Mùa đông Âu Châu thời tiết năm nay khá lạnh, ở miền nam
Đức về đêm đôi khi nhiệt độ xuống -20 độ C, những cánh hoa tuyết không tan
đọng hai bên đường cao quá đầu gối, các hồ nước bị đóng băng, những cánh
đồng rộng mênh mông toàn màu trắng của tuyết, những giàn nho, giàn đường hoa
thảo (Hopfen) không lá đứng trơ vơ trong gió lạnh, từng đàn quạ đen bay lượn
tìm mồi trong bầu trời mù ảm đạm, rừng thông già rủ lá buồn tênh .
Mọi
người đang hướng về mùa xuân bắt đầu vào ngày 20 tháng 3 trời nắng ấm, sáng
tinh sương mặt trời chưa ló dạng đã nghe tiếng chim hót véo von trên những
cành cây đang trở mình nở nụ. Mùa phục sinh đến kỷ niệm ngày Chúa Jesus Kitô
được sống lại (Auferstehung). đồng hồ phải đổi thêm một giờ vì ngày dài đêm
ngắn, nước Đức là quốc gia theo Đạo Thiên Chúa Giáo, bắt đầu thứ Tư lễ tro
(Aschenmittwoch / Ash Wednesday ngày 09.02.05), trong thánh lễ Linh mục ghi
dấu tro lên trán Tín đồ và đọc "Hỡi người, hãy nhớ mình từ tro bụi và sẽ trở
về với tro bụi "ghi dấu tro để nói lên sự khiêm nhường và nhắc nhở Tín đồ về
sự sống sẽ qua đi. Bước vào mùa chay (Fastenzeiten) 40 ngày, Tượng Chúa phủ
khăn đen, Linh mục làm lễ mặc áo màu tím. Giáo hội kêu gọi con chiên sống
với lòng bác ái, suy niệm, cầu nguyện hãm mình và sám hối, từ bỏ con đường
tội lỗi để được cứu rỗi, ăn chay kiêng thịt vào ngày thứ sáu tuần thánh,
các loại cá được phép ăn. Nến thắp sáng từ đêm phục sinh cho đến các ngày
lễ Chúa lên trời (Christi Himmelfahrt /Ascension day và lễ Hiện xuống
Pfingstsonntag/ Whit Monday là biểu tượng của sự sống lại.
Nguồn gốc lễ phục sinh
Theo phong tục và dân tộc tính ở các nước
Trung Âu Châu (Đức, Pháp, Áo, Hòa Lan, Bỉ, Lục Xâm Bảo, Thụy Sĩ, Tây Ban
Nha.. ) sau mùa đông giá lạnh, xuân về có ánh nắng mặt trời ấm áp làm đời
sống vui tươi hơn. Mùa phục sinh bắt đầu vào ngày rằm tháng đầu của mùa
xuân.
Ngày
lễ nầy bắt nguồn từ ngày Chuá Jesus bị đóng đinh trên thánh giá (Karfreitag
/ Good Friday) và sống lại (Auferstehung/ resurrection) biểu tượng cho sự
sống (Leben/ live) và sự phì nhiêu phong phú (Fruchtbarkeit/ fertility) thời
xa xưa người ta gọi lễ hội mùa xuân (Frühlingsfest / spring festival) hay
"Ostarum" người Đức gọi là "Ostara" và danh từ "Ostern/ Easter" nguồn gốc từ
chữ "Ost/ East" hướng về phương đông mùa xuân mặt trời sắp lên, người Do
Thái gọi ngày lễ nầy là "Paschafest" Người Ai Cập (Ägypter) gọi là
"Osterlamm/ paschal lamb)" cũng nhằm ngày rằm đầu tiên mùa xuân họ giết cừu
ăn mừng được giải phóng khỏi sự đàn áp, thoát khỏi thân phận nô lệ
Hội
nghị về Tôn giáo ở Niazäa năm 325 công nhận lễ hội mùa xuân, là ngày lễ phục
sinh sau khi Chúa sống lại cho đến năm 1094 Oster Fest vui chơi 4 ngày rồi
sau đó 3 ngày, nhưng đến nay chỉ còn lại 2 ngày. Lễ phục sinh năm nay vào
ngày thứ Sáu 14 và thứ Hai ngày 17 tháng 4. Hằng năm vào ngày thứ Sáu lễ
phục sinh Osterfeiertagen Đức Giáo Hoàng làm lễ tại Petersdom ở Roma gọi là
"Urbi et orbi" ở Đức theo phong tục vào Chúa nhật phục sinh (Ostersonntag/
Easter Sunday) cha mẹ hay ông bà thường đưa trẻ con đi tìm trứng "Ostereier
suchen" ở nơi nào đó mà các Hiệp hội tổ chức giấu trứng gà chín tô nhiều màu
trong các bụi cây bờ cỏ.. đây cũng là một thú vui đi dạo thưởng thức nắng ấm
đầu mùa. Nhiều gia đình dành sự ngạc nhiên cho các cháu nhỏ, cha mẹ thường
mua rổ đan bằng mây hay tre lót những sợi giấy màu xanh làm cỏ để trứng và
các con thỏ làm bằng chocolate giấu trong vườn hay nhà các cháu đi tìm.
Những buổi tiệc vui gia đình Đức thường ăn thịt cừu nướng "Osterlamm"
Lửa
phục sinh (Osterfeuer/ Easterfire)
Người
ở vùng quê sống đời nông nghiệp vui mừng mùa đông giá lạnh đi qua, xuân đến
bắt đầu gieo trồng rồi gặt hái, nguồn gốc lửa phục sinh ngày xưa được đốt
lên từ những cánh đồng trong đêm đầu tiên phục sinh, từ đó sẽ thắp lên ánh
nến phục sinh. Ngọn lửa sưởi ấm mùa đông dài lạnh lẽo vì thời xa xưa không
đủ tiện nghi như ngày nay có lò sưởi điện..Người Ai Cập từng tôn thờ thần
mặt trời xem ánh lửa như thần thiêng. miền bắc Na Uy không có mặt trời, mặt
trời tái xuất hiện vào cuối tháng giêng khoảng 4 phút, học sinh ở Trombo
nghỉ học một ngày để chào mừng ánh mặt trời, ngược lại mùa hè đêm 23 tháng 7
thì mặt trời không hề lặn, không có mặt trời thì trên trái đất nầy sẽ không
có sự sống, vì thế ánh lửa phục sinh cũng là nguồn sống của con
người, lửa phục sinh tượng trưng cho ánh sáng mới mà chúa đã mang đến cho
chúng ta, từ năm 750 ở Pháp đã có phong tục đốt lửa phục sinh, thời sơ khai
người ta dùng hai hòn đá đánh cho xẹt ra lửa, rồi từ từ biết dùng khí đốt.
Đến thế kỷ thứ 11 ở Đức đã dùng ánh lửa như một sự dâng hiến trong các nghi
lễ về Tôn giáo.
Nến
phục sinh (Osterkerze/ Eastercandle)
Các Tôn giáo
đều sử dụng nến (đèn cầy) đốt sáng trên bàn thờ, ánh sáng nến có thể đem
vào nơi tối tăm, năm 384 lần đầu tiên ở Piacenca thánh Hieronymus (347- 419)
viết trong thư Tôn đồ về ý nghiã biểu tượng của nến phục sinh là sự sống
.đến năm 417 Giáo Hoàng Zosimus cùng công nhận biểu tượng đó là sự chết và
sống lại của Chúa Jesus. Từ thế kỷ thứ 7 thánh điạ La Mã công nhận và sử
dụng nến phục sinh cho đến thế kỷ thứ 10 được các quốc gia theo Thiên chúa
sử dụng cho đến thế giới ngày nay .
Nến
Phục sinh được đốt lên từ đống lửa trước nhà thờ trong đêm phục sinh được
thánh hóa theo phong tục lâu đời. Nến đốt sáng được rước vào nhà thờ, Tín
đồ sẽ thắp nến của mình từ cây nến phục sinh cả nhà thờ được rực sáng bởi
ánh nến là dấu hiệu của sự sống, chiến thắng được tội lỗi và sự chết. mọi
người reo mừng "Christus ist das Licht- Gott sei ewig Dank" Ngày phục sinh
cây nến có ghi hình thánh giá hay khắc tia ánh sáng mặt trời hay dòng
nước..Trên nến có cắm 5 dấu đinh, phía trên ghi mẫu tự Alpha và bên dưới mẫu
tự Omega với ý nghiã đầu tiên và cuối cùng của tiếng Hy Lạp, tượng trưng cho
chúa Jesu là khởi đầu và cuối cùng, chung quanh cây nến ghi năm để nói lên
" Chúa Jesus là Đấng cứu độ từ khởi đầu, hôm nay và mãi mãi "Trong các lễ
rửa tội, hay lễ an táng nến phục sinh được đốt sáng.
Trứng (Ostereier/ Easter egg)
Từ thế kỷ thứ
12, Thứ bảy phục sinh Ostersamstag người ta nấu trứng gà chín và sơn màu sắc
sặc sở với những ý nghiã đẹp : màu đỏ tượng trưng cho may mắn, màu xanh cho
hy vọng, trẻ trung vô tội, màu vàng cho sự khôn ngoan, màu trắng cho thanh
bạch màu cam cho sức mạnh .. bỏ trứng trong giỏ với những thức ăn khác mang
đến nhà thờ. Trứng còn biểu tượng cho sự khởi nguyên của sự sống, bởi vậy
theo truyền thuyết người chết được tẩm liệm người ta để trong quan
tài một cái trứng biểu tượng cho cứu chuộc và sự sống đời sau, trên quan tài
người chết thường cúng cơm có trứng gà. Người ta quan niệm con gà con tự
mổ vỏ trứng chui ra, Chúa Jesu bị hành hạ đánh đập qua những đoạn đường dài
khổ cực vác thánh giá rồi bị đóng đinh chết an táng trong ngôi mộ đá đã đập
vỡ cửa mồ và sống lại.
Thỏ phục sinh Osterhase/
Easter bunny
Các chuyện thần thoại hay trong dân gian đều có chuyện vui giúp đời như con
thỏ là con vật hiền lành không làm hại sinh vật nào,Thỏ không có khả năng
tấn công hoặc gây nguy hại cho các loài động vật khác, nhưng lại thường
xuyên bị những con như sói, báo, chim ưng, cú... uy hiếp. Chính vì vậy, thỏ
thường xuyên phải vểnh tai để chú ý xem bốn phía chung quanh có động tĩnh gì
không, nhằm đề phòng bất trắc. Trong hoàn cảnh khắp nơi là kẻ địch như vậy,
nên đôi tai của thỏ đặc biệt to dài nghe rất thính để chạy trốn khi nghe
tìếng động trước sự tấn công.
Nữ thần ái tình Hy Lạp "Liebesgöttin Aphrodite" cho đến NữThổ Thần Nhật nhĩ
Nam "Erdgöttin Holda" đều yêu chuộng thỏ. Ở Byzanz Tây Ban Nha các nhà biểu
tượng học xem biểu tượng con thỏ là một Thiên sứ. Mãi cho đến thế kỷ thứ 16
nhiều điạ phương đã quan niệm các con thú khác như cáo, gà, cò chim cu, hạt,
cú đã mang trứng đi giấu ..Thỏ sống cách đây 55 triệu năm bộ xương thỏ vừa
được khai quật ở Mông Cổ. Gomphos elkema, tên của con vật, là thành
viên cổ nhất trong họ nhà thỏ từng được tìm thấy. Phân tích Gomphos
đã cho thấy, thỏ hiện đại, cùng với các loài thú khác, đã xuất hiện sau thời
kỳ khủng long. Các nhà sinh vật học cho biết thỏ sinh sản nhiều, nhưng chú
thỏ phục sinh xuất hiện từ năm 1678 do một giáo sư y khoa Von Georg Franck ở
Franckenau dạy đại học Heidelberg công nhận thỏ là biểu tượng của sự sinh nở
phong phú, một con thỏ mẹ hàng năm có thể đẻ 20 thỏ con, mùa xuân với cỏ non
làm thực phẩm cho các chú thỏ con vừa chào đời, vào tận trong vườn để tìm
thức ăn, trứng phục sinh được sơn nhiều màu, người lớn đã cắt nghiã do các
chú thỏ mang tới, từ đó có thỏ và trứng. Từ thành phố zurich Thuỵ Sĩ là nơi
phát họa ra chú thỏ và cái trứng trong mùa phục sinh. Sau đó các hãng sản
xuất kẹo bánh, không bỏ cơ hội buôn bán từ năm 1875 sản xuất những chú thỏ
bằng schololate làm bằng tay, mãi cho đến đầu thế kỷ 20 mới sản xuất bằng
máy theo kỷ nghệ
Hoa phục sinh
Người Đức thường dùng cành cây tươi, treo những cái vỏ trứng gà, sơn nhiều
màu và những con thỏ nhỏ bằng schocolat cho trẻ em, và các loại hoa thường
dùng như Thủy tiên Osterglocken/daffodil; Uất kim cương Tulpen/Tulip; Phong
tín tử Hyazinthen/hyacinth; Cúc đồng Gaenebluemchen/ dasiy; Bồ công anh
Loewenzahn/ dandetion; Mao cấn Hahnenfuss/ buttercup..
Mùa
phục sinh bên quê nhà thì nắng ấm, năm nay nhiều nơi hạn hán không đủ nước
cho các vụ mùa, thời tiết mỗi lục địa khác nhau, nhưng những mùa lễ Giáng
Sinh, Phục sinh đều giống nhau. Trước 1975 Việt Nam Nam Bắc chia đôi, sinh
hoạt đời sống về an sinh bị khó khăn, những ngày lễ cũng giới hạn với giai
đọan chiến tranh. Ngày nay Việt Nam thanh bình thường tổ chức các lễ hội như
đi Chùa Hương, giổ Tổ Hùng Vương, Trung Thu, Giáng sinh, lễ hoa Đà lạt, lễ
tế Nam Giao và nhiều lễ hội khác ở các điạ phương tổ chức linh đình nhằm
phục tồn truyền thống văn hoá cổ truyền, ngay cả ngày lễ tinh yêu
(Valentinstag) trước đó Việt nam chưa từng thực hiện, nhưng ngày nay các
chàng dù nghèo cũng dành tiền mua cho người yêu một đóa hoa hồng, một món
quà nhỏ, như người xưa đã nói "phú quý sinh lễ nghiã".
Hy vọng
đời sống phát triển về kinh tế dân trí và dân quyền cũng phát triển theo, để
quê hương chúng ta bớt nghèo đói và lạc hậu. Các nước Tây phương vật chất
đầy đủ, sau lễ Giáng Sinh Tết, ngày tình yêu… lễ hội hoá trang, tiếp đến lễ
Phục sinh các siêu thị lớn, nhỏ đều bày bán những con thỏ bằng Chocolat,
trứng sơn đủ màu và những thiệp Chúc Mừng Phục Sinh. Frohe Ostern / Happy
Easter
Chúa
sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta
cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6: 3- 4) để an ủi và đem hy vọng cho
những ai buồn sầu vì số phận sẽ phải chết hay đau khổ, khi có người thân yêu
vừa mất. Theo luật tạo hoá con người phải chết. Nhưng nhân loại hy vọng được
sống lại như Chúa sau khi phải trải qua cái chết của thân xác..
Lược dịch lịch sử những ngày Chúa bị nạn và
sống lại
Lễ Lá
Palmsonntag Chúa nhật Chúa Jesus vào thành Jersusalem để làm vua thiên hạ,
thời gian chưa đầy một tuần lễ, Chúa đã làm lễ rửa chân cho các môn đệ và
thành lập Hội Thánh đầu tiên ở trần gian, dọn mình trở về với Chúa Cha như
lời Thánh kinh.
Biến cố, các
đạo trưởng, Caipha và Hội đồng Do Thái muốn giết Chúa trước ngày lễ Vượt
Qua, nhưng thời ấy người Do Thái bị La Mã rút quyền lên án tử hình.. người
Do Thái đã mua chuộc Juda môn đệ phản Thầy bắt Chúa Jesus, vào tối thứ năm
và sáng thứ sáu các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão đem chúa đến xử ở dinh quan
Pontius Pilatus (Philato) hôm đó là ngày áp lễ Vượt Qua… Nhưng quan tổng
trấn La Mã Pilatus yếu hèn không ngăn ngừa được vụ án, để người Do Thái đã
đánh đập, hành hạ Chúa trước khi đóng đinh… Dấu tích xưa được ghi lại ở
ngoại ô thành Jerusalem có núi sọ người Do Thái gọi là Golgotha, Đồi nầy làm
nơi ném đá những người bị xử phạt, Người La Mã cũng chọn nơi nầy đóng đinh
các tội phạm.. Golgotha cũng là chặng đường cuối cùng khổ giá, trên đường
đến núi sọ có Mẹ Maria cùng các môn đệ yêu quý, bà thiếu phụ Veronica dâng
khăn mới lau mặt Chúa, (chiếc khăn đó in rõ thánh nhan Ngài, khăn đó còn lưu
lại trong bảo tàng viện ở Roma ?) Chúa vác thánh giá tới đỉnh đồi, trời đã
đúng ngọ, Chúa bị đóng đinh với bản án "Jesus vua Do Thái "..Mẹ Maria buồn
rầu đau khổ chứng kiến cảnh đánh đập và đóng đinh, trái tim mẹ đau nhói khi
nhìn những giọt máu trên thánh giá rơi xuống..
(năm 2004 film Passion of
rhe Christ đã diễn lại cuộc khổ nạn của Chúa đầy đủ)
Lời
nói cuối cùng của Chúa "Lạy cha, Con phó linh hồn con trong tay Cha"
Rồi ngài trút hơi thở lúc trời đã về chiều..Theo luật La Mã xác của tội phạm
không được chôn cất để ở pháp trường cho thú dữ chim ăn. Ông Giuse đã xin án
táng hình hài Chúa Jesus trước ngày lễ Vượt Qua theo phong tục người Do Thái
cấm để xác chết trên thập giá.. Nên được chấp nhận trước khi hạ thánh giá,
những người lính canh pháp trường lấy dáo dâm vào xác cho tới tim Chúa. Ông
Juse mẹ Maria và các môn đệ đã mai táng Chúa trong một hang đá, ngoài có
tảng đá lớn lấp và gắn kín khi sau khi mai táng, quân linh chính quyền canh
giữ 3 ngày…
Ba ngày đã qua,
sáng sớm còn đọng những giọt sương mai lóng lánh dưới ánh mặt trời mùa xuân
bừng dậy, bà Magdala người được Chúa cứu khỏi bệnh tâm thần, đi thăm mộ Chúa
để biểu lộ lòng nhớ ơn và phát hiện tảng đá lấp mộ Chúa đã không còn
nguyên như cũ, bà nghĩ ai đó đem xác Chúa đi. Bà tìm gặp Petrus và Gioan và
mong muốn các ông sớm tìm ra ai lấy xác Chúa để đâu. Maria von Magdala chưa
hiểu đàng sau tảng đá được lăn ra kia ẩn chứa một mầu nhiệm sự sống lại. Vì
thế, bà cùng với hai môn đệ vội vã chạy đi kiếm tìm…
Ông
Gioan chạy đến mộ trước bởi sức trai trẻ, môn đệ Chúa thấy những gì Maria
von Magdala báo tin, ông còn phát hiện thêm những hiện tượng bất thường,
những băng vải còn đó chưa hẳn xác thầy đã bị đánh cắp. Sau đó không lâu,
Petrus phát hiện các băng vải, khăn che đầu được xếp lại gọn gàng. Những
hiện tượng này là những lý chứng có thể trả lời cho những nghi ngờ của
Maria, nếu có âm mưu trộm xác, kẻ trộm sẽ lợi dụng thời khắc lính canh thiếp
ngủ- rất ngắn ngủi, thì không thể nào thoải mái sắp xếp các băng vải liệm
cách gọn gàng như thế được, những bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa, nhưng
nó lại là những dấu chỉ chứa đựng sự nhiệm mầu. …
Petrus nhìn thấy tất cả nhưng không bình luận. Petrus cẩn trọng và dè dặt
trước hiện tượng nầy phải có thái độ cẩn trọng trong mọi hoạt động; nhưng
mặt khác, dựa vào kinh thánh, chúng ta biết lý do Petrus không bình phẩm là
vì ông chưa hiểu "theo Kinh thánh, Đức Jesus phải chỗi dậy từ cõi chết”.
Gioan đi vào mộ. Ông thấy và tin. Thông qua ngôi mộ trống và những vị trí
gọn gàng của các băng vải liệm, Gioan đã đọc ra dấu chỉ về những thực tại
siêu nhiên bằng con mắt đức tin. Đức tin và sự cảm nghiệm này một phần xuất
phát từ trong cách quan sát và phân tích vấn đề, Gioan đã thâu gom những
hiện tượng hữu hình, ông lượng định vấn đề để rồi đưa đến kết luận- dù không
nói ra, một cách khoa học. Niềm tin đó dựa trên sự soi sáng của lý trí và
tình yêu, xác của Thầy chả có ai lấy đi cả. Cái chết đã thất bại. Nó đã bị
ánh sáng Phục sinh tướt đoạt. Niềm tin ban sơ này của ông sẽ dần dần được
chính Đấng Phục sinh và Chúa Thánh Thần củng cố và hoàn thiện.
Bà
Magdala khóc trong mồ, qua nước mắt bà thấy hai người ngồi trên phiến đá chổ
để xác Chúa, bà chưa biết đó là hai Thiên Thần và họ đã hỏi bà " tại sao bà
khóc ?"
Bà
thưa "vì người ta đã lấy mất xác của Thầy tôi, và không biết họ để đâu?" nói
xong bà nhìn lại phiá sau thấy Chúa đứng, nhưng bà không biết, Chúa hỏi bà
: " tại sao khóc và tìm ai ? "
Bà
Magdala tưởng đó là người coi vườn của ông Giuse nên thưa " thưa ông nếu ông
đã cất xác của Ngài cho tôi biết để tôi chôn cất. Chúa Jesus đã gọi tên bà
thân mật :" Maria Magdala " nghe giọng quen thuộc lập tức nhận ra Chúa và bà
toan giơ tay ôm chân Chúa nhưng Chúa đã phán :
-Đừng
đụng đến Ta, vì Ta chưa lên cùng Cha Ta , con hãy về bảo các anh em Ta thay
Ta, Ta sẽ lên cùng Cha Ta và Cha cùng các con, cùng Chúa Ta và Chúa các con.
Ruehre mich nicht an! Denn ich bin noch nicht aufgefahren zum Vater. Gehe
aber hin zu meinen Bruedern und sage ihnen ich fahre auf zu meinem Vater und
zu eurem Vater, zu meinem Gott und zu eurem Gott.
Nói
xong Chúa biến mất bà Magdala vui mừng chạy về báo tin cho các môn đệ biết
Chúa đã phục sinh, nhưng họ không tin và cho là bà nói sảng, ngoại trừ
Petrus và Gioan đã tin……..
Mừng
lễ Chúa Phục sinh để nhắc nhớ chúng ta thêm niềm tin. Thánh Phaolô đã nói
nếu Chúa không phục sinh, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả
niềm tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15, 14)
Theo tài
liệu các đạo trưởng người Do Thái muốn giết Chúa. Tổng trấn Philato thất
vọng truyền lấy nước rửa tay và nói "ta sạch tội về máu người đạo đức
này" Nhưng người Do Thái đã minh định rằng ." chẳng việc gì
Quan cứ yên tâm, Sau nầy máu nó có đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng
tôi chúng tôi cam chịu.."
Suy
niệm lời thánh kinh, nhìn lại lịch sử người Do Thái đã mất nước lang thang
xứ người, 60 năm qua hơn 6 triệu người Do Thái vô tội Hitler ra lệnh tàn sát
!! và ngày nay chiến tranh và khủng bố, máu con cháu Do Thái vẫn còn tiếp
tục đổ .
Tài liệu tham khảo
Ostergeschichte- Quelle Johannes Ver 20 & 21
Nach den Evangelisten Johannes
Universal Lexion Faktum
Đã đăng trên Khoa học net
|