nhau mà tác
giả không có đủ khả năng kiểm chứng. Ở những chỗ đó, tác giả xin ghi chú
rõ sự bất lực của mình, hy vọng các cơ quan hữu quan và các nhà nghiên
cứu lưu ý xác minh. Còn về hình ảnh minh họa, cũng do hoàn cảnh chiến
tranh, trong khi sưu tầm, tác giả không xác định được nguồn gốc của một
số ảnh, cũng xin mạnh dạn trình trước quý bạn đọc và mong nếu có ai phát
hiện được thì xin cho tác giả được biết. Còn về tên gọi, xin có đôi lời giải trình: Con đường trên bộ qua Trường
Sơn, gồm toàn bộ hệ thống đường vận tải bộ và sau đó là hệ thống đường
ống xăng dầu, đương nhiên đã được đặt tên từ lúc khai sinh 19-5-1959 là
“Đường Hồ Chí Minh”. Còn con đường trên biển thì thậm chí, như trong
sách này viết, nó đã ra đời ngay từ thời kháng chiến chống Pháp và đã
được những “con cá kình” đầu đàn thời đó đặt tên là “Đường Hồ Chí Minh
trên biển”. Còn con đường chuyển ngân thì ban đầu vốn cũng đi theo đường
mòn Hồ Chí Minh trên bộ, sau đó hai vị “cha đẻ” của sáng kiến chuyển
ngân là Mười Phi và Mai Hữu Ích gặp nhau ở Phnom Penh để quy định những
mật ước, cũng đã đặt tên cho nó là “Đường Hồ Chí Minh FM”, tức là Đường
Hồ Chí Minh theo phương pháp mới. Riêng con đường bí mật trên không thì
quả chưa thấy ai đặt tên cho nó là gì. Nhưng xét về tính chất, về chức
năng và tác dụng, nó đều giống như các con đường kia: Đều là vận chuyển
người, vận chuyển tiền một cách bí mật để chi viện cho miền Nam. Tác giả
thấy nó hoàn toàn đáng được xếp vào hệ thống chung của các con đường mòn
mang tên Hồ Chí Minh, nên nhân đây xin mạn phép thỉnh vấn các nhà nghiên
cứu cùng đông đảo bạn đọc. Tác giả xin chân thành cảm ơn tất cả các vị lão thành đã từng là người
trong cuộc (mà tên tuổi đã chú thích trong sách) đã vui lòng cho gặp,
cho hỏi, cho tư liệu, cho ảnh, để nhờ đó có được nội dung chính của cuốn
sách này. Tác giả xin cảm ơn Gs. Đỗ Hoài Nam và Ban lãnh đạo Viện Kinh tế Việt Nam
đã chấp nhận công trình này trong khuôn khổ một đề tài khoa học của Viện
Kinh tế Việt Nam và tạo những điều kiện tối ưu cho việc thực hiện nó. Tác giả xin cảm ơn các sử gia Ngô Vĩnh Long, Nguyễn Kỳ Phong là những
người nhiều năm sống ở Mỹ, biết rất nhiều về lịch sử cuộc chiến tranh
Việt Nam, đã giúp tác giả không những về tư liệu, mà về cả cách hiểu
những tình tiết lịch sử liên quan đến phía Mỹ. Tác giả cũng không thể nào quên nhắc đến tên và gửi vào đây lời cảm ơn
tới các bạn cộng sự trẻ đã hết lòng cộng tác và cộng tác một cách đầy
hào hứng trong công việc tìm tư liệu, biên soạn và hoàn tất một bản thảo
“khó tính” như bản thảo cuốn sách này: Ngô Huyền Minh, Cao Tuấn Phong,
Vũ Ngọc Quyên, Trịnh Thị Hải Yến, Thùy Dương, Phạm Văn Hiếu... thuộc
Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội.
MỤC LỤC
Lời giới thiệu - Ngô Vĩnh Long Lời tác giả - Đặng Phong Nhập đề: NHỮNG GIAI ĐOẠN “TIỀN SỬ” 1. Thời trước Cách mạng 2. Từ sau Cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp 3. Tình hình từ sau Hiệp định Genève Chương 1. ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN 1. Từ tự phát “xoi” đường... 2. ...Đến chính thức mở đường 3. Từ một tuyến thành một hệ thống, từ gùi thồ đến cơ giới 4. Sức mạnh, quyết tâm và sự đánh phá của Mỹ 5. Đấu trí và đọ sức 6. Nhiều hệ thống trong một hệ thống 7. Quyết toán và ghi nhận Chương 2. ĐƯỜNG ỐNG XĂNG DẦU 1. Ý tưởng 2. Thực hiện 3. Kết quả Chương 3. ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN 1. Thăm dò và xác định phương án 2. Đóng tàu và tổ chức đoàn đi 3. Hai bộ phận phục vụ bí mật từ xa 4. Tổ chức những bến bãi tiếp nhận 5. Tổ chức hệ thống kho tàng 6. Phân phối - một đội quân khổng lồ nhưng “vô hình” 7. Những hàng rào của đối phương 8. Giai đoạn đầu suôn sẻ (1962-1965) 9. Giai đoạn “lừa miếng” - đi bằng phương pháp hàng hải thiên văn
(1965-1968) 10. Chuyển sang phương án vận chuyển gián tiếp (thời kỳ 1968-1969) 11. Tiếp tục phương án vận chuyển trực tiếp (thời kỳ 1969-1972) 12. Chuyển sang phương thức hoạt động công khai 13. Kết quả, ý nghĩa Chương 4. VẬN CHUYỂN QUÁ CẢNH 1. Vận chuyển qua cảng Sihanoukville 2. Quá cảnh không qua cảng Sihanoukville 3. Quá cảnh trên đường hàng không Chương 5. BINH CHỦNG TIỀN VÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG CHUYỂN NGÂN 1. Thời kỳ trước khi ra đời “Quỹ Ngoại tệ đặc biệt” 2. “Quỹ Ngoại tệ đặc biệt” - B.29 3. Phương thức “AM” 4. Phương pháp mới FM 5. Tiếp nhận và phân phối 6. Quyết toán 10 năm Thay cho lời kết Tài liệu tham khảo Biên niên tóm tắt 1955-1975 Bảng chỉ mục Tổng phát hành : Nhà xuất bản Trí Thức
|