
Vụ đắm con tầu
Méduse cách đây gần
2 thế kỷ là một sự kiện vô cùng thương tâm, bi thảm, khủng khiếp và rùng
rợn, hoàn toàn do tội của con người gây ra. Tội lỗi ấy có thể đã được
che đậy vĩnh viễn trong bóng tối nếu nó không bị phơi bầy ra giữa thanh
thiên bạch nhật bởi tác phẩm hội hoạ “Chiếc bè của chiến thuyền
Méduse” (Le Radeau de la Méduse/The Raft of the Medusa) của Théodore
Géricault – một bức tranh làm người xem kinh hãi, xôn xao bàn tán về sự
thật đằng sau nó, những kẻ chịu trách nhiệm bị nguyền rủa, sự phẫn nộ
bùng nổ thành một vụ “scandal” chấn động nước Pháp và thế giới, bộ mặt
thối nát của nhà nước đương thời lộ nguyên hình …
Sự thật ấy cũng
đánh động lương tâm mọi người để nhận ra rằng con người không bao giờ
được phép tự phụ về trình độ tiến hoá của mình: Khi bị dồn tới bước
đường cùng, bản năng hoang dã có nguy cơ trỗi dạy để huỷ hoại toàn bộ
thành tựu của tiến hoá, biến con người trở lại thành con vật!
Với tất cả những
hệ quả do nó tạo ra, bức tranh “Chiếc bè của chiến thuyền Méduse”
đã vượt ra khỏi ranh giới của hội hoạ để trở thành một trong những bài
học sâu sắc nhất về xã hội, chính trị, và đặc biệt, nó đã rung lên tiếng
chuông báo động về sự tha hoá trong đạo lý làm người của xã hội đương
thời. Dường như muốn tiếng chuông ấy đến tai mọi người trong thế giới
hiện đại nên trong năm 2008 vừa qua, Johnathan Miles đã cho ra mắt cuốn
“The Wreck of the Medusa” (Vụ đắm con tầu Méduse), kể lại toàn bộ chi
tiết vụ việc bắt đầu từ ngày 17-06-1816, khi hạm đội Pháp do chiếc
Méduse dẫn đầu, rầm rộ khởi hành đi Châu Phi
Cuộc khởi hành rầm rộ ngày 17-06-1816:
Năm 1819, khi hoạ
sĩ người Pháp Théodore Géricault lần đầu tiên trưng bầy tại Paris tác
phẩm “Chiếc bè của
chiến thuyền Méduse”, ông không thể tưởng tượng nổi phản ứng mà bức
tranh sẽ nhận được.
Người xem vừa khâm phục nghệ thuật bậc thầy vừa sợ hãi trước cảnh tượng
khủng khiếp bầy ra trước mắt họ. Bức tranh rất lớn, kích thước khoảng 5m
x 7m, mô tả một nhóm người tuyệt vọng cùng cực trên một chiếc bè đang
trôi nổi lênh đênh giữa biển khơi, bỗng thấy một con tầu xuất hiện nhỏ
xíu ở tít đằng xa phía chân trời, hy vọng đẩy họ lao về phía trước để
vẫy gọi cầu cứu, …
Có một sự thật bẩn thỉu
nhớp nhúa đằng sau bức tranh này, và mọi người được biết sự thật đó là
như thế nào. Chuyện xẩy ra 3 năm về trước, liên quan tới một bên là
những quan chức ích kỷ, độc ác, bất chấp sự sống của đồng loại, và một
bên là những người thấp cổ bé họng có số phận khốn khổ cùng cực, mụ mị
đến rồ dại, giết chóc và ăn thịt lẫn nhau như con vật. Khi những người
khốn khổ này hiện ra lù lù trong bức tranh, mọi người xôn xao bán tán về
câu chuyện rùng rợn của họ.
Chuyện bắt đầu tại
Paris năm 1816, tức một năm sau khi Napoléon bị quân Anh và đồng minh
đánh bại tại Waterloo. Để thể hiện sự ủng hộ đối với dòng họ Bourbon mới
được phục hồi ở Pháp, người Anh trao trả cho nước Pháp hải cảng Saint
Louis trên bờ biển Tây Phi thuộc Sénégal. Đây là một hải cảng thương mại
sống còn, một điểm dừng chân lý tưởng trên đường đi từ Châu Âu tới mũi
Hảo Vọng.
Để tiếp nhận
chủ quyền đối với hải cảng này, nhà nước mới của Pháp chuẩn bị
một hạm đội để đưa viên tổng toàn quyền mới Pháp tại Sénégal
cùng với một số quan chức và binh lính tới hải cảng đó. Thuyền
trưởng lãnh đạo hạm đội là Hugues Duroy De Chaumareys .
Mặc dù có cái tên nghe rất kêu, Duroy De Chaumareys không thích hợp chút
nào với chức vụ mới: Đã 53 tuổi nhưng ông ta vẫn ăn diện, bảnh bao chải
chuốt, khó tính, và đặc biệt là đã hơn 20 năm không hề ra biển, thậm
chí chưa bao giờ chỉ huy một con tầu. Thực ra trước đó ông ta chỉ là một
sĩ quan hải quan. Lý do chủ yếu để De Chaumareys được bổ nhiệm đơn giản
vì ông ta là một nhân vật bảo hoàng tuyệt đối trung thành. Từng là một
tử tước (vicomte), năm 1795 De Chaumareys đã gia nhập quân đội Anh để
chống lại cách mạng Pháp. Năm 1814, lúc Louis XVIII được đưa trở lại
ngai vàng cũng là lúc De Chaumareys xứng đáng được trả công. Hải quân là
một bộ phận sống còn của nhà nước, do đó Louis XVIII thấy cần phải “bảo
hoàng hoá” hải quân. Trong bối cảnh đó, De Chaumareys trở thành một lựa
chọn thích hợp, bất chấp tính kiêu căng tự phụ và sự thiếu hiểu biết về
hàng hải đến mức đáng lo ngại. Sự bổ nhiệm này làm yên lòng triều đình
bao nhiêu thì lại làm cho các sĩ quan cấp dưới của De Chaumareys thất
vọng bấy nhiêu. Những sĩ quan này phần lớn đã từng tham gia những chiến
dịch của Napoléon chống lại quân Anh, làm sao họ có thể kính nể một gã
bất tài chỉ huy mình? Quan hệ giữa họ với De Chaumareys trở nên căng
thẳng. Trung uý Des Touches nói: “De Chaumareys là một quý tộc, nhưng
suy nghĩ không được nghiêm túc cho lắm. Ông ta coi việc tôi phải làm tôi
tớ vâng lời ông ta là một điều tự nhiên. Tôi đã giải thích để ông ta
hiểu rằng chúng tôi không sai khi phục vụ tổ quốc trong giai đoạn ông ta
chạy ra nước ngoài. Thế là ông ta khó chịu rồi thay đổi thái độ cư xử
với tôi …”.
Cuối cùng, cái gì
đến phải đến:
Ngày 17-06-1816, dưới sự lãnh đạo của De Chaumareys , đoàn tầu hải quân của Pháp gồm 4 con tầu – chiến thuyền
Méduse, tầu chở hàng Loire, thuyền hai buồm Argus và
tầu hộ tống nhỏ Écho – khởi hành từ Rochefort, rầm rộ hướng tới
Saint Louis.
“Nữ
quỷ Méduse”
gặp con trai thần Zeus:
Bản thân De Chaumareys đi trên con tầu Méduse cùng với vợ chồng đại tá Julien-Désiré
Schmaltz, tổng toàn quyền Sénégal mới được bổ nhiệm, cùng nhiều nhân vật
“quyền quý” khác. Tổng số hành khách trên chiến thuyền là 400, bao gồm
đàn ông, đàn bà, trẻ em, trong đó có 160 thuỷ thủ.
Schmaltz là một sĩ
quan hống hách, thích làm cho mình trở thành quan trọng. Ông ta nhanh
chóng thuyết phục De Chaumareys nên đi theo lộ trình do ông ta vạch ra –
lộ trình ngắn nhất từ Pháp tới Sénégal. Điều này có nghĩa là sẽ dẫn cả
đoàn tầu đi qua những chặng nguy hiểm dọc theo bờ biển, nơi có những đụn
cát gần bờ, những bãi đá ngầm và rất nhiều mối nguy hiểm khác tiềm ẩn,
đặc biệt là dải đất ngầm Arguin nổi tiếng. Tóm lại, đó là một lộ trình
đi qua toàn những thứ có thể làm tiêu tan sự nghiệp của những nhà hàng
hải kinh nghiệm nhất. Kinh nghiệm thông thường là giương buồm tiến ra
ngoài khơi xa xôi của Đại Tây Dương rồi từ đó sẽ đi vào bờ khi cần
thiết. Nhưng Schmaltz, một người không biết gì về hàng hải và hay nạt nộ
người khác, không hề nghĩ tới một lộ trình đi đường vòng như thế. De
Chaumareys dốt nát không kém, nên răm rắp nghe theo Schmaltz. Đám thuỷ
thủ thấy lo sợ, nhưng không dám chống đối. Họ phải cố nén nhịn và buộc
phải chấp hành mệnh lệnh, mặc dù linh cảm rằng họ đang đi theo một lộ
trình cực kỳ điên rồ.
Chiếc Méduse
đi nhanh nhất, đến nỗi viên thuyền trưởng nhanh chóng mất liên lạc với
các chiếc Loire và Argus. Chiếc Echo cố gắng giữ
khoảng cách để dẫn đường cho chiếc Méduse, nhưng rồi cũng không
theo kịp. Đợi lúc trời tối, nó khôn ngoan đi vòng ra ngoài khơi để tránh
cái chết, trong khi chiếc Méduse vẫn tiếp tục đi theo con đường
riêng của mình.
Ngày 28-06, De
Chaumareys quen biết một người bạn mới trên tầu – ông bạn Richefort “quý
hoá”. Ông này tự giới thiệu bản thân mình là một một nhà thám hiểm Châu
Phi sành sõi, mặc dù kinh nghiệm thực tế hàng hải của ông ta còn ít hơn
chính De Chaumareys . Thực ra tay này mới ra tù ở Anh, nơi hắn đã phải đi
tù trong khoảng 10 năm trước đó, và lúc này đang là thành viên của một
hội từ thiện có ý định đi sâu vào nội địa Châu Phi. Thế là De Chaumareys
liền quay sang tin tưởng tay này về “kiến thức Châu Phi”, đến nỗi tuỳ
tiện giao cho tay này nhiệm vụ lái thuyền chính thức. Các thuỷ thủ cảm
thấy bị sỉ nhục nghiêm trọng. Không khí phản ứng bắt đầu lan tràn, ngay
cả phụ nữ cũng phải kêu ca. Nhưng trong khi các thuỷ thủ lắc đầu thì
viên thuyền trưởng và ông bạn “quý hoá” đã lái con tầu từ từ đi vào chỗ
nguy hiểm.
Ngày 02-07, số
phận của họ đã điểm. Những xoáy nước đục ngầu hai bên mạn thuyền thông
báo cho biết thuyền đang đi vào chỗ ngày càng nông. Hành khách tỏ ra
giận dữ. Bị đe doạ bởi một hành khách, Richefort cười thản nhiên rồi trả
lời xoa dịu: “Quý vị thân mến, chúng tôi biết việc chúng tôi làm. Xin
quý vị hãy chú tâm vào việc của quý vị và giữ yên lặng. Tôi đã hai lần
vượt qua dải đất ngầm Arguin. Tôi đã từng giương buồm tới Biển Đỏ và quý
vị sẽ thấy tôi không dễ bị dìm chết đuối đâu”. Lúc ấy Schmaltz vẫn đang
ra lệnh và quát tháo mọi người xung quanh, De Chaumareys thì chạy tới
bên cạnh những người không vâng lời và ra lệnh phải chấm dứt những lời
phàn nàn chê bai. Đó là lý do dẫn tới thảm hoạ.
Ngày 02-07 đã
chứng kiến dấu chấm hết của chiến thuyền Méduse. Vào lúc 11 giờ 30’
sáng, có những tiếng kêu thông báo con thuyền đã đi vào chỗ nước chỉ sâu
có 80 sải (1 sải bằng khoảng 1,82m). “Không có gì mà phải báo động!”, De
Chaumareys hét lên với các thuỷ thủ, rồi lại nhắc lại điều đó một lần
nữa với giọng to hơn để yên chí rằng tất cả các thuỷ thủ đều nghe rõ.
3 giờ 10’ chiều,
còn thuyền đã vào chỗ nước chỉ sâu có 6 sải và cứ thế càng lúc càng vào
chỗ nông hơn. 5 phút sau con tầu bỗng rùng mình nhô lên. Một va đập
mạnh, con tầu mắc phải dải đê ngầm Arguin, cách đất liền khoảng 60 dặm
(khoảng 110km). Theo các nhân chứng kể lại, một biến dạng hiện lên trên
khuôn mặt của De Chaumareys và Richefort, “một nỗi lo lắng bồn chồn rõ
rệt, mặt mũi nhăn nhó”.
“Sáng
kiến” vô lương tâm:
Vài giây sau,
Richefort trở thành đối tượng của một làn sóng chỉ trích dâng lên, chỉ
chút nữa là biến thành một cuộc tấn công. Viên thuyền trưởng câm lặng
không nói một lời. Tổng toàn quyền Schmaltz và gia đình ông ta nhìn chằm
chằm vào viên thuyền trưởng, mặt lạnh như tiền với vẻ kiêu căng mà đám
nhà giầu thường có, ra điều sẽ có ai đó phải lo liệu phục vụ ông ta và
gia đình ông ta chu đáo, sao cho mọi việc sẽ phải đâu ra đấy.
Tình thế lúc ấy
thật nan giải, con tầu tuy không bị vỡ, chỉ mắc kẹt, nhưng rất khó để
kéo nó ra khỏi dải đất ngầm, vì thuỷ triều khá cao. Với nỗ lực làm cho
tầu nổi lên để kéo ra, đám thuỷ thủ bắt đầu ném bớt đồ vật ra khỏi con
tầu, nhưng một lần nữa De Chaumareys lại quyết định trái ngược: Ông ta
ra lệnh ngừng ném đồ, vì sợ cấp trên ở nhà sẽ khiển trách việc quăng bỏ
những chiếc đại bác quý giá. Thế là con tầu tiếp tục từ từ chìm xuống
tới những mực nước nhơ bẩn mà nó có thể chìm.
Sau một lúc đi đi
lại lại lo lắng lẩm bẩm gì đó, De Chaumareys quyết định rời bỏ con tầu.
Ông ta tập hợp những người “tin cẩn” để thảo luận phương án cấp cứu, tất
nhiên thuỷ thủ không được mời tham dự.
De Chaumareys nêu
khó khăn rằng số thuyền cấp cứu không đủ để chở tất cả vào đất liền,
Schmaltz lập tức đưa ra “sáng kiến”: Làm một chiếc bè để chở thuỷ thủ
vào đất liền, ưu tiên dành thuyền cấp cứu cho những hành khách “quan
trọng”, và những thuyền này sẽ kéo chiếc bè vào bờ an toàn.
“Sáng kiến” này
lập tức được thi hành: Một chiếc bè gỗ kích thước khoảng 20m x 7m được
chế tạo vội vàng từ những cột buồm và xà ngang của con tầu, không có
phương tiện để lái và chèo. Khi đám thuỷ thủ và binh lính bắt đầu tỏ ra
lo lắng, viên thuyền trưởng vội vàng xua họ lên chiếc bè. Tổng cộng có
146 đàn ông và một phụ nữ đã bước lên đó. Ngay lập tức bè tròng trành,
người trên bè bị chìm xuống nước tới thắt lưng, vì số lượng chen chúc
quá đông. Cảnh tượng ấy làm nhiều người sợ hãi, 17 người từ chối không
chịu lên bè, quyết định ở lại trên phần nổi của chiếc Méduse, hy vọng
rồi trước sau cũng sẽ có người đến cứu.
Trong khi đó, 5
trong số 6 thuyền cấp cứu lại rất thưa người. Ít người hơn trên một
chiếc thuyền cấp cứu có nghĩa là khẩu phần ăn cho mỗi người trên con
thuyền đó sẽ lớn hơn, đó là cách tính toán của đám người “quyền quý”.
Cuối cùng thì những chiếc thuyền cấp cứu cũng bắt đầu giương buồm lướt
sóng chạy vào bờ, kéo theo chiếc bè. Trong khi De Chaumareys , kẻ đầu
tiên rời bỏ con tầu Méduse, cùng với gia đình của Schmaltz và những hành
khách “quan trọng” khác được ngồi rộng rãi an toàn để chạy trốn thì đám
người khốn khổ trên chiếc bè bị ướt lướt thướt, bắt đầu đối mặt với đói
khát, tù túng, và tất cả những gì bị đát nhất. Họ không có đủ lương thực
và nước uống, không có một chỗ khô ráo để ngủ, thậm chí một chỗ trống để
ngả lưng. Tất cả chỉ có vài thùng rượu và nước uống cùng với ít bột mì,
không thể đun nấu và cũng không thể đốt lửa để sưởi ấm.

Đám người trên bè
bắt đầu phản ứng với cách đối xử bất công đê tiện quá lộ liễu đó. Vì quá
thất vọng, họ rắp tâm sẽ nhẩy lên bất cứ chiếc thuyền cấp cứu nào đi gần
tới họ. Do đó mỗi lúc chiếc bè ở gần một chiếc thuyền cấp cứu nào là
chiếc thuyền ấy chạy bán sống bán chết cho xa chiếc bè. Tình hình
đó làm De Chaumareys hoảng sợ và hắn lập tức ra lệnh cắt đứt dây nối với
chiếc bè, để mặc cho nó trôi nổi lênh đênh trên biển, cầu mong lòng
khoan dung độ lượng của biển cả để sống còn. Chúng ta có thể hình dung
ra trạng thái tâm lý của những người trên chiếc bè lúc đó thất vọng và
hoảng loạn đến chừng nào, khi họ trông thấy những chiếc thuyền cấp cứu
dần dần khuất khỏi đường chân trời, để mặc họ ở lại trơ trọi giữa lòng
biển khơi xa cách đất liền. Liệu có ai sẽ trở lại cứu họ không?
Victor Hugo từng
nói: “Kẻ dốt nát gây ra nhiều điều ác hơn chính kẻ ác” (Les
ignorants font plus de méchancetés que les méchants), nhưng De
Chaumareys vừa dốt nát vừa độc ác, do đó hậu quả do ông ta gây ra vượt
quá mọi sức tưởng tượng.
Hậu
quả của dốt nát và độc ác:
Thật vậy, nhiều
thùng rượu đã bị quăng xuống biển để lấy chỗ ngồi hoặc do bị ngập nước
biển. Nhưng mối nguy lớn nhất không phải là sự đói khát, mà là những đe
doạ đến từ chính những người trên bè, bởi họ đã bị xô đẩy tới chỗ bùng
nổ bản năng hoang dại vốn có trong con người! Khi đêm xuống, họ bắt đầu
nhận ra rằng sự thể mới thực sự tệ hại làm sao. Thật đau lòng, khi những
kẻ chịu trách nhiệm với cảnh ngộ khốn nạn của họ không còn ở xung quanh
nữa, họ bắt đầu quay sang đánh nhau, tự biến mình thành hung thủ lẫn nạn
nhân, đầu óc trở nên rồ dại mất hết lý trí. Họ quăng hết những thùng
rượu và bột mì xuống biển. Họ tấn công nhau bằng dao rựa, tháo tung dây
rợ buộc các thanh gỗ với nhau, làm cho chiếc bè hẹp dần. Sáng sớm hôm
sau, chiếc bè trở nên nhẹ hơn vì 20 người đã chết do tự tử hoặc bị giết
đêm trước. Đến ngày thứ tư chỉ còn 67 người sống sót.
Đói khát, mất ngủ,
và vô vọng, thuỷ thủ càng ngày càng trở nên hung dữ hơn. Việc giết nhau
để ăn thịt bắt đầu xẩy ra, đặc biệt thường xẩy ra vào lúc đêm tối. Hình
thành các bè cánh chống đối nhau, người gốc Phi chống lại người Âu, thuỷ
thủ chống lại binh lính. Mỗi đêm là một đêm điên loạn giết chóc nhau tới
tận sáng để khi sáng dậy đếm lại số người thấy còn ít hơn, và những
người này biết rằng mình cũng chuẩn bị để chết và trở thành thức ăn cho
những kẻ còn sống sót. Số người sống sót giảm đi nhanh chóng nên “khẩu
phần ăn” cũng giảm nhanh chóng. Cuối cùng, không chịu được cơn đói khát,
một số người bắt đầu xẻ thịt các xác chết còn lăn lóc trên chiếc bè để
ăn thịt. Một số người lúc đầu cố kháng cự lại sự sỉ nhục này, nhưng rồi
nhận ra rằng những kẻ ăn thịt người đó đã khoẻ mạnh trở lại, thế là từng
người một đều thay nhau ăn thịt xác chết.
Cuối cùng còn 15
người sống sót tới khi chiếc Argus tới cứu, sau 13 ngày họ bị bỏ mặc
trên biển cả cách xa bờ. Thực ra chiếc Argus không hề có ý định tìm kiếm
những người bị bỏ mặc. Việc tìm thấy 15 người này hoàn toàn ngẫu nhiên.
Nhiệm vụ của chiếc Argus là tìm kiếm những người còn sống sót trên những
chiếc thuyền cấp cứu có thể đã dạt vào bờ, và một nhiệm vụ khác: Tìm lại
kho vàng trong con tầu Méduse.
Khi chiếc Argus
tiến gần tới chiếc bè, thuỷ thủ trên tầu bị sốc khi trông thấy những
người trên chiếc bè đó: 15 người, trong đó nhiều người sắp chết, da chân
họ đã bị sóng biển cuốn đi để trơ lại vết thương lở loét, mặt mũi hốc
hác và rộp lên vì ánh nắng mặt trời. Số sống sót bằng 10% số người bước
lên bè. Những thân xác rơi vãi trên sàn bè, một số đã tan tác từng mảnh
và thối rữa, chứng tỏ dấu hiệu đã bị chim biển cắn xé rữa nát. Vài tuần
sau, 5 trong số 15 người sống sót đó đã chết, trong đó có Jean Charles,
thuỷ thủ da đen cuối cùng, người vung khăn vẫy gọi cầu cứu trong bức
tranh của Géricault. 10 người còn lại phải nằm bệnh viện vài tháng.
Còn
bức tranh thì sao?
Bản thân bức tranh
cũng là một kẻ sống sót sau thảm hoạ, bởi chính tác giả của nó cũng
không thể tiếp tục sống thêm nhiều năm để chứng kiến giờ phút bức tranh
đạt tới tột đỉnh vinh quang. Sau 2 năm dốc kiệt sức lực cho bức tranh,
bệnh lao của Géricault trở nên trầm trọng. Ông đã ra đi khi tài năng đạt
tới độ chín nhất. Bức tranh sau đó đã được đem đi triển lãm và làm sợ
hãi khắp Châu Âu. Cuối cùng nó được đem bán. Có hai khách mua sẵn sàng
trả giá cao: Một thương nhân Anh giầu có và một nhóm quý tộc Pháp – nhóm
này định cắt bức tranh ra làm nhiều phần nhỏ rồi đem bán đấu giá từng
mảnh. Bên cạnh chuyện mua bán, bức tranh ngày càng nổi tiếng vì nó tố
cáo bộ mặt xấu xa của đường lối chính trị bảo hoàng.
Mỉa mai thay,
người “cứu” nó khỏi bị “đày” ra nước ngoài và không bị cắt vụn ra thành
nhiều mảnh lại chính là vua Louis XVIII. Ông này đã biếu tặng Bảo tàng
Louvre để nó còn ở đó cho đến tận ngày nay.
Nhưng vẫn còn
chuyện để nói: De Chaumareys nghĩ rằng vàng vẫn còn nằm trên chiến
thuyền Méduse nên thay vì lo cứu 17 người còn ở lại đó, ông ta chỉ lo
phái một nhóm cứu hộ ra đó tìm lại số vàng.
Sau ba ngày họ đã
tìm thấy! Nhưng không phải tìm thấy vàng, mà tìm thấy 3 người mặt mày
hốc hác còn sống thoi thóp. Họ đã trải qua 54 ngày chờ đợi, và chắc chắn
đó là những ngày kinh hãi. Cả 3 đều điên – kết quả tất yếu của sự đói
khát và sợ hãi! Người Anh đã giúp đưa 3 người này trở lại Pháp, và rất
may, sau một thời gian họ đã hồi phục.
Tổng cộng số người
còn sống được cho tới những năm tiếp theo là 13, gồm 10 người trên
chiếc bè và 3 người trên phần nổi của chiến thuyền Méduse. Một trong số
đó là nhà phẫu thuật Henri Savigny đã kể lại mọi điều mắt thấy tai nghe
cho các nhà chức trách. Tin tức nhanh chóng được tiết lộ cho tờ
Journal des débats, một tờ báo chống bảo hoàng nổi tiếng, và số báo
ra ngày 13-09-1816 đã loan báo sự thật cho công chúng biết.
Tiếp theo, Savigny
và một người sống sót khác là Alexandre Corréard, một nhà địa lý, cùng
viết một cuốn sách nhan đề “Naufrage de la frégate la Méduse” (Vụ
đắm chiến thuyền Méduse), công bố năm 1817.
Giới
hạn trải nghiệm của con người:
Vấn đề càng lúc
càng trở thành một vụ bê bối trong chính trường nước Pháp, trong khi
giới chức cầm quyền cố tìm mọi cách che đậy vụ việc xấu xa này. Trong
thư gửi lên vua Louis XVIII báo cáo tai nạn Méduse, bộ trưởng hàng hải
Pháp viết: “Thần vô cùng buồn rầu thưa với bệ hạ rằng bọn nhà báo đang
ra sức bới móc chi tiết của chuyện đáng buồn này, mà thần trộm nghĩ rằng
cảnh tượng thảm thương này không thể mang ra trước con mắt của công
chúng được”.
Nhưng không thể không đưa
De Chaumareys ra xét
xử tại toà án quân sự. Tuy nhiên, ngay tại nơi được coi là “công minh
chính đại” này cũng không có sự chính đại công minh: Lẽ ra De Chaumareys
phải bị kết tội đào ngũ và bỏ chết đồng đội, và với tội danh này lẽ ra
ông ta phải bị tử hình, nhưng các quan toà đã cứu De Chaumareys bằng
cách gán cho ông ta 3 tội danh nhẹ: 1-“trình độ hàng hải kém”, 2-“tự
mãn” và 3-“rời bỏ con tầu bị đắm trước các hành khách khác”. Với 3 tội
danh đó, ông ta chỉ bị phạt 3 năm tù giam.
Và mặc dù tổng
toàn quyền Sénégal, Schmaltz, sau đó cũng bị buộc phải từ chức, mặc dù
bộ luật Gouvion de Saint-Cyr sau đó bảo đảm rằng từ nay việc bổ nhiệm
quan chức phải dựa trên phẩm chất xứng đáng (thay vì dựa trên cấu kết
chính trị), dân chúng Pháp vẫn tiếp tục căm phẫn và thất vọng trước sự
thối nát và bất công mà vụ đắm tầu đã để lộ. Tâm lý ấy giống như một
ngòi nổ chờ phát hoả.
Bức tranh
“Chiếc bè của chiến thuyền
Méduse” của
Géricault chính là một mồi lửa châm vào ngòi nổ đó, bởi nó đã làm cho
người xem kinh hãi nhận ra rằng
“Chiếc bè đã đưa những
kẻ sống sót tới giới hạn trải nghiệm của con người”, như bình luận
của Jonathan Miles về tác động của bức tranh. Có lẽ chưa có một tác phẩm
nào chỉ rõ giới hạn phân biệt con người với con vật một cách rõ ràng và
sâu sắc đến thế.
Trước khi bắt đầu
vẽ bức tranh chính thức, Géricault thực hiện một loạt phác thảo nghiên
cứu với 3 cách thể hiện chủ yếu: 1-Cảnh binh lính chống lại các sĩ quan
trong ngày thứ hai; 2-Cảnh ăn thịt người xẩy ra sau vài ngày trên bè;
3-Cảnh những người trên bè vẫy gọi con thuyền ở xa đến cứu.
Cuối cùng ông chọn
cách thể hiện thứ ba, có lẽ trước hết vì ông nghĩ rằng cuộc sống chỉ có
ý nghĩa khi có hy vọng, dù chỉ là một hy vọng mong manh – con người
không thể tiếp tục sống khi tuyệt vọng. Hơn nữa, vì ông đã trực tiếp
phỏng vấn những người sống sót, nên chắc chắn những người này đã truyền
cảm hứng cho ông. Với họ, chỉ có giây phút hy vọng được sống mới đáng
nói, còn tất cả những gì xẩy ra trước đó chỉ là một cơn ác mộng khủng
khiếp mà họ muốn quên đi! Thật vậy, những người này kể rằng lần đầu
trông thấy chiếc Argus, họ đã ra sức vẫy gọi nhưng chiếc Argus dường như
không nhận thấy dấu hiệu, do đó đã đi qua rồi biến mất. Lúc ấy, “từ
niềm vui và hy vọng cuồng nhiệt, chúng tôi trở lại nỗi thất vọng cay
đắng và sầu muộn không nói sao cho hết”, họ nói. Nhưng 2 tiếng sau, đúng
vào lúc mọi hy vọng tắt ngấm thì chiếc Argus bỗng nhiên xuất hiện trở
lại và lần này đã trông thấy chiếc bè … Géricault nhấn mạnh tới thời
điểm đó để nói với nhân loại rằng cuộc sống có giá trị thiêng liêng đến
chừng nào, và những kẻ cướp đi cuộc sống của người khác có tội lớn đến
biết bao!
Đằng
sau cánh cửa đóng kín:
Có lẽ tin tức trên
báo chí không đủ nên đầu năm 1818,
Géricault
đã tìm gặp và trò chuyện
với Henri Savigny và Alexandre Corréard, 2 trong số những người sống
sót, rồi 3 người lại cùng với một người sống sót khác là Lavillette, một
thợ mộc, cùng nhau dựng lại mô hình chiếc bè chính xác tới từng chi
tiết, thậm chí tới từng lỗ hổng giữa các tấm ván, để làm vật mẫu cho bức
tranh. Bất chấp ốm đau (ho lao), ông còn tới Le Havre để ngắm nhìn biển
cả dưới bầu trời, chứng kiến cảnh giông bão ngoài biển để đưa nó vào
trong tranh . Ông cũng tới nhà xác và bệnh viện để nhìn tận mắt mầu sắc
và chất liệu bằng xương bằng thịt của những người sắp chết và đã chết.
Ông dựng xưởng vẽ ngay bên kia đường bệnh viện Beaujon. Tại đây ông bắt
đầu rơi vào tâm trạng buồn thê lương, buồn cho thân phận yếu ớt của con
người trước những đe doạ của tự nhiên và của cái ác. Đằng sau cánh cửa
đóng kín, ông ném mình vào công việc. Không gì có thể lôi kéo ông ra
khỏi đó. Ông bị ám ảnh bởi câu chuyện đang vẽ đến nỗi luôn luôn sợ hãi
và né tránh mọi người.

Eugène Delacroix
(1798–1863)
Ông nhờ bạn bè làm
người mẫu để vẽ. Eugène Delacroix
(1798–1863), một bạn thân
của ông đồng thời cũng là một hoạ sĩ nổi tiếng, được chọn làm mẫu để vẽ
nhân vật trong tranh
đang ngồi thẫn thờ
buồn bã, đầy thất vọng, tay phải chống lên má, tay trái buông xuôi trên
thân thể đứa con nằm trên đùi. Chính Delacroix cũng bị ám ảnh bởi câu
chuyện kinh hãi này. Ông kể: “Géricault cho tôi xem bức Chiếc bè của
chiến thuyền Méduse ngay khi ông đang còn vẽ dở dang. Bức tranh đã
gây một ấn tượng rất mạnh và khủng khiếp đối với tôi, đến nỗi khi ra
khỏi phòng tranh, tôi bắt đầu chạy như một thằng điên không dừng lại cho
tới khi về đến nhà và chui tọt vào phòng mới thôi”
Lòng
Nhân:
Géricault được coi là một trong những người “khai sáng” ra “chủ
nghĩa lãng mạn” (Romanticism) trong hội hoạ. Điều này hơi khó hiểu đối
với những người không nghiên cứu hội hoạ. Tuy nhiên sẽ không có gì khó
hiểu nếu nói rằng tranh của Géricault thể hiện rõ rệt tinh thần hiện
thực chủ nghĩa (réalistic) và nhân đạo chủ nghĩa (humanistic), mặc dù
bản thân ông chẳng tuyên bố về bất cứ một thứ chủ nghĩa nào. Đơn giản
ông chỉ vẽ theo cảm xúc, ông vẽ vì xúc động trước nỗi đau của người khác
và vẽ để tuyên chiến với tội ác. Thời gian ông tập trung để vẽ bức tranh
cuối cùng hết 8 tháng, nhưng toàn bộ dự án kể từ việc nghiên cứu, phác
thảo, … đến khi hoàn tất tác phẩm tổng cộng hết 18 tháng. Ngay từ lần
xuất hiện đầu tiên tại Salon ở Paris năm 1819, “
Chiếc bè của
Géricault đã trở thành tâm điểm của phòng tranh, nó đập vào mắt mọi
người và kéo người xem vây quanh nó”, tờ Le Journal de Paris bình luận.

Công trình của Géricault đã đối mặt với một nghịch lý lớn của hội hoạ:
Làm thế nào để một chủ đề kinh hãi và thậm chí “ghê tởm” như thế có thể
trở thành một tác phẩm mỹ thuật được tán thưởng? Làm thế nào để nghệ
thuật hoà giải được với thực tế?
Một hoạ sĩ Pháp cùng thời với là Marie de la
Couperie, nói: “Ngài Géricault đã nhầm rồi. Mục tiêu của hội Géricault hoạ là nói
những điều đẹp đẽ với tâm hồn và con mắt, thay vì gây ra cảm giác khó
chịu gớm tởm như thế”.
Nhưng bức tranh vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ, trong đó có
nhà văn kiêm nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng Auguste Jal, một người
không tiếc lời ca ngợi chủ đề mang tính chính trị chống đối và ý thức
đòi tự do của nó (bênh vực người thấp cổ bé họng, phê phán chủ nghĩa bảo
hoàng cực đoan). Nhà sử học Jules Michelet còn làm cho vấn đề trở nên
nghiêm trọng hơn khi ông cảnh báo xã hội đương thời: “Toàn bộ xã hội
chúng ta đang đi trên chiếc bè Méduse”.
Cuối cuộc triển lãm năm
1819, ban giám khảo quyết định trao tặng huy chương vàng cho bức tranh,
tuy nhiên vẫn chưa chịu công nhận giá trị của nó tới mức cần phải tuyển
chọn để đưa vào bộ sưu tập tranh quốc gia tại Bảo tàng Louvre.
Tuy nhiên, như chúng ta đã
biết, cuối cùng nó cũng đã được đưa về Louvre. Tại đây, lời giới thiệu
trưng bầy bên cạnh bức tranh nói với chúng ta rằng “người anh hùng duy
nhất trong câu chuyện bi thảm đầy thương tâm này là tinh thần nhân đạo”.
Một người đọc xong lời
giới thiệu đó liền quay sang thắc mắc với tôi:
-
Tinh thần nhân đạo gì ở đây vậy?
Tôi suy nghĩ nhanh
rồi trả lời:
-
Géricault muốn tất cả chúng ta thắp hương cầu nguyện cho những linh hồn
xấu số, gián tiếp kêu gọi loài người đừng bao giờ đẩy đồng loại tới
chiếc bè của chiến thuyền Méduse, đừng bao giờ đối xử với nhau như những
người ở trên chiếc bè đó nữa! Con người phải xứng đáng là con người,
trong đó LÒNG NHÂN và chỉ có LÒNG NHÂN mới là giá trị đích thực!