Những
bài cùng tác giả
Những
bài liên quan
"There's plenty of room at the bottom"
(Richard P. Feynman, Physics Nobel Laureate)
Cách đây mười năm cụm từ "công nghệ nano"
(nanotechnology) ít được người biết đến, nhưng ngày
hôm nay nó trở thành một thuật ngữ quen thuộc ở mọi
giai tầng trong xã hội hiện đại. Người làm kinh tế
hay chính trị cũng thường đề cập đến nano dù người
nói lẫn người nghe lắm khi vẫn không biết đích xác
là gì. Nano là tiếng gọi tắt của nanometer (ký hiệu
nm, 1 nm = 10-9 m hay là 0.000000001 m)
[1] là một đơn vị đo lường ở thứ nguyên nguyên tử
hay phân tử. Công nghệ nano liên quan đến việc lợi
dụng những hiện tượng ở đơn vị nanometer để thiết kế
vật liệu và vật chất với những chức năng đặc biệt
ngay từ thang (scale) nguyên tử hoặc phân tử. Người
ta gọi đây là phương pháp thiết kế "từ dưới lên"
(bottom-up method) khác với phương pháp thiết kế
thông thường "từ trên xuống" (top-down method) đang
được lưu dụng [2]. Nhà vật lý học nổi tiếng Richard
Feynman đã từng tiên đoán phương pháp "từ dưới lên"
trong một bài thuyết trình năm 1959 qua câu nói vừa
nghiêm túc vừa hài hước
"There's plenty of
room at the bottom" (Có rất nhiều chỗ
trống ở miệt dưới). Lời dự đoán thiên tài nầy cho
biết vùng tận cùng "miệt dưới" của nguyên tử và phân
tử vẫn còn là những vùng phì nhiêu bát ngát chờ đợi
con người đến thao túng khai hoang!
Tuy nhiên con người phải chờ đến 40 năm mới nhìn
thấy sự bùng nổ của nền công nghệ nano chủ yếu sử
dụng phương pháp "từ dưới lên". Nền công nghệ nầy
đang có tác động mạnh lên nền công nghệ "cổ điển"
hiện tại và cũng là một động lực của những công
trình nghiên cứu đa ngành (multi-discipline) bao gồm
vật lý, hóa học, vật liệu học, sinh học, toán học,
tin học v.v... Đây là một cuộc cách mạng kỹ nghệ của
loài người ở thế kỷ 21. Nó sẽ mang lại cho nhân loại
những thay đổi khoa học kỹ thuật mang tính đột phá
và có tầm ảnh hưởng sâu xa trong sinh hoạt xã hội,
văn hóa, kinh tế hơn cả cuộc cách mạng kỹ nghệ ở thế
kỷ 18.
Đàng sau bức bình phong công nghệ nano là những vật
liệu nano. Trong những vật liệu nầy xuất hiện hai
dạng carbon: phân tử fullerene C60 có hình dạng trái
bóng đá và ống nano carbon (carbon nanotube).
Sự phát hiện của hai dạng carbon ở thập niên 80 và
90 ở thế kỷ trước có một trùng hợp thời điểm với sự
ra đời và phát triển của công nghệ nano. Việc khám
phá fullerene và ống nano carbon là tập hợp của
nhiều sự kiện ngẫu nhiên. Gọi là ngẫu nhiên nhưng
thật ra là những kết quả hết sức ngoạn mục phản ảnh
một tinh thần làm việc miệt mài nhưng vẫn phóng
khoáng lạc quan, một tư duy phân tích bén nhạy nhưng
không xơ cứng giáo điều của nhà khoa học.
Hiện nay, hằng trăm trung tâm nghiên cứu lớn nhỏ về
công nghệ nano được thành lập khắp nơi trên thế giới
đứng đầu là Mỹ, Nhật Bản, Âu Châu, Trung Quốc với
kinh phí toàn cầu trong vài năm tới sẽ tăng đến hằng
chục tỷ Mỹ kim mỗi năm. Đối với một số nước công
nghệ nano và bộ môn fullerene/ống nanocarbon là ưu
tiên quốc gia cho các đề án nghiên cứu và triển
khai. Trong bài viết nầy chúng ta hãy nhìn xem có
thật sự là con người đang đi vào một cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật mở ra một thời đại hoàng kim công
nghệ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Và có
thật sự là nền công nghệ silicon của thế kỷ 20 đang
từ giã "cuộc hí trường" để được thay thế bởi nền
công nghệ carbon.
Quả
bóng đá C60
Năm 1985, một nhóm nghiên cứu bao gồm Harold Kroto
(University of Sussex, Anh Quốc) và Sean O'Brien,
Robert Curl, Richard Smalley (Rice University,
Texas, Mỹ) khám phá ra một phân tử chứa 60 nguyên tử
carbon, viết tắt là C60. Giáo sư Kroto là một nhà
nghiên cứu hóa học thiên văn. Vào thập niên 70, ông
đã có một chương trình nghiên cứu những chuỗi dài
các nguyên tử carbon trong các đám mây bụi giữa các
vì sao (interstellar dust). Ông liên lạc với nhóm
của Curl và Smalley và dùng quang phổ kế laser của
nhóm nầy để mô phỏng điều kiện hình thành của các
chuỗi carbon trong các đám mây vũ trụ. Họ không
những có thể tái tạo những chuỗi carbon mà còn tình
cờ khám phá một phân tử rất bền chứa chính xác 60
nguyên tử carbon. Sự khám phá C60 xoay hướng nghiên
cứu của nhóm nầy từ chuyện tìm kiếm những thành phần
của vật chất tối (dark matter) trong vũ trụ đến một
lĩnh vực hoàn toàn mới lạ liên hệ đến khoa vật liệu
(Materials Science). Năm 1996, Kroto, Curl và
Smalley được giải Nobel Hóa học cho sự khám phá nầy.
Trước C60 người ta chỉ biết carbon qua ba dạng: dạng
vô định hình (amorphous) như than đá, than củi, bồ
hóng (lọ nồi), dạng than chì (graphite) dùng cho lõi
bút chì và dạng kim cương (Hình 1). Sự khác nhau về
hình dạng, màu mè, giá cả và cường độ yêu chuộng của
nữ giới giữa than đá, than chì và kim cương thì quả
là một trời một vực. Tuy nhiên, sự khác nhau
trong cấu trúc hóa học lại khá đơn giản. Như cái tên
đã định nghĩa, dạng vô định hình không có một cấu
trúc nhất định. Trong than chì các nguyên tố carbon
nằm trên một mặt phẳng thành những lục giác giống
như một tổ ong. Cấu trúc nầy hình thành những mặt
phẳng nằm chồng chất lên nhau mang những electron
pi di động tự do. Than chì dẫn điện nhờ những
electron di động nầy. Trong kim cương những electron
pi kết hợp trở thành những nối hóa học liên kết
những mặt phẳng carbon và làm cho chất nầy có một độ
cứng khác thường và không dẫn điện.

Hình
1: Tám loại carbon theo thứ tự từ trái sang phải:
(a) Kim cương, (b) Than chì, (c) Lonsdaleite, (d)
C60, (e) C540, (f) C70, (g) Carbon vô định hình (h)
Ống nano carbon (Nguồn: Wikipedia).
Sự
khám phá của C60 cho carbon một dạng thứ tư. Sau khi
nhận diện C60 từ quang phổ hấp thụ Kroto, Curl và
Smalley bắt đầu tạo mô hình cho cấu trúc của C60.
Trong quá trình nầy các ông nhanh chóng nhận ra rằng
các nguyên tố carbon không thể sắp phẳng theo kiểu
lục giác tổ ong của than chì, nhưng có thể sắp xếp
thành một quả cầu tròn trong đó hình lục giác xen kẻ
với hình ngũ giác giống như trái bóng đá với đường
kính vào khoảng 1 nm (Hình 1d và 2). Phân tử mới nầy
được đặt tên là buckminster fullerene theo tên lót
và họ của kiến trúc sư Richard Buckminster Fuller.
Ông Fuller là người sáng tạo ra cấu trúc mái vòm
hình cầu với mô dạng lục giác (Hình 3). Cho vắn tắt
người ta thường gọi C60 là fullerene hay là bucky
ball.
Hình 2: Quả bóng đá phân tử C60 với đường kính vào khoảng 1 nm.

Hình 3: Kiến trúc sư Richard Buckminster Fuller và mái vòm hình cầu với
mô dạng lục giác.
Trong việc quyết định trao giải Nobel, Viện Hàn Lâm
Khoa Học Thụy Điển đã quên mất công lao của giáo sư
Eiji Osawa. Ông là người đầu tiên đã tiên đoán sự
hiện hữu của C60. Tôi tình cờ gặp ông tại một cuộc
hội thảo khoa học chuyên ngành. Cũng như phần lớn
các giáo sư người Nhật Bản khác, giáo sư Osawa là
một người khả kính, điềm đạm và khiêm tốn. Khi tôi
gợi chuyện C60 và giải Nobel, ông mở nụ cười hiền
hòa tâm sự "Không được Nobel tôi tiếc lắm chứ vì
C60 là đứa con khoa học của tôi mà. Tôi tiên
đoán C60 vào năm 1970 khi tôi vừa mới được bổ nhiệm
Giảng Viên tại Đại Học
Hokkaido. Vì tôi viết bằng tiếng Nhật và đăng bài
báo cáo của tôi trên tạp chí Kagaku (Hóa Học) năm
1970
[3] nên
không được các đồng nghiệp quốc tế lưu ý đến. Một
năm sau tôi viết lại thành một chương cho một quyển
sách giáo khoa, cũng bằng tiếng Nhật". Tôi hỏi
"Nếu thầy đã tiên đoán như vậy thì tại sao thầy
không làm một thí nghiệm để kiểm chứng". Ông bộc
bạch "Theo sự tính toán của tôi thì năng lượng
hoạt tính của phản ứng tạo ra C60 rất cao. Tôi không
thể hình dung được một chất xúc tác nào có thể hạ
thấp năng lượng hoạt tính để phản ứng có thể xảy ra.
Nhưng tôi đã hình dung được cấu trúc của nó trong
một lần tôi nhìn đứa con trai của tôi đùa giỡn với
trái bóng đá trong công viên gần nhà. Tôi cũng không
nghĩ ra một phương tiện vật lý như dùng laser hoặc
tia có năng lượng cao như nhóm Smalley đã làm để
kích động phản ứng. Hơn nữa, ở thời điểm đó tôi mới
vừa làm Giảng Viên nên cần phải tạo một dấu ấn nào
đó trong phân khoa. Tôi cảm thấy việc tổng hợp C60
quá nhiều khó khăn nên đành chọn một hướng nghiên
cứu khác". Có một điều làm cho ông được an ủi
phần nào là trong bài diễn văn nhận giải
Nobel Kroto, Curl và Smalley đã đề cập đến thành quả
tiên phong của ông. Ông đã gởi tặng tôi bài báo cáo
khoa học mang tính lịch sử nầy (Hình 4).


Hình
4: Tựa đề bài báo cáo "Họ
chất
thơm siêu đẳng" (Super-aromaticity) viết vào năm
1970 [3] và quả bóng đá C60 trong bài viết.
Như giáo sư Osawa đã trình bày, ở điều kiện và nhiệt
độ bình thường việc tổng hợp C60 là một việc bất khả
thi theo các tiêu chuẩn nhiệt động học
(thermodynamics). Vì là một nhà hóa học thiên văn,
Kroto tiếp cận vấn đề bằng một phương thức khác.
Tháng 9 năm 1985, trong thời gian làm việc tại Rice
University ông dùng tia laser của Curl và
Smalley bắn vào than chì để tái tạo sự tương tác của
các tia vũ trụ và carbon trong không gian. Trong phổ
ký khối lượng (mass spectrography) của các sản phẩm
tạo thành xuất hiện hai đỉnh rất to chỉ định C60 và
C70. Một bất ngờ nhưng Kroto, Curl và Smalley biết
ngay đây là một khám phá đổi đời "kinh thiên động
địa". Khi tia laser bắn vào một vùng nào đó của vật
chất thì sẽ nâng nhiệt độ vùng đó lên cao hằng ngàn
độ, thậm chí hằng chục ngàn độ. Ở nhiệt độ cao những
chướng ngại nhiệt động học không còn là vấn đề và sự
tạo thành C60 trở nên rất thuận lợi.
Việc khám phá C60 đã làm chấn động hầu hết mọi
ngành nghiên cứu khoa học. Đặc biệt đối với môn hóa
học hữu cơ nó đã tạo ra một nguồn sinh khí mới cho
ngành nghiên cứu quá cổ điển nầy. Sự khám phá có tầm
quan trọng hơn sự khám phá cấu trúc vòng nhân
benzene của Kekule gần 150 năm trước. Benzene đã mở
ra toàn bộ ngành hóa học của hợp chất thơm (aromatic
compounds). C60 đã mở ra ngành "Hóa học fullerene"
đi song song với sự phát triển của ngành công nghệ
nano hiện nay.
Kroto, Curl và Smalley chỉ cho biết sự hiện hữu của
C60, nhưng tổng hợp C60 cho việc nghiên cứu và ứng
dụng phải đợi đến năm 1990 khi
Krätschmer và Huffman
đưa ra phương pháp tổng hợp với một sản lượng
lớn. Nhờ vào phương pháp nầy đến năm 1997 đã có hơn
9000 hợp chất dựa trên fullerene được tổng hợp, hơn
20 000 báo cáo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên
ngành. Những người nghiên cứu hóa hữu cơ thường có
nhiều nỗi ám ảnh và niềm đam mê đối với những cấu
trúc phân tử đối xứng và cấu trúc lồng (cage
structure), nên fullerene trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu mầu mỡ trong bộ môn nầy. Họ tổng hợp
những fullerene cao hơn C60 như C70 (70 nguyên tử
carbon, hình bóng bầu dục), C84 (84 nguyên tử
carbon, hình quả đậu phọng). Họ kết hợp những nhóm
chức (functional group) để chức năng hóa
(functionalization) fullerene, gắn fullerene vào
polymer để tổng hợp những dược liệu hay vật liệu cho
áp dụng quang điện tử.
Lịch sử fullerene lâu đời hay non trẻ tùy vào hai
cách nhìn khác nhau. Nghiên cứu fullerene thật ra
rất ngắn chỉ hơn 20 năm kể từ ngày phổ ký khối lượng
của Curl và Smalley cho biết sự hiện diện của C60 và
C70, nhưng sự hiện hữu của fullerene có lẽ còn sớm
hơn sự xuất hiện của loài người. Nó có trong những
đám mây bụi trong vũ trụ, mỏ than, bồ hóng từ những
ngọn nến lung linh hoặc những nơi khiêm tốn hơn như
ở lò sưởi than, cái bếp nhà quê đen đui đủi vì lọ
nồi... Người ta không tìm được C60 vì hàm lượng rất
nhỏ và thường bị than vô định hình phủ lấp.
Khi màn bí mật C60 được vén mở, người ta nghĩ ngay
đến những áp dụng thực tiễn của C60. Người ta kết
hợp C60 với potassium (K) để tạo ra chất siêu dẫn
hữu cơ ở nhiệt độ 18 K (-255
°C).
Một số nhà nghiên cứu sinh học hy vọng có thể dùng
C60 điều chế dược phẩm trị liệu bịnh AIDS. Trong vật
lý, rất nhiều đề nghị áp dụng C60 để chế tạo những
trang cụ (device) quang điện tử trong công nghệ cao.
Tuy nhiên, trên mặt áp dụng các nhà khoa học thường
mắc phải một căn bệnh chung là "lạc quan quá độ".
Cấu trúc tròn trịa, đối xứng của C60 đã được tạp chí
Science
tôn vinh là "phân tử của năm 1991", nhưng cái xinh
đẹp hấp dẫn không phải lúc nào cũng đưa đến kết quả
thực tiễn hoàn mỹ.
Hai yếu tố làm C60 giảm tính thực tế là: (1) giá cả
quá cao (giá cho 1 gram là vài trăm Mỹ kim hoặc cao
hơn cho tinh chất, so với giá vàng vào khoảng $10/g)
và (2) C60 không hòa tan trong dung môi rất bất lợi
cho việc gia công. Những hồ hởi ban đầu trong cộng
đồng nghiên cứu khoa học dành cho fullerene bị dập
tắc nhanh chóng vì những trở ngại nầy. Thậm chí ngay
trong công nghệ "thấp", chẳng hạn dùng C60 như một
chất phụ gia (additives) cho dầu nhớt làm giảm độ ma
xát vẫn không địch nổi về giá cả và hiệu quả của
những chất phụ gia thông thường. Tuần báo
The Economist
có lần phê bình "Cái công nghệ duy nhất mà quả
bóng bucky đã thực sự cách mạng là sản xuất những
bài báo cáo khoa học" (The only industry the
buckyball has really revolutionized is the
generation of scientific papers)!
Nhưng viễn ảnh của C60 trong áp dụng công nghệ không
đến nổi tăm tối như các nhà bình luận kinh tế đã hấp
tấp dự đoán. Sự kiên trì của những người làm khoa
học lúc nào cũng cho thấy một niềm lạc quan của
"những tia sáng ở cuối đường hầm". Gần đây công ty
Nano-C (Mỹ) tuyên bố khả năng sản xuất hằng tấn C60
cho giới công nghệ. Một nhà máy thí điểm tại Nhật
đang có khả năng chế tạo 40 tấn hằng năm và sẽ lên
đến vài trăm tấn khi nhà máy được nâng cấp. Phương
pháp sản xuất hàng loạt sẽ làm giảm giá C60 đến mức
$5/g và có thể $1/g trong một tương lai không xa.
Đây là một bước nhảy vĩ đại so với những năm đầu ở
thập niên 90 khi người ta chỉ thu lượm vài miligram
C60 ở mỗi lần tổng hợp khó khăn và giá cho mỗi gram
có lúc lên đến $1500/g. Nhà sản xuất dự đoán nhu cầu
C60 sẽ tăng nhanh trong vài năm tới cho việc chế
biến dược liệu, dầu nhớt cao cấp và mỹ phẩm trang
điểm.
Câu chuyện cô bé Lọ Lem mãi mãi là một câu chuyện
tình làm thổn thức nhiều con tim trẻ. Cô bé bị bà mẹ
ghẻ hành hạ lúc nào cũng phải quét dọn lò sưởi nên
mặt mũi dính đầy lọ nồi. Bà Tiên với chiếc đũa thần
biến nàng thành một tiểu thư đài các được trang điểm
cực kỳ diễm lệ để dự những buổi khiêu vũ của chàng
hòang tử độc thân đa tình. Có lẽ nàng được trang
điểm với những mỹ phẩm chứa C60, nàng sẽ đeo những
chuỗi kim cương carbon vô giá. Nhưng sau nửa đêm
nàng sẽ trở lại cô bé đầy lọ.... Nhìn từ quan điểm
của hóa học carbon, chuyện tình khi đượm tính khoa
học có thể làm thất vọng nhiều tâm hồn lãng mạn
nhưng tất cả chỉ là câu chuyện carbon ở những trạng
thái khác nhau!
Trở lại thực tế của thế kỷ 21. Khả năng áp dụng
fullerene trong công nghệ cao liên quan đến quang
học và quang điện tử đang được tích cực khảo sát ở
nhiều cơ quan nghiên cứu trên thế giới. Tạp chí
Journal of
Materials Chemistry xuất bản một số đặc
biệt tổng kết những thành quả mới nhất của nghiên
cứu fullerene [4]. Một trong ứng dụng có tầm quan
trọng đặc biệt là đặc tính photovoltaic của C60 tức
là khả năng biến năng lượng mặt trời thành điện còn
gọi là pin mặt trời. Loại pin nầy được chế tạo từ
C60 và polymer dẫn điện (electrically conducting
polymers). Mặc dù hiệu suất chuyển hoán năng lượng
vẫn chưa bì kịp pin mặt trời silicon đang được phổ
biến trên thương trường, loại pin mặt trời hữu cơ
nầy sẽ cho những đặc điểm không có ở silicon như dễ
gia công, giá rẻ, nhẹ, mỏng và mềm.
Ống Nano Carbon
Kroto vì niềm đam mê tái tạo những chuỗi carbon dài
trong các đám mây bụi vũ trụ tình cờ phát hiện
fullerene. Ngẫu nhiên nầy được nối tiếp với ngẫu
nhiên khác. Sáu năm sau (1991), tiến sĩ Sumio Iijima
một nghiên cứu viên của công ty NEC (Nhật Bản) cũng
vì niềm đam mê tìm hiểu fullerene lại tình cờ phát
hiện qua kính hiển vi điện tử ống nano carbon -
"người em họ" của C60 [5]. C60 có hình dạng quả bóng
đá, nhưng ống nano carbon (gọi tắt: ống nano) giống
như một quả mướp dài với đường kính vài nanometer
(nm) và chiều dài có thể dài đến vài trăm micrometer
(10-6 m), vì vậy có cái tên gọi "ống
nano" (Hình 1h và 5). Với đường kính vài nm ống nano
carbon nhỏ hơn sợi tóc 100 000 lần. Chỉ trong vòng
vài năm từ lúc được phát hiện, "người em họ" cho
thấy có rất nhiều ứng dụng thực tế hơn C60. Cấu trúc
hình ống có cơ tính (mechanical properties) và điện
tính (electrical/electronic properties) khác thường
và đã làm kinh ngạc nhiều nhà khoa học trong các cơ
quan nghiên cứu, đại học và doanh nghiệp trên thế
giới. Ống nano có sức bền siêu việt, độ dẫn nhiệt
cao (thermal conduction) và nhiều tính chất điện
tử thú vị. Với một loạt đặc tính hấp dẫn nầy nhiều
phòng nghiên cứu đã phải chuyển hướng nghiên cứu từ
C60 sang ống nano.

Hình 5: Ống nano carbon
Việc chế tạo ống nano có thể thực hiện bằng cách
phóng điện hồ quang (arc discharge) hoặc dùng laser
(laser ablation) trên một vật liệu gốc chứa carbon
hoặc phun vật liệu nầy qua một lò ở nhiệt độ 800 -
1200
°C
(chemical vapour deposition, CVD). Hình thành ống
carbon không phức tạp nhưng tạo ra những ống
nano giống nhau cùng đặc tính trong những đợt tổng
hợp khác nhau và sau đó tinh chế để gạn lọc tạp chất
đòi hỏi những điều kiện vận hành một cách cực kỳ
chính xác. Tùy vào điều kiện chế tạo và vật liệu gốc
người ta có thể tổng hợp ống nano một vỏ
(single-wall carbon nanotube, SWNT), vỏ đôi
(double-wall carbon nanotube, DWNT) và nhiều vỏ
(multi-wall carbon nanotube, MWNT). MWNT là một tập
hợp của SWNT giống như con búp bê Nga (Russian doll)
(Hình 6). Ống nano được Iijima phát hiện đầu tiên
thuộc loại MWNT. Richard Smalley (Rice University)
một lần nữa đã phát huy tài năng của mình qua phương
pháp laser để chế tạo SWNT với hiệu suất rất cao.
Phương pháp nầy đã được thương mãi hóa để sản xuất
SWMT cho công nghệ. Giá cho SWNT và DWNT tinh chế
vẫn còn rất cao ở mức $500/g. MWNT dễ tổng hợp hơn
SWNT nên giá ở mức $100/g. Gần đây Mitsui (Nhật Bản)
có thể sản xuất 120 tấn MWNT/năm cho nhu cầu công
nghệ với giá $75/kg.

Hình 6: Ống nano carbon nhiều vỏ (MWNT) chụp bằng kính hiển vi điện tử.
Khoảng cách giữa hai vỏ là 0.34 nm
và đường kính của
vỏ ngoài cùng là
6.5 nm [5].
Người ta đã định được độ bền (strength) và độ cứng
(stiffness, Young's modulus) của ống nano. Kết quả
thí nghiệm cho thấy ống nano bền hơn thép 100 lần
nhưng nhẹ hơn thép 6 lần. Như vậy, có thể nói là ống
nano là một vật liệu có cơ tính cao nhất so với các
vật liệu người ta biết từ trước đến nay. Tuy nhiên,
một vấn đề lớn hiện nay cho các nhà vật liệu học
(materials scientist) là làm sao xe những ống nano
thành tơ sợi (nanotube fibres) cho những ứng dụng
thực tế mà vẫn giữ được cơ tính tuyệt vời cố hữu của
các ống nano tạo thành. Nhóm nghiên cứu của giáo sư
Ray Baughman (University of Texas, Mỹ) [6] đã phát
minh ra một quá trình xe sợi ống nano cho ra sợi với
cơ tính cao hơn thép và tương đương với tơ nhện
(spider silk). Tơ nhện được biết là một loại tơ
thiên nhiên có cơ tính cao nhất trong các loại tơ
sợi. Kinh nghiệm cho thấy một con ruồi bay với tốc
độ cao nhất vẫn không bao giờ làm thủng lưới nhện.
Nếu sự kiện nầy được phóng đại vài chục ngàn lần để
sợi tơ nhện có đường kính bằng cây bút chì, sợi tơ
có thể kéo ngừng lại chiếc phi cơ 747 đang bay trên
không!
Mặc dù độ cứng của sợi ống nano do nhóm Baughman làm
ra chỉ bằng 1/10 độ cứng của từng ống nano riêng lẻ,
sợi Baughman vẫn chưa phải "siêu cứng" nhưng đã hơn
hẳn Kevlar [7] về sức bền và nếu điều kiện sản xuất
hàng loạt cho phép nó có thể thay thế Kevlar dùng
trong những chiếc áo giáp cá nhân chống đạn trong
tương lai. Quá trình xe sợi của nhóm Baughman chứng
tỏ khả năng chế tạo sợi ống nano với những cơ tính
vĩ mô càng lúc càng gần đến cơ tính ở thang phân tử.
Quá trình nầy đã kích động nhiều nhóm nghiên cứu
khác trong cuộc chạy đua chế tạo ra một loại sợi
siêu cứng, siêu bền và siêu hữu ích chưa từng có
trong lịch sử khoa học kỹ thuật.
Với dạng hình ống dài và cơ tính lý tưởng, ống nano
carbon được cho vào các loại polymer (plastic) để
tạo những sản phẩm nano-composite [8]. Thật ra,
composite dùng những chất độn (filler) có hình
dài để tăng cơ tính không phải là những gì mới lạ.
Từ 6000 năm trước nhân loại đã trộn bùn với rơm để
làm gạch. Ở những vùng sâu vùng xa người dân vẫn còn
dùng đất sét và rơm để làm tường. Hiện tại, chất độn
kim loại hay ceramic là những vật liệu phổ biến được
dùng trong polymer để tăng cường cơ tính thay thế
kim loại. Người ta tin rằng ống nano carbon sẽ là
một chất độn "tối thượng" cho polymer
nano-composite. Vài phần trăm ống nano carbon có
thể gia tăng độ bền, độ cứng và độ dai (toughness)
của polymer (plastic) lên nhiều lần. Các công ty chế
tạo ô tô đang triển khai polymer nano-composite cho
các bộ phận xe hơi. Đặc điểm của các composite nầy
là nhẹ và bền chắc. Công ty ô tô GM (Mỹ) dự trù sẽ
dùng 500 tấn ống nano/năm trong vòng vài năm tới.
Một cơ tính khác của ống nano đang được khảo sát
hiện nay là đặc tính làm giảm sốc (shock damping),
chống rung [9]. Tính chất rất quan trọng nầy sẽ mang
đến những ứng dụng dân sự lẫn quốc phòng.
Điện tính và đặc tính điện tử của ống nano đã thu
hút nhiều sự chú ý của các nhà vật lý và thiết kế
điện tử vi mạch. Nhờ ở dạng hình ống và các electron
tự do pi trong ống, các electron tự do có thể
tải điện nhưng ít chịu sự phân tán electron (gọi là
ballistic conduction). Sự phân tán electron là
nguyên nhân điện trở gây ra sự phát nhiệt thường
thấy ở chất bán dẫn hay kim loại. Nói một cách khác,
ống nano có khả năng tải điện hữu hiệu vì ít phát
nhiệt.
Công
nghiệp điện tử được xây dựng và phát triển dựa vào
kỹ thuật thu nhỏ. Transistor là một linh kiện chính
trong các mạch điện. Phương pháp "từ trên xuống" đã
được áp dụng để thu nhỏ transistor có độ to khoảng
vài cm ở thời điểm phát minh (năm 1947) cho đến ngày
hôm nay thì đến bậc nanometer; vài triệu lần
nhỏ hơn. "Định luật" Moore (Moore's law) [10] cho
biết rằng cứ mỗi hai năm mật độ của các transistor
được nhồi nhét vào một silicon
chip
sẽ tăng gấp đôi nhờ vào kỹ thuật chế biến thu nhỏ và
đặc tính của silicon. Định luật đã đúng hơn 40 năm
qua kể từ năm 1965 và cũng sẽ tiếp tục đúng trong
vòng 10 năm tới. Lúc đó đặc tính thu nhỏ của silicon
sẽ đến một mức bảo hòa và dừng lại ở một kích thước
nhất định nào đó.
Độ
nhỏ nhất có thể đạt được của một silicon
chip
là 180 nm và cũng là giới hạn trong kỹ thuật làm
chip hiện nay. "Độ lớn" 180 nm rất nhỏ (nhỏ hơn sợi tóc 500
lần) và hiệu năng tải điện của silicon càng giảm vì
càng nhỏ sự phát nhiệt càng cao. Tuy nhiên 180 nm
vẫn còn rất to so với đường kính vài nm của ống
nano. Ở kích thước nầy ống nano vẫn còn có thể tải
điện mà không sợ phát nhiệt. Như vậy, đặc tính tải
điện không phát nhiệt và khả năng tạo thành các linh
kiện điện tử như diode và transistor của ống nano
ở kích thước phân tử chỉ ra một hướng nghiên cứu mới
là nano-điện tử (nano-electronics) nối tiếp vai trò
thu nhỏ của vi điện tử (micro-electronics) mà
silicon đang ở địa vị độc tôn.
Một đặc tính khác của ống nano là sự phát xạ trường
(field emission). Khi điện thế được áp đặt vào một
đầu của ống nano đầu kia sẽ liên tục phát
ra electron [11]. Đã có nhiều vật liệu hoặc trang
cụ (thí dụ: ống tia âm cực, cathode ray tube) có đặc
tính phát xạ trường nhưng ống nano có thể vận hành ở
điện thế thấp, phát xạ trong một thời gian dài mà
không bị tổn hại. Áp dụng trực tiếp của phát xạ
trường là màn hình TV và vi tính. Đây là một công
nghệ mang lại hằng tỉ Mỹ kim mỗi năm. Màn hình mỏng
tinh thể lỏng đang thay thế dần các màn hình ống tia
âm cực nặng nề, kềnh càng. Ống nano có thể làm màn
hình mỏng hơn nữa, rõ nét và dùng điện 10
lần ít hơn. Đặc tính phát xạ trường của ống nano cho
thấy khả năng thay thế màn hình tinh thể lỏng trong
một tương lai gần mặc dù màn hình nầy hiện rất thông
dụng và đang được ưa chuộng. Tập đoàn Samsung (Hàn
Quốc) tích cực thương mãi hoá màn hình ống nano.
Ngoài ra, ống nano còn cho nhiều áp dụng khác chẳng
hạn dùng trong bộ cảm ứng (sensor) để phát hiện ánh
sáng, nhiệt, sóng điện từ hoặc những hóa chất độc
hại với độ nhạy rất cao. Ống nano tự thân hoặc kết
hợp với polymer dẫn điện để biến chế thành cơ bắp
nhân tạo (artificial muscle, actuator). Cơ bắp nhân
tạo là một mô phỏng của cơ bắp sinh vật biến đổi
điện năng thành cơ năng; khi có một dòng điện chạy
qua cơ bắp sẽ cho một tác lực. Cơ bắp nhân tạo là
một trong những bộ phận quan trọng tạo thành con
robot hoặc hệ thống cơ điện vi mô (micro
electromechanical system, MEMS). Nhóm nghiên cứu của
giáo sư Gordon Wallace và Geoff Spinks (University
of Wollongong, Úc) có những thành quả nổi bật trong
lĩnh vực nầy. Ống nano cũng có mặt trong sinh học.
Một báo cáo khoa học mới đây cho biết tế bào xương
rất tương thích (compatible) với ống nano [12]. Ống
nano được sử dụng như giàn giáo (scaffold) để các tế
bào xương tăng trưởng và phát triển. Đây là kết quả
rất quan trọng có thể triển khai để cách mạng hóa
việc ghép và trị liệu xương.
*******
Trong lĩnh vực áp dụng, ống nano hơn hẳn người anh
cả fullerene. Khi những nhà khoa học cùng với các
doanh nhân loay hoay tìm kiếm một hướng đi thực dụng
cho C60 thì bỗng nhiên thấy kho tàng ống nano hiện
ra trước mắt. Quả bóng đá C60 đã đem giải Nobel cho
Kroto, Curl và Smalley, nhưng ống nano đang đem đến
con người nhiều áp dụng thực tiễn và một cuộc cách
mạng khoa học chưa từng có bao trùm tất cả mọi hoạt
động kinh tế xã hội mà ở thời điểm phát hiện Sumio
Iijima có thể chưa hình dung hết. Sự khám phá
fullerene và ống nano carbon đang làm thay đổi toàn
diện bộ mặt phát triển khoa học và công nghệ của thế
kỷ 21. Cơ tính, điện tính, sự truyền nhiệt và tính
dẫn điện đặc biệt của ống nano đưa đến hàng trăm đặc
tính hữu dụng khác nhau đã kích thích vô số nghiên
cứu cơ bản đa ngành cũng như những nghiên cứu
ứng dụng từ vật liệu học đến điện tử học, từ vật lý
đến y học.
Những kết quả nghiên cứu đã cho thấy ống nano đang
trở thành một bộ phận cấu thành chủ yếu cho các dụng
cụ điện tử tương lai. Sự hiện diện của ống nano
trong các áp dụng điện tử học đã làm các nhà thiết
kế vi mạch phải suy nghĩ lại cơ cấu vận hành của các
công cụ máy móc dựa trên silicon chip.
Liệu ống nano sẽ bổ sung cho silicon trong tương
lai hay thời đại silicon sẽ chấm dứt để nhường bước
cho thời đại ống nano? Dù ở kịch bản nào, những linh
kiện điện tử sẽ phải thu nhỏ đến thang phân
tử. Phương pháp "từ trên xuống" sẽ được thay thế
bằng phương pháp "từ dưới lên". Chúng ta sẽ thấy
transistor phân tử (molecular transistor), diode
phân tử, tụ điện phân tử v.v.... Thời đại phân tử
điện tử học (molecular electronics) sẽ xuất hiện với
những định luật mới dựa trên cơ học lượng tử và một
loạt dụng cụ điện tử thu nhỏ ở kích thước nano.
Chúng ta đang vươn tới nền công nghệ nano. Liệu lúc
đó ống nano có là một vật liệu chủ yếu như silicon
trong ngành vi điện tử hiện tại? Chúng ta hãy chờ
xem.
25 April 2006 (Shizukana aki no hi)
(Đã
đăng trên mạng
erct.com, khoahoc.net. Có bổ sung cho
Vietsciences)
Ghi Chú và Tài Liệu Tham Khảo
1.
Đường
kính một nguyên tử vào khoảng 0.1 nm.
2.
Phương pháp "từ trên xuống" là dùng những vật liệu
to rồi biến chế thành những công cụ nhỏ. Một thí dụ
điển hình của phương pháp nầy là chế tạo silicon
chip cho
máy vi tính. Chip được chế tạo càng lúc càng
nhỏ để làm ra những máy vi tính càng hữu hiệu, gọn
và mỏng. Một thí dụ của phương pháp "từ dưới lên" là
quá trình tổng hợp protein của các vật sống (living
body). Phân tử DNA tạo ra RNA để chuyển hóa tạo ra
protein với các chức năng khác nhau. Các protein lại
kết hợp với nhau để tạo ra tế bào ở một bậc cao hơn
rồi sau đó tạo ra vật thể. Quá trình thụ tinh tạo
phôi rồi tạo ra sinh vật và con người là một thí dụ
tương tự. Trong ngành công nghệ nano chúng ta đang
bắt chước thiên nhiên trong quá trình "từ dưới
lên".
3.
E.
Osawa, "Super-aromaticity", Kagaku
(Chemistry) 1970, 25 (9), 854
4.
"Functionalised Fullerene Materials", Journal of
Materials Chemistry 2002, 12 (7)
5.
S.
Iijima, "Carbon nanotubes", MRS Bulletin
November 1994, volume XIX, 43
6.
A. B. Dalton, S. Collins, E. Muñoz, J. M.
Razal, V. H. Ebron, J. P. Ferraris, J. N. Coleman,
B. G. Kim and R. H. Baughman, "Super-tough
carbon-nanotube fibres", Nature 2003,
423, 703
7.
Kevlar là thương hiệu của sợi
poly-paraphenylene terephthalamide
được dùng trong áo giáp và mũ cối quân đội.
8.
Composite là vật liệu hỗn hợp của (ít nhất) hai vật
liệu riêng biệt với những đặc tính bổ sung cho nhau.
Bùn và rơm là một thí dụ. Bê tông cũng là một dạng
composite.
9.
J.
Suhr, N. Koratkar, P. Keblinski and P. Ajayan,
"Viscoelasticity in carbon nanotube composites",
Nature Materials 2005, 4, 134
10.
"Định
luật" nầy không đi từ lý thuyết mà chỉ dựa vào sự
cảm nhận của Gordon Moore, một trong những nhà sáng
lập của công ty Intel.
11.
P. G.
Collins and P. Avouris, "Nanotubes for
electronics", Scientific American
December 2000, 62
12.
L. P.
Zanello, B. Zhao, H. Hu, R. C. Haddon, "Bone cell
proliferation on carbon nanotubes", Nano Lett.
2006, 6, 562
|