Những bài cùng tác giả
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
HỘI HỌA CUNG
ĐÌNH
Chỉ có triều
đình
là có toàn
quyền và
nguồn tài
lực
để
bảo trợ nghệ
thuật cao
với qui mô
đáng
kể. Vua chúa
đã
quy tụ những
thư hoạ gia
tài giỏi
nhất nước về
phục vụ cho
họ, không
chỉ vì họ
yêu nghệ
thuật mà còn
là vì họ
muốn tuyên
truyền về
cái thiên
mệnh của họ
để
đối
phó với các
thế lực
chính trị
khác và công
chúng.
Cuối
đời
Đường
và suốt giai
đoạn
Ngũ
Đại
và Thập Quốc
phân rã ly
loạn trên 50
năm,
những truyền
thống hội
họa cung
đình
(tạo thành
Viện phái)
đã
được
bảo tồn tốt
nhất tại Nam
Kinh và Tứ
Xuyên với
các hoạ gia
chuyên về
hoa
điểu
và sơn thủy.
Sự
đỉnh
thịnh của
tranh hoa
điểu
trong thời
này
đã
được
ghi nhận
trong hai
tác phẩm
đời
Tống là
Mộng Khê Bút
Đàm
của Thẩm
Quát
(1086-1093)
và
Đồ
Hoạ
Kiến Văn
Chí
của Quách
Nhược Hư
(sống cuối
thế kỷ XI).
Tác phẩm
Đường
Triều Danh
Hoạ Lục
cho biết
đời
Đường
có trên 20
hoạ gia
chuyên về
hoa
điểu,
mà người nổi
bật nhất là
Biên Loan.
Cuối
đời
Đường
có hai hoạ
gia về hoa
điểu
trứ danh là
Điêu
Quang Dẫn và
Đằng
Xương Hựu.
Điêu
Quang Dẫn là
thầy của
Hoàng
Thuyên.
Trong cục
diện thập
quốc phân
loạn, Hoàng
Thuyên
(903-968) và
Từ Hi (mất
khoảng 975)
trở thành
hai cao thủ
về tranh hoa
điểu
với hai
trường phái
trái ngược
mà người
đời
gọi là «Từ
Hoàng nhị
thể»
(hai
phong cách
của Từ Hi và
Hoàng
Thuyên).
Hoàng Thuyên
là hoạ gia
cung
đình
(tức viện
phái) còn Từ
Hi là hoạ
gia thôn dã
bố y ở Giang
Nam. Quách
Nhược Hư
nói: «Hoàng
gia phú quý,
Từ Hi dã
dật.» Ý nói
tranh hoa
điểu
của Hoàng
Thuyên toát
vẻ sang
trọng, tranh
Từ Hi chuộng
vẻ mộc mạc
bình dị. Về
kỹ pháp,
Hoàng Thuyên
chuyên về
tả chân
(tả sinh)
hay công
bút còn
Từ Hi chuyên
về tả ý
hay ý bút.
Tranh của
Văn Trưng
Minh đời
Minh
Với công
bút, tranh
phải giống y
như thực.
Tác giả
trước tiên
phải dựng
hình bằng
những
đường
nét tinh tế
(gọi là
câu lặc)
làm
đường
viền của
đối
tượng (hoa,
lá, cành,
chim,
đá,
v.v...) sau
đó
mới tô màu
lên. Trái
lại, ý bút
là kỹ pháp
phóng
khoáng,
đối
tượng
được
thể hiện một
cách tượng
trưng, thí
dụ một nhánh
cây hay một
chiếc lá lan
lá trúc chỉ
vẽ bằng một
nét bút lướt
đi.
|
Tranh
của Thẩm
Chu
(1427-1509) |
Suốt nửa đầu
thế kỷ X,
tranh sơn
thủy có
chuyển biến
sâu sắc. Nổi
bật về sơn
thủy có hoạ
gia Quách Hi
(1000-1090).
Vua Tống Huy
Tông (cai
trị
1101-1125)
là một nhà
bảo trợ lớn
cho các hoạ
gia. Bản
thân nhà vua
cũng là một
thư hoạ gia
nổi tiếng.
Tranh hoa
điểu đời này
cũng noi
theo phong
cách của
Hoàng Thuyên
và Từ Hi đời
trước. Hoàng
Cư Thái (con
của Hoàng
Thuyên) rất
được vua
sủng ái và
được mời vào
Hàn Lâm Hoạ
Viện và do
đó phong
cách tả thực
(công bút)
chiếm ảnh
hưởng độc
tôn trong
viện phái
(hoạ phái
của cung
đình).
Tuy nhiên
trong các
đời
vua Tống sau
đó,
con cháu của
Từ Hi (như
Sùng Tự,
Sùng Huân,
Sùng Củ)
cũng
được
vua sủng ái.
Vì thế phong
cách của
viện phái là
sự dung hợp
của tả thực
và tả ý. Các
hoạ gia tiêu
biểu là Thôi
Bạch, Thôi
Cốc, Ngô
Nguyên Dũ,
Triệu Xương,
Dịch Nguyên
Cát.
Đời
Nam Tống,
Hàn Lâm Hoạ
Viện có các
hoạ gia danh
tiếng như Lý
An Trung, Lý
Địch,
Lâm Thung.
Hội hoạ
đời
Nguyên không
có gì
đặc
sắc, chẳng
qua là mô
phỏng
đời
Tống. Trong
đời
Minh, triều
đình
cũng bảo trợ
các hoạ gia.
Thời này nổi
bật ba hoạ
phái: Viện
phái (của
triều
đình),
Chiết phái,
và Ngô phái.
Đại
biểu của
Viện phái là
Đường
Dần, Cừu
Anh, Chu
Thần. Chiết
phái gồm các
hoạ gia quê
Chiết Giang
như Ngô Vĩ,
Trương Lộ,
Tưởng Tam
Tùng, Tạ
Thời Thần,
v.v... Ngô
phái tiêu
biểu là Thẩm
Chu, Văn
Trưng Minh,
Đổng
Kỳ Xương,
Vương Phất,
v.v... Khi
đời
Thanh
đạt
đỉnh
thịnh dưới
triều vua
Càn Long,
phong cách
Viện phái
càng trau
chuốt tỉ mỉ
do ảnh hưởng
thị hiếu của
nhà vua và
ảnh hưởng
phong cách
của các giáo
sĩ Tây
phương kiêm
hoạ sĩ, thí
dụ như
Giuseppe
Castiglione
(1688-1768).
NGHỆ THUẬT
CỦA GIỚI
VĂN
NHÂN
Cuối đời Nam
Tống, các
văn quan như
Tô Thức, Mễ
Phất (Mễ
Phế), và Lý
Công Lân đã
khởi sinh
một phong
cách hội họa
gọi là «văn
nhân hoạ»
– cũng gọi
«sĩ đại phu
hoạ»
(hội họa của
các văn
nhân, sĩ đại
phu) – tương
phản với
phong cách
chính thống
của viện
phái. Khi
người Mông
Cổ chiếm
Trung Quốc,
giới nho sĩ
Hán tộc bị
nhấn chìm
dưới đáy xã
hội. Các nho
sĩ văn nhân
thường thành
lập những
hội tương
tế. Trong
hoàn cảnh
đó, các tác
phẩm hội họa
được xem là
phương thức
để đền ơn
đáp nghĩa.
|
Tranh
của
Triệu
Mạnh Phủ
đời
Nguyên |
Trong hệ
thống giáo
dục Lục Nghệ
của Nho
giáo, các
nho sĩ cũng
thường phải
giỏi về thư
pháp. Do
đó văn
nhân hoạ
đã phản ánh
kỹ pháp của
thư pháp.
Theo Triệu
Mạnh Phủ –
một đại thư
hoạ gia đời
Nguyên thuộc
văn nhân hoạ
phái – những
nét cứng cỏi
của chữ
triện hoá
thân thành
những cành
cây, thân
cây; còn tám
nét cơ bản
của thư pháp
(tức vĩnh
tự bát pháp:
tám nét của
chữ vĩnh)
thì hoá thân
thành các lá
cây như lá
lan lá trúc.
Những nét
bút khô mực
tạo thành
dáng thô
nhám sần
sùi, thích
hợp vẽ đá.
Người thưởng
ngoạn sành điệu
có thể nhận
ra kỹ pháp
của thư gia
trong cách
vận bút của
hoạ gia.
Các hoạ gia
thuộc văn
nhân hoạ
phái chuộng
tranh đơn
sắc, thường
là màu mực
đen với
những mức độ
đậm nhạt của
mực. Những
tranh vẽ tứ
quân tử
(mai, lan,
cúc, trúc)
chỉ bằng mực
đen do đó
được gọi
tương ứng là
«mặc mai,
mặc lan, mặc
cúc, mặc
trúc». Tứ
đại hoạ gia
cuối đời
Nguyên (gọi
là Nguyên tứ
gia: Hoàng
Công Vọng,
Nghê Tán,
Vương Mông,
và Ngô Trấn)
đã phát
triển cao độ
nghệ thuật
tranh sơn
thủy theo
phong cách
văn nhân
hoạ. Nghê
Tán
(1301-1374)
là một
trường hợp
đặc biệt.
Ông quê ở Vô
Tích, gần
Đại Vận Hà
và Thái Hồ.
Ông làu
thông kinh
điển nho gia
và khổ công
nghiên tập
hội hoạ từ
tranh của
các hoạ gia
tiền bối
trong các bộ
sưu tập của
bạn bè khá
giả của ông.
Mùa xuân
1352, trong
bầu không
khí chính
trị, kinh
tế, và xã
hội bất ổn
của triều
đại Nguyên
đang sụp đổ,
ông buộc
phải rời quê
hương, rồi
sống trên
một chiếc
ghe lênh
đênh 20 năm
trên Thái
Hồ. Cuộc
sống phiêu
bạt ẩn dật
như một đạo
sĩ đó là
cách mà ông
chọn để bảo
vệ tiết tháo
và tránh sự
bức hại của
quan quân
triều
Nguyên. Các
hoạ gia đời
Minh và
Thanh hâm mộ
và khen ngợi
ông là «Nghê
cao sĩ». Ông
dụng bút
công phu
tinh tế mà
tranh toát
vẻ giản phác
tiêu sơ, chủ
yếu là tả
cảnh Thái
Hồ. Hoạ pháp
sơn thủy của
Nguyên tứ
gia ảnh
hưởng rất
lớn đến các
họa gia
thuộc văn
nhân phái
đời Minh
(như Thẩm
Chu, Văn
Trưng Minh,
Đổng Kỳ
Xương) và
đời Thanh
(như Tứ
Vương: Vương
Thời Mẫn,
Vương Giám,
Vương Huy,
và Vương
Nguyên Kỳ).
TỨ QUÂN TỬ
TRONG HỘI
HỌA
TRUNG
QUỐC
|
Trúc mai
: «Trúc
là quân
tử, mai
là giai
nhân.» –
tranh
của
Thạch
Đào đời
Thanh
|
Mai, lan,
trúc, cúc là
đề tài quen
thuộc trong
hội họa
Trung Quốc.
Bốn chủng
loại này đều
có tính cách
cao nhã. Mai
nở vào mùa
đông và
xuân, chịu
đựng lạnh
lẽo. Lan
kiều diễm
mảnh mai,
hương thơm
thâm trầm.
Trúc ngay
thẳng, vô
tâm, đầy
tiết tháo.
Cúc trải
sương giá mà
chẳng héo
hon, có ý
chí thách đố
thiên nhiên.
Thế nên các
văn nhân
Trung Quốc
ái mộ mà đặt
tên cho bốn
loại này là
Tứ quân tử.
Hơn hai ngàn
năm trước,
thi nhân
Khuất Nguyên
đã so sánh
hoa lan với
mỹ nhân
rằng: «Thu
lan hề thanh
thanh, lục
diệp hề tử
hanh. Mãn
đường hề mỹ
nhân, hốt
độc dữ dư hề
thả thành.»
(Thu lan ơi
mườn mượt,
cọng tía
cùng lá
xanh. Đầy
nhà toàn
người đẹp,
riêng với ta
đưa tình.)
Hoa cúc trác
việt siêu
phàm. Đào
Tiềm, thi
nhân đời
Tấn, từng
thốt rằng: «Thu
cúc hữu
giai sắc, ấp
lộ chuyết kỳ
anh, phiếm
thử vong ưu
vật, viễn
ngã di thế
tình.»
(Hoa cúc mùa
thu có sắc
đẹp, phơi lộ
nét anh tú,
khiến ta
quên tình
buồn, lánh
xa tình
đời.)
Đời
Tống có ẩn
sĩ Lâm Bô
yêu hoa mai
đến độ không
cần có vợ
con, chỉ
chuyên tâm
trồng hoa
mai và nuôi
hạc. Người
đời tặng cho
ông câu «mai
thê hạc tử»
(hoa mai
là vợ, chim
hạc là con).
|
Trúc -
tranh
của Từ
Vị đời
Minh |
Yêu trúc có
thể kể đến
Tô Thức. Ông
nói: «Ninh
khả thực vô
nhục, bất
khả cư vô
trúc.»
(Thà ăn
không có
thịt chứ
không thể ở
thiếu trúc).
Như vậy đủ
biết địa vị
của trúc
được đề cao
như thế nào
và các tao
nhân mặc
khách đều
xem trúc là
người bạn
đường không
thể thiếu
được.
Các họa gia
cũng có cảm
tình sâu đậm
với tứ quân
tử. Mai,
lan, trúc,
cúc và hội
họa Trung
Quốc quả có
cái duyên
không lìa.
Trải bao
tháng năm
lịch sử,
nhiều họa
gia hậu bối
đã cải tiến
họa pháp,
thể hiện
nhiều nét
tân kỳ bất
tận.
Chủ đề tứ
quân tử có
tự bao giờ
vẫn là vấn
đề còn tranh
cãi. Theo
quyển
Thập Quốc
Xuân Thu Ký
một vị tướng
quân của
triều Nam
Đường tên là
Quách Sùng
Thao khi
chinh phạt
nước Thục đã
bắt nhiều
người. Trong
số ấy có Lý
phu nhân bị
ông ép làm
vợ. Lý phu
nhân thường
u sầu ủ rũ,
thích ngồi
một mình
dưới trăng,
ngắm cành
trúc la đà.
Do xúc cảm,
bà dùng bút
và mực đen
vẽ nên
tranh. Người
ta cho rằng
mặc trúc
(trúc vẽ
bằng mực
đen) bắt đầu
từ dạo ấy.
Nhưng vị tất
mặc trúc bắt
đầu từ Lý
phu nhân.
Người ta
biết chắc
chắn tranh
hoa điểu bắt
nguồn từ đời
Đường vậy
thì bảo mặc
trúc có từ
Hậu Đường
cũng có thể
tin được.
Mai,
lan, trúc,
cúc bước vào
hội họa
chẳng qua vì
chúng hàm
hữu ý vị
tượng trưng
văn học,
tiêu biểu
đức hạnh của
người quân
tử. Đời Tống
có Văn Đồng,
Tô Thức nổi
tiếng về mặc
trúc, Thôi
Bạch với mặc
mai, Trịnh
Tư Hữu,
Triệu Mạnh
Kiên với mặc
lan, cho đến
Triệu Xương,
Hoàng Cư Bảo
với mặc cúc.
Tất cả nhưng
danh họa gia
này đã vun
xới một mảnh
đất, khai
phóng một
con đường
giúp cho hội
họa các
triều đại kế
tiếp được
phát triển
dễ dàng.
Vào đời
Nguyên mặc
trúc đã
thịnh hành
với các danh
gia như Cao
Phòng Sơn,
Lý Tức Trai,
Kha Cửu Tư,
Nghê Vân
Lâm, Ngô
Trọng Khuê,
Cố Định Chi,
Triệu Mạnh
Phủ, Quản
Trọng Cơ,
v.v... Đặc
biệt, Lý Tức
Trai đã thâm
nhập một
ngôi làng
trúc, nghiên
cứu mọi tư
thế của cây
trúc, viết
thành một
quyển sách
để đời gọi
là Trúc
Phổ.
Kha Cửu
Tư biên soạn
quyển Họa
Trúc Phổ
nghiên cứu
họa pháp về
trúc đời
Tống, có thể
xem là sách
gối đầu
giường cho
người sơ
học.
Đến đời
Minh, tranh
mai, lan,
trúc, cúc
cực thịnh,
danh họa gia
cũng nhiều
như Tống
Khắc, Vương
Phất, Hạ
Xưởng, Lỗ
Đắc Chi,
v.v... Nổi
tiếng nhất
là Hạ Xưởng.
Ông tự Trọng
Chiêu, bắt
đầu học vẽ
trúc và đá
nơi Vương
Phất. Về sau
ông tự cải
tiến lối vẽ
trúc: thân
trúc thẳng
tắp ngạo
nghễ, có sắc
khói sương,
chỗ đậm chỗ
nhạt chỗ xơ
xác cực kỳ
ảo diệu.
Thuở ấy có
câu ca: «Hạ
hương nhất
cá trúc, Tây
lương thập
đĩnh kim.»
(Một cành
trúc nơi quê
ông Hạ Xưởng
trị giá mười
nén vàng ở
Tây Lương).
|
Trúc –
tranh
của Ngô
Trấn đời
Nguyên |
Danh gia
tiêu biểu về
mặc mai có
Vương Miện
và Trần Hiến
Chương.Vương
Miện tự là
Nguyên
Chương vẽ
mai thướt
tha tiêu sái
nổi tiếng
đương thời.
Vương Miện
và Hạ Xưởng
là cặp danh
gia lừng
lẫy; một
người về
mai, một
người về
trúc.
Các họa gia
đời Thanh
vẫn tuân thủ
họa pháp đời
Minh. Nổi
tiếng là
Thạch Đào và
Bát Đại Sơn
Nhân, hai di
thần triều
Minh. Khi
Mãn Thanh
lật đổ nhà
Minh, Bát
Đại Sơn Nhân
giả điên giả
câm chạy
trốn vào núi
lánh nạn,
một thời làm
hòa thượng,
một thời làm
đạo sĩ. Bát
Đại Sơn Nhân
thuộc giòng
dõi hoàng
tộc, tên là
Chu Đáp. Bút
hiệu của ông
ngụ ý sâu
sắc: Sơn
Nhân có
nghĩa là
người ẩn dật
nơi sơn dã,
còn Bát Đại
八大
khi viết
thảo theo
hàng dọc,
chữ bát
八
thành hai
chấm đè lên
chữ đại
大,
chúng gần
giống chữ
tiếu
笑
(cười) hay
chữ khốc
哭
(khóc), bày
tỏ tâm trạng
dở khóc dở
cười. Ông
dùng hội họa
để tiêu sầu,
họa pháp chủ
về tả ý, đơn
sơ mạnh bạo
nhưng sống
động, chất
chứa nỗi
lòng u ẩn.
Họa pháp của
Thạch Đào và
Bát Đại sơn
nhân phóng
túng tiêu
sái không
tuân theo
những qui
tắc sẵn có,
nên có thể
đứng riêng
thành một
tân họa
phái. Ngoài
ra có thể kể
thêm một số
danh họa gia
đời Thanh
như Trịnh
Tiếp nổi
tiếng về lan
trúc, Lý
Phương Ưng,
Kim Nông,
Uông Sĩ Thận
nổi tiếng về
mặc mai. Các
họa gia cận
đại như
Triệu Huy
Thúc, Ngô
Xương Thạc,
Tề Bạch
Thạch sáng
tạo nhiều
nét tân kỳ
có thể gọi
là cao thủ
về mai, lan,
trúc, cúc.
Tứ quân tử
chiếm một vị
trí đặc biệt
trong hội
họa Trung
Quốc. Qua
từng thời
đại các danh
họa gia đã
góp phần
sáng tạo và
thể hiện tứ
quân tử thêm
tân kỳ. Ngày
nay các họa
gia Trung
Quốc đã mạnh
dạn thâu hóa
họa pháp Tây
phương. Môn
họa truyền
thống này sẽ
phát triển
như thế nào
vẫn còn là
vấn đề thú
vị mà người
ta chưa tiên
đoán được.●
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12] 12] |