Những bài cùng tác giả
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
|
Tề Bạch
Thạch
(1863-1957) |
Ngày 23
tháng 11 năm
1863 (tức
năm Đồng Trị
thứ hai, đời
Thanh) tại
ngôi làng
Tinh Đẩu,
huyện Tương
Đàm, tỉnh Hồ
Nam Trung
Quốc, một bé
trai đã chào
đời trong
một gia đình
nông dân
nghèo. Gia
đình này bấy
giờ đã có
bốn người,
gia chủ là
ông Tề Quán
Chánh (25
tuổi) và bà
Chu (19
tuổi) cùng
với song
thân của gia
chủ (56 tuổi
và 51 tuổi.)
Người thành
viên thứ 5
bé nhỏ trong
gia đình này
là niềm hạnh
phúc biết
bao cho gia
đình gồm bố
mẹ và ông bà
nội. Tiếc
thay,
cậu bé thật
yếu ớt, bệnh
hoạn, thiếu
ăn, tưởng
chừng không
sống quá 4
tuổi. Nhưng
rồi cậu cũng
giành được
sinh mệnh
của mình
trên tay tử
thần. Đó là
cuộc tranh
đấu thứ nhất
trong đời,
mở đầu cho
biết bao
cuộc tranh
đấu khác sau
này, cuộc
đấu tranh
cho đời sống
tinh thần
đầy ý nghĩa
mãi đến phút
lìa trần,
16-9-1957.
Tề Bạch
Thạch
齊白石
tên thực là
Tề Thuần
Chi, tự là
Vị Thanh,
biệt hiệu
Lan Đình.
Năm 27 tuổi
học vẽ, được
thầy là Hồ
Thâm Viên
đặt tên cho
là Hoàng
(nghĩa là
ngọc hình
bán nguyệt),
tự là Tần
Sinh, hiệu
là Bạch
Thạch.
Ông còn vô
số tên hiệu
khác, chẳng
kém gì hai
đại danh họa
Nghê Vân Lâm
(đời Nguyên)
và Thạch Đào
Hòa Thượng
(đầu đời
Thanh.) Đại
khái có thể
kể như: Tề
Đại, A Chi,
A Trường,
Mộc Nhân,
Lão Mộc, Lão
Mộc Nhất,
Mộc Cư Sĩ,
Ký Viên, Ký
Bình, Lão
Bình, Bình
Ông, Ký Bình
Đường Lão
Nhân, Bạch
Thạch Sơn
Ông, Bạch
Thạch Lão
Nhân, Tá Sơn
Ngâm Quán
Chủ Giả,
Tinh Đường
Lão Ốc Hậu
Nhân, Hạnh
Tử Ô Lão
Dân, Tam
Bách Thạch
Ấn Phú
Ông...
Tề
Bạch Thạch
đã trải một
tuổi thơ
gian khổ như
biết bao cậu
bé khác chốn
quê nghèo.
Năm lên 8,
cậu theo học
ông ngoại,
một ông đồ
nghèo với
dăm quyển
Tam tự kinh,
Bách gia
tính, Thiên
gia thi và
Luận ngữ.
Cậu nổi
tiếng ngay,
nhưng chẳng
phải vì tài
văn chương
thi phú, mà
vì tài năng
hội họa.
Năng khiếu
hội họa của
cậu đã bộc
phát. Những
hình ảnh,
những đường
nét ngẫu
hứng vẽ ngư
ông, điểu
thú, thảo
trùng... tuy
còn non nớt
nhưng cho
thấy nhiều
triển vọng
sau này.
Nhưng cái
thời gian
hồn nhiên
với sách vở
và vẽ vời
như thế
chẳng được
lâu là bao.
Mùa thu
1870, cảnh
nhà sa sút,
cậu bèn bỏ
học, ở nhà
phụ cha mẹ
những việc
như gánh
nước, trồng
rau, bổ củi,
chăn trâu...
Một năm học
nơi ông
ngoại, tuy
ngắn ngủi,
nhưng chính
là những
ngày tháng
hạnh phúc
nhất trong
tuổi thơ của
cậu. Cậu bé
vừa lên 9
thuở ấy đã
sớm hiểu thế
nào là kiếp
nghèo, là số
phận con nhà
nghèo. Niềm
ao ước đơn
sơ của cậu
là mỗi ngày
được xong
việc sớm để
xem lại
những trang
sách cũ, để
hồi tưởng
lại những
lúc vui đùa
cùng với
chúng bạn và
để rồi mơ
ước, ước
mơ...
Theo cổ tục
tảo hôn, cậu
bé 12 tuổi
này phải
sánh duyên
cùng cô bé
Trần Xuân
Quân, lớn
hơn cậu một
tuổi. Năm ấy
cũng là năm
ông nội cậu
tạ thế. Gia
cảnh càng
ngày càng
suy sụp, năm
13 tuổi cậu
bắt đầu chân
lấm tay bùn
với việc
đồng áng.
Nhưng rồi vì
thể lực yếu
ớt, sau hai
năm, cậu
xoay qua học
nghề thợ mộc
nơi ông Tề
Tiên Hựu, em
ruột của ông
nội cậu. Rồi
công việc
vất vả lao
nhọc của
nghề mộc cậu
cũng không
kham nổi,
nên đeo đuổi
được một năm
cậu xoay qua
học nghề
chạm trổ gỗ
nơi ông Chu
Tử Mỹ. Sau 3
năm, thành
nghề, cậu đủ
khả năng
gánh vác
kinh tế gia
đình. Năm ấy
cậu 19 tuổi
và bắt đầu
làm lễ động
phòng với
vợ, cô Trần
Xuân Quân,
lễ này gọi
là «Lễ Viên
Phòng».
Chàng thợ
chạm gỗ họ
Tề dần dần
được làng
trên xóm
dưới biết
danh, họ gọi
chàng là
«Chi mộc
tượng» (Thợ
mộc tên
Chi). Tề
Bạch Thạch
thể chất nhu
nhược, nhưng
thông minh
đĩnh ngộ.
Ông không mô
phỏng những
mẫu mã có
sẵn. Những
hình chạm gỗ
kỳ lân,
long, phụng,
trạng nguyên
vinh qui,
hoa lá... đã
được ông
thông minh
khéo léo cải
biên, thay
đổi, thêm
đẹp mắt,
khiến khách
hàng phải
trầm trồ
khen ngợi.
Một hôm, tại
nhà một thân
chủ nọ, ông
tình cờ thấy
quyển Giới
Tử Viên Họa
Phổ – một bí
kíp của
người học
vẽ. Ông bàng
hoàng sửng
sốt rụng
rời, và cuốn
sách danh
tiếng này đã
thay đổi
cuộc đời của
chàng thanh
niên họ Tề
từ đó. Ông
mượn về và
say sưa
nghiền ngẫm.
Phần họa
luận và họa
pháp cùng
với những
hình ảnh
trong họa
phổ đã khai
tâm cho ông
những qui
tắc hội họa.
Từ đó, ông
áp dụng
chúng vào
nghề chạm
gỗ, thế là
tài nghệ đã
tinh xảo lại
càng tinh
xảo hơn. Năm
đó ông 20
tuổi. Cuộc
sống gia
đình bắt đầu
khá giả hơn,
gia đình
đông vui
hơn. Bấy giờ
toàn gia
đình có 14
người, riêng
anh em ông
có cả thảy 9
người: 6
trai, 3 gái.
Danh tiếng
của «Thợ mộc
Chi» đã lẫy
lừng, vượt
qua mấy
nương dâu,
ruộng lúa,
vươn qua mấy
lũy tre xanh
lan đến
những thôn
làng xa xôi.
Có người tin
cậy đến nỗi
đặt ông vẽ
tranh. Ông
không dám
nhận lời,
nhưng điều
này gợi ý
cho ông bước
vào lĩnh vực
hội họa.
Ông bắt đầu
học vẽ tranh
chân dung và
bồi tranh
nơi ông Tiêu
Hương Cai.
Năm ông 27
tuổi, một
người đồng
hương của
ông tên là
Hồ Thâm Viên
– một họa sĩ
chuyên về
công bút vẽ
hoa điểu
thảo trùng –
đã nhận ông
làm đệ tử,
đồng thời
khuyên ông
nên vẽ và
bán tranh
mưu sinh.
Ông Hồ Thâm
Viên mời
thêm danh sĩ
Trần Thiếu
Phồn về dạy
cho Tề văn
chương thi
phú. Ông Hồ
Thâm Viên
đặt tên cho
Tề là Hoàng,
tự là Tần
Sinh.
Vì gia đình
ông ở gần
phố Bạch
Thạch nên
ông lấy tên
là Tề Bạch
Thạch và
Bạch Thạch
Sơn Nhân...
Dưới sự dạy
dỗ tận tụy
của hai
lương sư Hồ
và Trần –
một hội họa,
một thi phú
– Tề Bạch
Thạch tiến
bộ rất
nhanh. Rồi
ông thầy họ
Hồ lại nhiệt
thành giới
thiệu đệ tử
ruột của
mình theo
học vẽ sơn
thủy nơi một
người bạn
của thầy
nữa. Thế là
sau một thời
gian khổ
luyện, Tề
Bạch Thạch
bắt đầu sống
bằng nghề vẽ
và bán
tranh, năm
đó ông 30
tuổi. Ngoài
các tranh
thờ, ông còn
vẽ phong
cảnh (tranh
sơn thủy),
hoa điểu,
nhân vật...
ông vẽ thiếu
nữ rất đẹp
cho nên thiếu
nữ trong
tranh được
người đời
mệnh danh là
«Tề Mỹ Nhân»
(Người đẹp
họ Tề.)
Ngoài việc
vẽ tranh,
ông còn ngâm
thơ vịnh phú
với mặc
khách tao
nhân. Ông
cùng 6 người
bạn thành
lập Long Sơn
Thi Xã, và
xưng nhóm là
«Long Sơn
Thất Tử»
(Bảy Thi
Nhân của
Long Sơn Thi
Xã). Năm 33
tuổi ông lập
thêm nhóm La
Sơn Thi Xã,
tạo thêm dịp
ngâm vịnh
với bạn bè.
Đến năm 34
tuổi, ông
bắt đầu học
thư pháp
(viết chữ
đẹp), đặc
biệt chuyên
tập luyện
kiểu chữ Lệ
và chữ
Triện, đồng
thời quyết
tâm học nghề
khắc ấn
triện.
Tên
tuổi Tề Bạch
Thạch đã
vượt qua các
thôn làng và
lan đến
huyện Tương
Đàm. Một
người trên
huyện mời
ông đến nhà
để vẽ tranh.
Thế là năm
35 tuổi, ông
mới có dịp
đi xa, từ
Tương Đàm,
rồi tiếp đó
là Trường
Sa, Nam
Nhạc... Nhờ
du lịch
nhiều, ông
kết giao
được nhiều
danh sĩ,
nhiều bậc
quyền thế
như Vương
Tương Y, Đàm
Diên Hạp,
anh em Trạch
Khải và
Vương Tương
Y. Họ cực kỳ
ái mộ Tề,
hết lòng ca
ngợi Tề bất
cứ đâu có
dịp, thành
thử danh
tiếng ông
càng lan xa
và địa vị xã
hội càng
được nâng
cao thêm.
Năm 43 tuổi,
ông nhận ra
rằng không
thể nào cứ
sao chép cổ
nhân mãi, từ
đường nét
đến ý tứ.
Thế là ông
bỏ lối công
bút (tức là
lối vẽ công
phu tỉ mỉ)
mà theo lối
ý bút (lối
vẽ phóng
khoáng, tả
ý) đồng thời
quyết định
phải du lãm
thật nhiều
để tìm ý tứ
mà sáng tác
cũng như để
làm giàu
kinh nghiệm
sống. Đúng
lúc đó, một
vị quan họ
là Hạ mời
ông đến Tây
An làm gia
sư. Thế là
ông rời Hồ
Nam đi Thiểm
Tây. Tại Tây
An, ông kết
giao với đại
thi nhân
Phàn Phàn
Sơn được
chừng 3
tháng, vì
quan họ Hạ
phải thuyên
chuyển về
Bắc Kinh, Tề
Bạch Thạch
cũng đi
theo, tiếp
tục làm gia
sư cho họ
Hạ.
Trên đường
về Kinh đô,
phong
cảnh núi non
sông nước
hùng vĩ và
hữu tình đã
khơi nguồn
sáng tạo đầy
hứng khởi
say mê cho
ông. Tại Bắc
Kinh, vị
quan họ Hạ
và đại nho
Phàn Phàn
Sơn hết lòng
tiến cử ông
vào làm họa
sư của triều
đình. Nhưng
ông từ chối,
cam chịu đạm
bạc, không
thích quan
tước, bèn
quay về cố
hương là Hồ
Nam.
Bước phiêu
lãng của Tề
Bạch Thạch
từng qua Hoa
Sơn, Tây
Nhạc, Trung
Sơn, Tung
Sơn, Lư Sơn,
Nam Xương,
Quảng Đông,
Quảng Tây,
Quảng Châu,
Quế Lâm, Nam
Kinh, Tô
Châu, Giang
Tây, Thiểm
Tây, Giang
Tô, Chiết
Giang,
Thượng Hải,
Hương
Cảng... Năm
1907, ông
sang Việt
Nam, và ghi
lại sông núi
hoa gấm của
nước Nam qua
tác phẩm Lục
Thiên Quá
Khách. Năm
45-46 tuổi
ông sống tại
Quảng Châu,
mưu sinh
bằng nghề
khắc triện.
Tại đây ông
hân hạnh kết
giao với các
danh họa gia
Bát Đại Sơn
Nhân, Từ
Thanh Đằng,
Kim Đông Tâm
... Sau 5
năm giang hồ
phiêu lãng,
từ năm 43
đến 48 tuổi,
ông về quê
cũ, chuyên
rèn luyện cổ
văn, thi từ,
đồng thời soạn
lại những
bút ký và
họa cảo qua
các cuộc
viễn du,
viết thành
tác phẩm Tá
Sơn Đồ Quyển
gồm 52 bức
họa và 24
bức chuyên
vẽ đá.
Sau cuộc
cách mạng
Tân Hợi
(1911) ông
cư gia bất
xuất, tự tay
trồng cây,
hoa kiểng,
và nuôi cá
quanh nhà.
Tháng 5 năm
1914, ông
mang một cái
tang đau đớn
nhất: vị ân
sư của ông
là họa gia
Hồ Thâm Viên
lìa trần.
Tình nghĩa
sư đệ sâu
dày như non
cao bể thẳm,
Tề Bạch
Thạch nuốt
lệ ngậm
ngùi. Trong
giây phút
sinh ly tử
biệt não nề,
ông chọn 20
họa phẩm đắc
ý của ông –
cũng là
những tác
phẩm mà thầy
từng khen
ngợi – đem
đốt trước
linh sàng,
mượn làn
hương bay
khói tỏa
minh chứng
lòng tri ân
thành kính
bậc tôn sư
đã nhiệt tâm
giáo huấn
tài bồi.
Năm 1917,
tức năm Dân
Quốc thứ 6,
giặc giã
loạn lạc nổi
lên. Ông đơn
thân đi Bắc
Kinh. Nhân
dịp này ông
kết giao với
những danh
họa gia như
Trần Sư
Tăng, Trần
Bán Đinh,
Vương Mộng
Bạch, Dao
Mang Phu.
Lúc trở về
quê, đau
lòng trước
cảnh quê
hương điêu
linh, cửa
nhà bị thổ
phỉ cướp
sạch, ông di
tản gia đình
về chân núi
Từ Kinh Sơn.
Bấy giờ cha
ông 81 tuổi,
mẹ ông 75
tuổi. Nhưng
ông chẳng ở
chung với
gia đình
lâu, được
vài tháng
lại lên
đường về Bắc
Kinh. Năm
sau vợ ông
cũng theo về
Bắc Kinh và
chủ trương
lấy vợ lẽ
cho ông. Cô
vợ lẽ mới 18
tuổi, tên Hồ
Bảo Châu,
người huyện
Phong Đô
tỉnh Tứ
Xuyên, lúc
đó Tề Bạch
Thạch đã 57
tuổi.
Năm 58 tuổi,
ông kết giao
với Từ Bi
Hồng, Lâm
Cầm Nam, Mai
Lan
Phương...
Nhân dịp
này, vâng
lời khuyên
của Trần Sư
Tăng, ông
cải biến họa
pháp và tự
sáng chế lối
vẽ «Hồng Hoa
Mặc Diệp»
(Hoa đỏ, lá
đen) rất độc
đáo.
Hai năm sau,
1922, ông
lại vâng lời
Trần Sư
Tăng, cùng
với họ Trần
đi Paris
tham gia
cuộc triển
lãm tranh.
Trở về cố
quốc, ông
viết hồi ký
«Tam Bách
Thạch Ấn Tề
Ký Sự» (Ký
sự của gã họ
Tề, biệt
hiệu Tam
Bách Thạch
Ấn.) Cũng
chính năm đó
người bạn
tri kỷ của
ông là Trần
Sư Tăng qua
đời. Quả là
một tổn thất
lớn lao.
Trong đời
ông, chỉ có
Từ Bi Hồng
và Trần Sư
Tăng là kẻ
tri kỷ, thân
thiết tâm
giao. Đó là
hai cố vấn
tối cao
trong đời
ông, nay mất
một làm sao
không đớn
đau đứt
ruột.
Hai năm sau,
1924, ông bị
bệnh thập tử
nhất sinh,
mê man 7
ngày 7 đêm.
Nhưng một
lần nữa, ông
lại giành
được sinh
mệnh của
mình trên
tay tử thần.
Rồi năm sau,
ông trở về
quê cũ viếng
thăm cha mẹ
để rồi chẳng
bao lâu
chứng kiến
đấng sinh
thành ra đi
trong cùng
một năm
(1926): mẹ
chết hồi
tháng 3, thọ
82 tuổi, đến
tháng 7 thì
cha cũng ra
đi, thọ 88
tuổi.
Đến năm 1927
thì danh
tiếng Tề
Bạch Thạch
lẫy lừng
chốn đế đô.
Ông được mời
giảng dạy
tại Quốc Lập
Bắc Kinh
Nghệ Thuật
Chuyên Môn
Học Hiệu
(năm 1928,
trường đổi
tên là Mỹ
Thuật Học
Viện.) Nhân
dịp này ông
xuất bản «Tá
Sơn Ngâm
Quán Thi Cảo
Ấn Phổ». Tề
Bạch Thạch
nổi tiếng
không kém
đại danh họa
tiền bối là
Ngô Xương
Thạc, bấy
giờ người
đời xưng
tụng câu
«Nam Ngô Bắc
Tề» (phương
Nam có Ngô
Xương Thạc,
phương Bắc
có Tề Bạch
Thạch) đủ
thấy thanh
thế của ông
uy chấn
giang hồ thế
nào. Nhưng
họ Ngô tạ
thế trong
năm 1927
này, thọ 84
tuổi. Thành
thử chỉ còn
«Bắc Tề»,
bấy giờ 65
tuổi, lừng
lẫy một
phương.
Nhưng
đó chỉ là
cái thế giới
hội họa,
nhìn ra xã
hội, Trung
Quốc đang
phân loạn
điêu linh do
ảnh hưởng
của Đại
Chiến Thế
Giới thứ
nhất
(1914-1918),
thực dân Tây
phương nhiễu
nhương xâm
lấn, chiến
tranh
Quốc-Cộng,
Nhật Bản xâm
lược... Nhân
dân lầm than
trước cảnh
thù trong
giặc ngoài,
bọn Hán gian
đầy rẫy,
chánh ngụy
bất phân.
Thành thử
quá ngao
ngán chán
chường, ông
đóng cửa tạ
khách, lúc
đó 70 tuổi
(1932).
Năm 1933,
Hoa Bắc rơi
vào tay bọn
quân phiệt
Nhật, nhân
dân đã lầm
than lại
thêm lầm
than, đã
thống khổ
lại càng
thống khổ.
Tề Bạch
Thạch bỏ dạy
học hẳn, bế
môn bất
xuất, chỉ
ngâm thơ vẽ
tranh, khắc
ấn triện, cự
tuyệt bán
tranh. Để
tránh sự dòm
ngó theo dõi
của giặc
Nhật Bản và
bọn Hán
gian, ông
treo trước
cửa nhà mấy
chữ «Bạch
Thạch Lão
Nhân tâm
bệnh phục
phát, đình
chỉ kiến
khách» (Tâm
bệnh của Tề
Bạch Thạch
tái phát,
miễn tiếp
khách) và
bốn chữ
«Đình chỉ
mại họa»
(Ngưng bán
tranh).
Trong lúc
đất nước
điêu linh,
nhân tâm
điên đảo, và
tự lượng sức
già nhu
nhược, ông
đành chọn
thái độ bất
hợp tác, vừa
giữ được
tiết tháo kẻ
sĩ phu vừa
ngầm tỏ tinh
thần phản
kháng. Nhưng
bọn sĩ quan
Nhật và bọn
tay sai biết
danh tiếng
ông, vẫn ghé
luôn, vừa
mua tranh
vừa mua
chuộc. Ông
thẳng thắn
từ khước.
Năm ấy ông
75 tuổi
(1937). Ở
đây tưởng
cũng nên
nhắc một chi
tiết mà các
nhà nghiên
cứu mỹ thuật
Trung Quốc
thường sơ ý,
chẳng hạn
báo ảnh Liên
Xô số 9 năm
1984, bài
của tác giả
L. Smôticôva
viết rằng:
Tề Bạch
Thạch
(1860-1957).
Thật sự, ông
sinh năm
1863, đến
năm 1937
(Dân Quốc
thứ 26) do
tin tưởng số
mệnh, ông
tăng hai
tuổi, tức là
77 tuổi.
Tính đến năm
ông mất
1957, hưởng
thọ 97 tuổi
(thực tế là
95 tuổi). Vì
không rõ chi
tiết này nên
tác giả L.
Smôticôva đã
tính ngược
lên và viết
năm sinh của
ông là 1860.
Ngày
14-8 năm Ất
Dậu (1945)
quân
Nhật đại
bại, Tề Bạch
Thạch sung
sướng đến
nỗi không
ngủ được,
ông liền mở
cửa bán
tranh và
khắc ấn
triện trở
lại. Năm ông
86 tuổi
(1946), ông
đi Nam Kinh
tổ chức
triển lãm.
Đợt triển
lãm này do
Trung Hoa
Toàn Quốc Mỹ
Thuật Hội đỡ
đầu. Toàn bộ
tranh của
ông đem
triển lãm
được chiếu
cố nhiệt
liệt và bán
sạch. Tiền
bạc và danh
vọng ở cái
tuổi gần đất
xa trời này
có làm ông
vui chăng?
Chúng ta
không rõ. Có
điều, cậu bé
èo uột thuở
nào chung
cuộc lại
trường thọ
và biết bao
lần bi
thương tống
biệt những
người thân
thiết nhất
của mình,
ông bà, bố
mẹ, con cái,
thê thiếp và
cả bằng hữu
văn thơ,
những trần
ai tri kỷ
nữa.
Năm lên 12,
ông nội mất.
Năm ông 39
tuổi, bà nội
qua đời. Năm
ông 51 tuổi,
cậu con trai
thứ mới 20
tuổi đã yểu
mệnh. Tiếp
ngay năm
sau, thêm
cái tang ân
sư Hồ Thâm
Viên. Năm
ông 54 tuổi,
lại vĩnh
biệt bạn tri
kỷ Vương
Tương Y. Rồi
năm ông 61
tuổi, thêm
một bạn trần
ai tri kỷ
nữa ra đi:
Họa gia Trần
Sư Tăng,
người mà Tề
Bạch Thạch
hết lòng yêu
mến thâm
giao cũng
như Từ Bi
Hồng. Nỗi
đau chưa
nguôi thì 3
năm sau ông
chịu luôn
hai cái tang
của mẹ rồi
đến cha. Hai
năm sau,
người em
trai thứ năm
cũng theo
bước phụ mẫu
mà đi. Hai
năm nữa,
người em
trai thứ hai
lại ra đi
nốt, lúc bấy
giờ ông 68
tuổi. Và
đúng một năm
sau, thi hữu
rất mực thân
thiết là
Phàn Phàn
Sơn qua đời.
Năm ông 77
tuổi, gánh
luôn cái
tang của thi
nhân Trần
Tam Vị, cha
của người
bạn thân là
Trần Sư
Tăng, rồi
năm sau ông
lại đau đớn
tiễn biệt
đứa con trai
thứ sáu đoản
mệnh mới có
5 tuổi. Năm
ông 80 tuổi,
con mất được
hai năm, nỗi
bi thống
chưa tan thì
phải khóc vợ
là Xuân Quân
qua đời. Rồi
đúng 3 năm
sau, kế thất
là Hồ Bảo
Châu cũng
lìa trần.
Năm ông 86
tuổi, cô con
gái mới 19
tuổi đã vội
theo mẹ về
nơi miên
viễn.
Bi thống
chập chùng
bi thống,
thương đau
nối tiếp
thương đau,
và ngày
16-9-1957,
Tề Bạch
Thạch đã ra
đi mãi mãi,
để lại nỗi
thương tiếc
ngậm ngùi
trong lòng
thân bằng
quyến thuộc
cũng như
người ái mộ
bốn phương.
Tề Bạch
Thạch là một
tấm gương
vươn lên từ
nghịch cảnh.
Ông có một
tuổi thơ vất
vả gian lao
chốn điền dã
nghèo nàn.
Thời gian
học tập của
cậu bé họ Tề
quá ngắn
ngủi, độ một
năm. Dù là
học nơi ông
ngoại, cậu
cũng không
có cơ hội
đeo đuổi
sách đèn,
bởi lẽ cảnh
nhà suy sụp
đã đẩy cậu
đến chỗ lam
lũ ruộng
đồng, gánh
nước, bổ
củi, chăn
trâu...
Nhưng tâm
hồn Tề Bạch
Thạch đã
phong phú
thêm, ông đã
biết thưởng
thức cái đẹp
lúc bình
minh hay
bóng xế
chiều hôm,
cảnh vật
thiên nhiên
bốn mùa thay
đổi, cảnh
nước chảy
hoa trôi,
cây cỏ thảo
trùng. Chính
sự tiếp cận
với thiên
nhiên trong
cảnh hòa âm
điền dã đã
giúp ông sớm
có nhận thức
khách quan
về cuộc sống
và thẩm mỹ
trước khi
bắt đầu vào
ngành hội
họa. Và
chính cái
cảnh ngộ
nghèo khó đã
giúp ông
thông cảm
sâu sắc với
đại chúng
bình dân.
Thành thử đề
tài trong
tranh ông
bao giờ cũng
gắn liền với
thiên nhiên,
với cuộc
sống của dân
quê, và toát
ra vẻ dung
dị mộc mạc
rất gần gũi
đời thường.
Tề Bạch
Thạch là tấm
gương hiếu
học. Ông
luôn học hỏi
ở bạn bè, ở
thầy, và ở
quần chúng
xung quanh.
Ông đã từng
phiêu lãng
giang hồ để
mở mang nhãn
kiến, từng
sao chép
tranh của
các danh gia
kim cổ như
Thạch Đào,
Bát Đại Sơn
Nhân, Từ Vị,
Kim Đông
Tâm, Ngô
Xương Thạc,
Trần Sư
Tăng, Từ Bi
Hồng... để
phân tích
lối vẽ của
các nhà danh
họa trên
đồng thời
biết thoát
ra khỏi
khuôn mẫu có
sẵn để độc
sáng một họa
pháp riêng.
Ông đã từng
trồng hoa cá
kiểng, từng
nuôi tôm
cua, v.v...
để nghiên
cứu mà tải
được tinh
thần của
thảo trùng
hoa điểu vào
trong tranh.
Tranh ông
đơn sơ mộc
mạc mà linh
động đầy sức
sống, đặc
biệt loại
tranh về
cua, tôm,
cá, v.v...
Nhờ ông
chuyên tâm
rèn luyện
nơi các đại
nho, danh
sĩ, cho nên
những tư
tưởng và đạo
đức truyền
thống Trung
Quốc đã góp
phần hình
thành nhân
cách ông,
giúp ông đủ
trí tuệ để
biện minh
phân biệt,
đủ lòng nhân
ái bao dung
với quần
chúng nhân
dân, đủ ý
chí quật
cường không
khuất phục
quyền uy vũ
bạo cường.
Khi đất nước
điêu linh ly
loạn, đủ tự
trọng để giữ
tiết tháo kẻ
sĩ trong
cảnh nguy
vong, đủ
khiêm nhường
lấy hư tâm
mà thỉnh
giáo mọi
người, đủ tự
tin để vượt
qua nghịch
cảnh và đủ
tự do để
thoát khỏi
những mô
thức, những
định kiến cũ
kỹ mà khai
phóng một
con đường
nghệ thuật
riêng, không
ảnh hưởng
bất cứ ai.
Nhờ
vậy, ông đã
cứu lấy môn
hội họa
truyền thống
ra khỏi biển
chết. Bởi lẽ
mấy ngàn năm
trôi qua,
người sau cứ
bắt chước cổ
nhân, từ bút
pháp đến ý
tưởng, thành
thử mọi đề
tài đều đã
quá cũ, mọi
ước lệ đều
quá sáo mòn.
Người họa sĩ
luôn lúng
túng tìm một
hướng sáng
tác riêng,
bởi tất tất
mọi thứ thì
cổ nhân đã
sáng tác quá
nhiều rồi,
không còn gì
mới lạ nữa.
Tề
Bạch Thạch
đã nhận ra
điều này, và
ông đã từ bỏ
lối công bút
nô lệ cổ
nhân đi để
chuyên lối ý
bút đầy sáng
tạo. Cái họa
pháp tả ý
của Tề Bạch
Thạch phần
nào gần gũi
với lối vẽ
của tranh
Thiền mà D.T
Suzuki gọi
là «bút pháp
một góc»
(one-corner
style), bút
pháp này
chừa một
khoảng trống
thoáng cho
tranh và rất
là
gợi ý. Tranh
ông vẽ như
đùa, nguệch
ngoạc dăm ba
nét, phóng
bút mấy dòng
thơ, nhưng
xem chữ viết
của ông đề
«Bạch Thạch
Lão Nhân,
80-90 tuổi»,
mới biết nét
bút nguệch
ngoạc ấy là
cả một quá
trình điêu
luyện mấy
mươi năm
trời. Dường
như ở cái
tuổi gần đất
xa trời hơn
thì con
người chất
phác hơn, đã
bỏ đi thói
hoa mỹ giả
dối chăng?
Những giác
ngộ nào về
cuộc sống,
về kiếp
người, đã
khiến ông từ
bỏ những
đường nét
cầu kỳ lòe
loẹt hoặc
khuôn sáo
giả dối, để
mà trực nhập
vào chân lý
vi diệu, đối
diện cuộc
đời?
Chính họa
pháp độc đáo
của Tề Bạch
Thạch làm
giới phê
bình mỹ
thuật ở Tây
phương phải
kinh ngạc.
L.
Smôticôva,
nhà phê bình
mỹ thuật của
Liên Xô, nơi
Báo Ảnh Liên
Xô (số
9-1984) nhận
định về Tề
Bạch Thạch
như sau:
«Sống giữa
hai thế kỷ,
khi nhiều
họa sĩ Trung
Quốc quay
sang nghệ
thuật Châu
Âu, Tề Bạch
Thạch đã
chọn những
người thợ
dân gian lão
luyện làm
thầy. Và kết
quả thật
ngược đời:
Không liên
quan tới một
khuynh hướng
hội họa mới
mẻ nào, thế
nhưng ông đã
trở thành
họa sĩ hiện
đại một cách
lạ kỳ, tên
tuổi của ông
đã trở thành
vốn quý của
nền văn hóa
thế giới.»
Một nhà phê
bình khác
thì bảo:
«Khi người
ta còn yêu
hòa bình,
mặt trời, và
vẻ đẹp của
thiên nhiên
thì nghệ
thuật của Tề
Bạch Thạch
còn cần cho
con người.»
Xin mượn lời
trên để kết
thúc bài
viết này.
●
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
|