|
Kể từ ngày hồng bàng lập quốc cho
đến nay, nước Việt Nam đã có
gần năm ngàn năm lịch sử (kể từ
năm Nhâm Tuất) 2879 trước Thiên Chúa),
trải qua mười tám đời vua Hùng Vương
cho đến các triều đại Ngô, Đinh, Lê,
Lý Trần, Nguyễn,... nước Việt Nam đã
chịu biết bao nỗi thăng trầm lịch
sử của các thời thịnh trị và loạn
lac. Để giữ vững đất nước,
tự vệ chống ngoại xâm từ phương
bắc và mở mang bờ cõi lấn chiếm về
phương nam, tổ tiên Việt Nam cũng đã
khéo léo phối hợp trong việc xử "VĂN"
dùng "VÕ", để tạo nên được
một dãy giang san cẩm tú như ngày hôm nay. Do
đó, người xưa đã có câu:
Văn quan cầm bút an thiên hạ,
Võ tướng đề đao định thái bình.
Qua hai câu trên, chứng tỏ rằng người xưa
chẳng những học văn mà còn chú trọng
đến việc rèn luyện võ thuật để
chống giặc, dẹp loạn, ngõ hầu mang
lại thanh bình cho xứ sở. Nhìn chung vào toàn
bộ lịch sư tranh đấu của dân
tộc Việt Nam, nền võ học Việt Nam đã
đóng một vai trò rất quan trọng, trong
vận mạng thịnh suy của đất nước.
Bởi vì, những vị anh hùng dân tộc, phần
lớn đều xuất thân từ giới võ
học, đã tiên phong mang tài thao lược võ dũng
và võ trí để góp công vào cuộc lập
quốc và kiến quốc. Do đó, để tìm
hiểu lịch sử võ học Việt Nam, chúng tôi
xin được căn cứ trên bối cảnh
lịch sử và thứ tự thời gian, trong
bộ "Việt Nam sử lược", của
học giả Trần Trọng Kim làm căn bản,
để phân chia lịch sử võ học Việt
Nam ra làm bốn thời kỳ chính yếu như sau:
Thượng cổ thời đại, Bắc
thuộc thời đại, Tự chủ thời
đại, và Cận kim thời đại.
Thượng cổ thời đại (2879 – 110 trước
Thiên Chúa)
Căn cứ vào lịch sử tiến hóa của nhân
loại, võ học đã có một nguồn gốc sâu
xa trong quá khứ, từ khi con người còn
sống trong các hang động, chỉ biết ăn
sống thịt thú rừng, cây cỏ, và sự sinh
hoạt còn quá phôi thai, rời rạc. Đó là
thời tiền sử, theo các nhà khảo cổ
học, thời tiền sử được chia ra làm
bốn thời kỳ chính: Thời cựu thạch
(thời đá đẽo), thời trung thạch
(thời đá mài), và thời kim khí.
Trong thời cựu thạch (đá đẽo),
khởi đầu vì bản năng sinh tồn, trong
cảnh sống chống chọi với thiên nhiên, mà
con người đã biết vận dụng sức
mạnh lao động của thể xác để
tự vệ và tranh đấu với các loại
vật sống chung quanh mình. Từ đó, các động
tác và các dụng cụ thô sơ dùng làm khí
giới, để chiến đấu của
thời khai nguyên đã được chớm
nở. Mặc dù, trong thời tiền sử con người
chưa biết dùng chữ viết để ghi chép
lại những biến cố xảy ra trong cuộc
sống hàng ngày, nhưng các nhà khảo cổ cũng
đã tìm hiểu được sự sinh hoạt
của nhân loại vào thời xa xưa qua những
di tích còn để lại.
Riêng tại Việt Nam, những di tích thuộc vào
thời cựu thạch (đá đẽo) như các
món binh khí: búa, rìu, dao, nạo, dùi, cào, ... làm
bằng loại đá đẽo đã được
các nhà khảo cổ Việt Nam tìm thấy tại các
vùng đất Thanh hóa, Lạng Sơn, Vĩnh Phú,
thuộc miền Bắc Việt Nam. Ở hang Thượng
Phú thuộc miền Trung Việt Nam, nhà khảo
cổ M. Colani đã tìm thấy được
những hình ảnh khắc vẽ trên vách đá,
giống như một người thợ săn tay
đang cầm cây lao để nhắm hướng lên
một con chim đang bay lượn trên không trung,
trong khi ở bên dưới là hình ảnh của
những chiếc đầu thú vật có sừng.
Ngoài ra, xuyên qua những bức tranh họa trên da thú
rừng hoặc được khắc trên những
phiến đá được lưu trữ tại các
viện bảo tàng Việt Nam, chúng ta còn nhận
thấy được hình ảnh của những
chiếc thạch côn trong thời đại đá
đẽo. Với những di tích vừa kể trên
cũng đã nói lên được một phần nào
sự liên quan đến khoa chiến đấu
của tổ tiên Việt Nam trong thời đó.
Đến thời đại trung thạch (đá mài)
con người vẫn nhờ vào võ công của mình
để làm phương tiện mưu sinh căn
bản cho cá nhân và gia đình, rồi dần
dần với đà tiến bộ biết cách
trồng trọt, nuôi thú vật, con người
đã tạo được sự bảo đảm
về mặt thực phẩm, rồi sự sinh
sản gia tăng, con người mới bắt đầu
sống định cư, thành tập đoàn dưới
hình thức bộ lạc. Theo quan điểm của
các nhà khảo cổ học đã ghi nhận, đây
là thời kỳ tân thạch, con người bắt
đầu biết sống tập đoàn và có chút
ít sống văn minh, tiến bộ lần tới
thời đại kim khí.
Theo các sử gia và các nhà khảo cổ học
Việt Nam, vào đời vua Hùng Vương chính là
thời đại kim khí cực thịnh, tổ tiên
người Lạc Việt đạt được
một sự tiến bộ lớn lao về phương
diện kỹ thuật và mỹ thuật. Tổ tiên
Việt Nam đã tìm được các quặng
mỏ đồng, sắt, ... và biết cách áp
dụng phương pháp luyện kim (những kỹ
thuật pha chế thành hợp kim) để sản
xuất ra các dụng cụ và binh khí sắt bén như:
rìu đồng, trống đồng, đồng côn,
thiết côn, dao, búa, cào bằng sắt cho các vị
Lạc tướng và binh sĩ dùng để đánh
giặc.
Trong những di tích đào được ở các vùng
đất núi Việt Nam, người ta nhận
thấy có những món binh khí bằng kim loại
rất là mỹ thuật như rìu đồng và
trống đồng.
Rìu đồng là một dụng cụ để
chặt chém, và cũng là một loại binhkhí dùng
để đánh giặc. Trên những rìu đồng
này, phần lớn đều được
trạm trổ hình kỷ hà, hoặc là những hình
ảnh sinh hoạt của con người thời
đó. Những hình vẽ thường là hình
ảnh bơi thuyền, nhảy múa, săn bắn thú
vật, và những động tác đấu võ.
Trống đồng là một loại nhạc cụ
dùng để tạo ra những âm thanh hòa tấu
trong những buổi lễ, đặc biệt trong
thời vua Hùng Vương đã biết dùng
trống đồng làm một loại binh khí
bằng âm thanh, để khích động tinh
thần tướng sĩ, cũng như ra hiệu
lệnh cho binh sĩ trong lúc đánh nhau. Loại
trống đồng này đã được tìm
thấy rất nhiều tại các vùng đất
thuộc các tỉnh miền Bắc Việt Nam như
Thanh Hóa, Hà Đông, Bắc Ninh, Cao bằng, Hà Nam, Hà
Nội, Hòa Bình, Yên Bái, Hải Dương, Nghệ
An, ... Trên mặt trống đồng có trạm
vẽ hình ảnh và sự sinh hoạt của
thời đó rất là đẹp đẽ. Điều
này đã chứng tỏ được tinh thần
mỹ thuật của tổ tiên Việt Nam đã bước
tiến rất cao xa.
Một di tích khác mà hiện nay còn lưu lại
tại tỉnh Phúc Yên (Bắc Việt) đó là thành
Cổ Loa, với kiến trúc cổ kính đầy tính
cách quân sự, vòng thành xoắn theo hình trôn ốc,
với sự bố trí rất thuận lợi cho
việc phòng thủ, chống giặc từ bên ngoài.
Đây cũng là một di tích đã nói lên
được một khoa võ học quân sự có
tổ chức trong triều đại An Dương
Vương (257 – 207 trước Thiên Chúa), với năm
mươi năm làm vua, sau khi Thục Phán đã
đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 để
đổi tiên nước từ Văn Lang thành nước
Âu Lạc.
Bắc thuộc thời đại (207 trước
Thiên Chúa đến 939 sau Thiên Chúa)
Sau khi đánh bại được vua An Dương
Vương, Triệu Đà là một vị quan úy
ở quận Nam Hải liền sát nhập Nam
Hải vào nước Âu Lạc lập thành một
nước tự chủ, đặt tên là Nam
Việt, làm vua được năm đời.
Đến năm 111 trước Thiên Chúa, nhà Hán bên
Tàu đánh chiếm nước Nam Việt rồi
đổi thành Giao Chỉ Bộ (Giao Châu) đặt
quan cai trị như các châu quận của nước
Trung Hoa.
Vào năm 40 sau Thiên Chúa, hai chị em Trưng
Trắc và Trưng Nhị người huyện Yên lăng,
tỉnh Phúc Yên, đầu tiên cầm gươm
cỡi bạch tượng, điều khiển nghĩa
quân đánh đuổi quan quân Thái Thú Tô Định,
và chiếm được sáu mươi lăm thành
trì, rồi hai bà lên làm vua dành quyền độc
lập, giải phóng nước nhà ra khỏi ách
đô hộ của người Tàu được
ba năm. Sự kiện này đã viết lên
được một trang võ sử oai hùng cho dân
tộc Việt Nam nói chung, và cho nữ giới
Việt Nam nói riêng.
Mãi đến năm 248 sau Thiên Chúa, noi gương
hai bà Trưng, bà Triệu Ẩu, người
huyện Nông Cống tỉnh Thanh Hóa cỡi bạch
tương mặc áo giáp vàng, cùng với một ngàn
nghĩa quân đứng lên chống với quân Thái
Thú Lục Dận, cầm cự một thời gian
ngắn, quân của bà chống cự không lại, bà
đành tự tử. Đây là một điểm
son thứ hai cho nữ giới trong lịch sử
Việt Nam.
Năm 542, Lý Bôn, một vị anh hùng dân tộc
đã đứng lên đánh đuổi quân Tàu
để làm vua, dựng nên nghiệp nhà Tiền Lý.
Đến năm 602, Lý Phật Tử thuộc
hậu Lý Nam Đế vì thế yếu nên xin hàng
phục vua nhà Tùy. Kể từ đó, Giao Châu
lại lệ thuộc nước Tàu lần thứ
ba. Mãi cho đến năm 939 sau Thiên Chúa, người
Việt mới dành lại được quyền
tự chủ.
Vào thế kỷ thứ hai, song song với việc du
nhập các tôn giáo Phật, Khổng, Lão và Việt
Nam, ngành võ học từ Ấn Độ và Trung Hoa
cũng được các vị thiền sư, đạo
sĩ mang đến qua hai con đường thủy
và đường bộ do hai cách được ghi
nhận như sau:
_ Do các đạo sĩ Trung Hoa sang đất Giao Châu
(Bắc Việt Nam) để lánh nạn vì năm
189 sau Thiên Chúa, sau khi vua Hán Linh Đế mất, nước
Trung Hoa có nhiều loạn lạc. Nhân cơ hội
này các vị đạo sĩ đã giới
thiệu đạo Khổng và Lão cũng như các
phương pháp thể dục dưỡng sinh,
thổ nạp chân khí (tức là cách luyện khí).
Trong số đó có ngài Mâu Bác (Meou-Po) rất tinh thông
tam giáo, về sau ngài phát tâm theo Phật giáo.
_ Do các vị thiền sư Ấn Độ sang
đất Giao Châu (Bắc Việt Nam) để
truyền báo đạo Phật, hoặc có một
số ghé ngang qua Giao Châu, trước khi sang Tàu vào
thế kỷ thứ ba. Trong số các vị
thiền sư Ấn Độ được ghi
nhận như Chí Cương Lương (Tche-Kiang
Leang), Khương Tăng Hội (K'ang Seng Houei), Ma Ha
kỳ Vực (Marjivaka ha La Jivaka)... Vào năm 247, vua Ngô
Tôn Quyền thấy ngài Khương Tăng Hội
thi triển nhiều phép lạ đem lòng tín
phục và xây chùa ở thành Kiến Nghiệp (Nam
Kinh bây giờ) để ngài tu trì và giảng
dạy Phật học. Trong sách "Cao Tăng
Truyện" có ghi: "Ông Ma Ha Kỳ Vực
gốc ở Ấn Độ, đi du lịch các nước,
đến Founan theo đường Giao Châu và
Quảng Châu (bắc Việt và Quảng Đông bây
giờ), đến nơi nào ngài cũng làm phép
lạ. Khi đến Tương Dương, ngài
muốn qua đò nhưng người lái đò
thấy ngài quần áo rách rưới không cho
xuống. Nhưng đến khi đò ngang cập
bến, mọi người đều lấy làm
lạ vì thấy ngài đã ở bên này sông
rồi."
Vào thời kỳ này, mặc dù võ học đã
được mang đến do các vị thiền sư,
đạo sĩ nhưng vẫn chưa được
phổ biến sâu rộng trong dân gian.
Mãi đến năm 580, vị thiền sư Tì Ni
Đa Lưu Chi (Vinitaruci) từ Tây Trúc đã chánh
thức mang đến Việt Nam ngành đạo
thiền tông đầu tiên ở nước
Việt Nam, tại chùa Pháp Vân (nay thuộc tỉnh
Bắc Ninh), truyền được 19 đời
(580 – 1216). Năm 820, vị sư Trung Hoa là ngài Vô
Ngôn Thông đến chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh)
lập nên thiền phái thứ hai, truyền
được 14 đời (820 – 1221).
Kể từ đó, các môn võ lâm cổ truyền
từ Ấn Độ cũng như các môn Thiếu
Lâm nam và Bắc phái của ngài Bồ Đề
Đạt Ma từ Trung Hoa bắt đầu xuất
hiện tại Việt Nam.
III. TỰ CHỦ
THỜI ĐẠI (939-1802 SAU THIÊN CHÚA)
Năm 939, sau khi Ngô Quyền thắng trận Bạch
Đằng Giang, đánh đuổi được
quân Nam Hán và giết được Thái Tử
Hoằng Thao, Ngô Quyền đã thật sự
giải phóng cho dân Việt khỏi ách ngàn năm
đô hộ của người Tàu, và cũng
mở đường cho các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn về sau được
tự chủ ở phương Nam.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp xong
lạon thập nhị sứ quân, lên ngôi vua đạt
lại quốc hiệu là Đại Cồ Việt,
ngài lo việc tổ chức binh bị và chỉ
thị cho binh sĩ tập trận đánh Trường
Tiên, mà sau này dân Việt gọi là Trung Bình Tiên hay
roi Quang Trường, để áp dụng vào
việc chống giặc, giữ gìn bờ cõi.
Về binh đội, ngài phân chia ra làm Đạo,
Quân, Lữ, Tốt, Ngũ. Mỗi Đạo quân có
10 Quân, mỗi Quân có 10 Lữ, mỗi Lữ có 10
Tốt, mỗi Tốt có 10 Ngũ, mỗi Ngũ có
10 người.
Năm 980, vua Lê Đại Hành nhờ vào việc
tổ chức binh bị hùng mạnh của nhà Đinh
để lại mà đã tạo được
nhiều chiến công hiển hách trong việc
dẹp nội loạn, cũng như phá được
dại quân Tống ở phương Bắc, bình
được Chiêm Thành ở phương Nam. Do
đó vua Lê đã tạo được thanh thế
rất lừng lẫy.
Năm 1010, Lý Công uẩn tiếp nối nghiệp
đế của nhà Lê để sáng lập ra nhà
Tiền Lý, truyền ngôi được chín đời.
Lý Công Uẩn là vị vua rất giỏi võ lâm,
xuất thân từ cửa thiền ngay từ nhỏ
đã theo nhà sư Lý Khánh Vân làm con nuôi, được
học võ lâm và đạo thiền tại chùa
Cổ Pháp. Khi lớn lên nờ tài văn võ mà
được nhà tiền Lê bổ nhiệm chức
Quân Tả Thần Vệ Điện Tiền Chỉ
Huy Sứ. Khi lên ngôi, vua Lý Thái Tổ rất
trọng đãi giới tu hành, Phật giáo cũng
được chọn làm quốc giáo, song song
với thiền tông, nhà vua cũng phát động
việc huấn luyện môn võ lâm cổ truyền
cho các quan viên, quân sĩ, cũng như các hoàng
tử đều phải luyện tập võ lâm ngay
từ thuở nhỏ. Khi lớn lên, các hoàng tử
đều giỏi võ lâm và cách dùng binh. Muốn
được phong vương các hoàng tử đều
phải đích thân cầm binh đánh giặc để
lập chiến công.
Năm 1054 – 1072, để gia tăng hiệu quả
về binh bị, vua Lý Thánh Tông lo việc định
quân hiệu, chia phân quân đội ra làm Tả,
Hữu, Tiền, Hậu. Tất cả là bốn
bộ, hợp lại là một trăm đội,
mỗi đội đều có lính kỵ và lính
bắn đá còn những phiên binh thì lập ra thành
đội riêng biệt, không cho lẫn lộn
với nhau. Binh pháp nhà Lý vào lúc bấy giờ có
tiếng là giỏi, nhà Tống bên Tàu đã
phải bắt chước. Điều này cũng làm
vẻ vang cho con dân đất Việt.
Năm 1072 – 1127, vua Lý Nhân Tông còn chia võ ban ra làm chín
phẩm. Quan đại thần có Thái Sư, Thái Phó,
Thái úy, Thiều Sư, Thiếu Phó, Thiếu Úy. Còn
phái dưới có Đô Thống, Nguyên Súy, Tổng
Quản Khu mật Sứ, Khu Mật Tả Hữu
Sứ, Kim Ngô Thượng Tướng, Đại Tướng,
Đô Tướng, Chu vệ Tướng Quân, ... Vào
thời này, cũng nên kể đến danh tướng
Lý Thường Kiệt, một võ tướng tài ba
thao lược cũng đã lập được
nhiều chiến công rực rỡ trong cuộc
dẹp nội loạn, bên ngoài phá Tống bình Chiêm
Thành.
Năm 1125 – 1400, tiếp nối nhà Lý các vua nhà
Trần chú trọng đến việc chỉnh đốn
binh bị. Vua Trần Thái Tông ra luật tổng
động viên, tất cả những dân trai tráng
đều phải đi lính. Ngài cho mở nhiều
"Giảng Võ Đường" để
huấn luyện võ lâm cho dân chúng. Để trông
nom binh bị tại triều đình, vua đặt
ra các chức: Phiêu Kỵ Thượng Tướng
Quân, Cẩm Vệ Thượng Tướng Quân, Kim
Ngô Đại Tướng Quân, Võ vệ Đại
Tướng Quân, Phó Đô Tướng Quân, ... và
ở ngoài, có các chức Kinh Lược Sứ, Phòng
Ngự Sử, Thứ Ngự Sử, Quan Sát Sử,
Đô Hộ, Đô Thống, Tổng Quản, ... Binh
lính được chia thành Quân và Đô, mỗi Quân
có ba chục Đô, mỗi Đô có tám chục người
được xếp vào Quân và Đô. Binh lính
phải luôn luôn luyện tập võ lâm, sẵn sàng
trong tình trạng chiến đầu. Binh lực
của nhà Trần lúc này rất hùng mạnh, ba quân
tướng sũ rất là thương yêu lẫn
nhau. Vì vậy, đã hơn ba lần thắng
được giặc nhà Nguyên, đánh đuổi
hơn năm chục vạn quân Mông Cổ ra
khỏi bờ cõi vào năm 1284 – 1288, dưới
sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn, cùng với sự hợp
lực của các võ tướng như Trần Quang
Khải, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão
đã chiến thắng trận Chương Dương
Đô.
Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão, Hưng Võ Vương
Nguyên, Hưng Hiếu Vương Úy cùng với Hưng
Đạo Vương đã đánh thắng quân
Nguyên tại trận Vạn Kiếp, đến
nổi tướng Mông Cổ là Thoát Hoan thua
phải bỏ chạy về nước. Trần Khánh
Dư cướp lương thực của quân Nguyên
tại trận Vân Đồn. Tại trận
Bạch Đằng Giang, Hưng Đạo Vương
đại thắng bắt được Ô Mã Nhi và
Trần Nhật Duật đã phá quân của Toa
Đô ở trận Hàm Tử Quan.
Đây là những chiến công rất hiển hách,
vẻ vang nhất trong lịch sử vì với
một đế quốc Mông Cổ lớn mạnh
nhất vào thời bấy giờ, có một binh
lực viễn chinh hùng mạnh, đã từng làm mưa
làm gió tại các chiến trường lớn trên
thế giới, đã chiến thắng thôn tính
được nhiều dân tộc lớn trên
thế giới như đã thôn tính được
nước Trung Hoa, chiếm được Tây Bá
Lợi Á, xâm lăng Trung Âu, uy hiếp được
Áo và Đức... Thế mà khi đến bờ cõi
Việt Nam, họ phải nếm mùi thật trận
hơn ba lần. Hơn ba lần chiến thắng
vinh quang của dân tộc Việt đối với
kẻ thù số 1 của loài người trong
thời đó, đã chứng tỏ được
dân tộc Việt là một dân tộc oanh liệt
đứng hàng đầu trên thế giới.
Trong lúc chống với giặc Mông Cổ, Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã
soạn ra bộ "Binh Thư Yếu Lược".
Đây là bộ sách tập hợp các phương
pháp dùng binh đánh giặc của những danh gia trên
thế giới để huấn luyện cho quân sĩ.
Năm 1400, sau khi cướp được ngôi nhà
Trần, Hồ Quý Ly lo chỉnh đốn việc
binh bị để đề phòng chống với
giặc Minh. Hồ Quý Ly bắt dân kê khai hộ
tịch rất cẩn thận rồi tuyển dân vào
làm lính để gia tăng số binh sĩ, và chia
quân đội ra làm bộ binh, và thủy binh. Ngoài
ra còn thành lập bốn kho quân trang quân dụng, và
tuyển dụng người có kỹ thuật vào làm
việc ở xưởng sản xuất binh khí.
Về thủy binh, để đề phòng giữ
mặt sông và biển, Hồ Quý Ly cho làm ra những
chiến thuyền lớn, ở trên có sàng đi,
ở dưới cho người chèo chống,
thật là tiện lợi trong việc chiến đấu.
Ở các cửa bể và nơi hiểm yếu
của các sông lớn, Hồ Quý Ly cho người
lấy gỗ đóng cộc để đề phòng
quân giặc. Việc quân chế ở Nam và bắc
được phân chia ra làm mười hai vệ,
Đông và Tây được phân ra làm tám vệ.
Mỗi vệ có mười tám đội, mỗi
đội có 18 người. Đại quân có ba
chục đội, trung quân có hai chục đội.
Mỗi doanh có mười lăm đội, mỗi
đoàn có mười đội. Còn những
cẩm vệ chỉ có 5 đội và một người
đại tướng thống lãnh.
Năm 1418, Bình Định Vương Lê Lợi cùng
với các nghĩa sỉ sau nhiều năm gian lao
thao luyện đứng lên khởi nghĩa ở
đất Lam Sơn. Mãi đến năm 1427, ngài
mới đuổi được quân nhà Minh ra
khỏi bờ cõi Việt Nam.
Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua, trong các vị có công
lao lớn theo giúp vua, đáng kể nhất về
quan văn là ông Nguyễn Trãi trong việc tham mưu,
về quan võ có đại tướng Lê Vấn và
nhà sư Sa Viên trong việc huấn luyện võ dũng
cho binh sĩ. Riêng về nhà sư Sa Viên, hiệu là
Sơn Nhân người ở tỉnh Sơn La,
Bắc Việt, vào năm 1407 ngài theo quy y học
đạo tại chùa Huyền Thiên, tỉnh Sơn
Đông Trung Hoa. Năm 1415, ngài về nước theo
giúp vua Lê Lợi trong việc huấn luyện võ công
cho các nghĩa sĩ.
Đến năm 1428, vua Lê Lợi cho mở ra
những kỳ thi "Minh Kinh Khoa" bắt buộc
các quan văn võ, từ tứ phẩm trở
xuống phải dự thi, nghĩa là quan văn
phải vào kinh thi sử, quan võ phải thi về võ
kinh. Nhà vua còn mở rộng các khóa thi Minh Kinh cho dân
chúng, để kén chọn nhân tài ẩn sĩ ra giúp
nước. Nhân vào cơ hội phát động võ
thuật của vua Lê, thầy Sa Viên đã thành
lập trường huấn luyện võ lâm ông
Nguyễn Trãi đặt tên là "Trường Võ Bình
Định" để tưởng nhớ đến
công lao của Bình Định Vương Lê Lợi,
đã có công đánh đuổi quân Minh mang lại
thanh bình cho xứ sở.
Năm 1460, vua Lê Thánh Tông cho mở khoa thi Tiến sĩ
đầu tiên. Mỗi ba năm ngài cho mở kỳ
thi võ để tưởng thưởng quân sĩ và
kén chọn nhân tài võ dũng. Vào thời bấy
giờ, nhiều võ sinh của trường võ Bình
Định đã được trúng tuyển, cho nên
danh từ võ phái Bình Định đã được
dân chúng biết nhiều đến kể từ
đó.
Về binh bị, vua Lê Thánh Tông còn chỉ thị
cho các quan Tổng Binh phải chăm lo giảng
tập trận đồ, thao luyện binh sĩ. Ngài
cho đổi lại năm vệ thành năm
Phủ: Trung Quân Phủ, Nam Quân Phủ, Bắc Quân
Phủ, Đông Quân Phủ, Tây Quân Phủ. Mỗi
phủ có sáu vệ, mỗi vệ có năm hay sáu
sở, mỗi sở có bốn trăm người.
Quân sĩ của năm phủ có khoảng sáu
hoặc bảy vạn người. Ngài còn đặt
ra ba mươi mốt điều quân lệnh để
tập thủy trận, bốn mươi hai điều
để tập bộ trận.
Năm 1679, vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh,
ở miền Nam nền võ học Việt Nam còn
chịu ảnh hưởng vào các võ phái của người
Trung Hoa như Thiếu Lâm Nam và Bắc phái, Võ Đang,
Nga Mi, Không Động, Bạch Hạc, Bát Quái Chưởng,
... xuyên qua các quan binh của nhà Minh bất phục tùng
Thanh Triều đến khai hoang lập ấp, định
cư rãi rác trên các vùng đất cận nam. Do
đó, về sau người ta còn được
nghe nhắc đến những danh từ như Võ
Tiều, Võ Hẹ, Võ Quảng, Võ Hải Nam, Võ Phúc
Kiến, ... (để chỉ các môn võ do các người
Tàu, gốc thuộc các địa phương khác
nhau). Đến đây, chúng tôi xin nhắc lại
một quan điểm chính trị của chúa
Nguyễn Hiền Vương, với ý định
mở mang bờ cõi về miền Nam, cho nên chúa
Nguyễn đã cho phép các tướng lãnh cùng hơn
ba ngàn binh sĩ nhà Minh bất phục tùng Thanh
Triều đến tỵ nạn, và tiện dịp,
dùng họ để khai hoang, lập ấp tại các
vùng đất cận Nam, rồi dần dần xâm
chiếm các vùng đất của người Chân
Lạp. Về sau những vùng đất khai hoang,
lập ấp này đã tạo nên những thành
phố dân cư trù phú, sự thịnh vượng
đáng kể nhất là việc sản xuất lúa
gạo đã tạo nên một nền kinh tế
lớn mạnh ở miền Nam. Nền kinh tế này
đã giúp ích rất nhiều cho chúa Nguyễn trong công
cuộc thống nhất sơn hà. Trong các tướng
lãnh nhà minh đến khai hoang định cư,
đáng kể nhất là tướng Trần
Thắng Tài và Dương Ngạn Địch. Vào năm
1679, Trần Thắng Tài đã khai hoang tại Biên Hòa
và dọc theo các vùng đất thuộc đồng
bằng sông Đồng Nai. Còn Dương Ngạn
Địch lập ấp tại Mỹ Tho, và các vùng
đất thuộc đồng bằng sông Cửu
Long. Năm 1680, Mạc Cửu định cư
tại Hà Tiên và vùng đất dọc theo vịnh
Xiêm La (Thái Lan), Rạch Giá, Cà Mau.
Năm 1706, vào đời vua Lê Dụ Tông, ở
miền Bắc chúa Trịnh Cương cho mở trường
huấn võ, đặt quan giáo thụ để
dạy cho con cháu các quan võ về môn võ kinh chiến
lược. Cứ mỗi tháng một lần
tiểu tập. Ba tháng một lần đại
tập. Mùa xuân và mùa thu thì tập võ lâm. Mùa Đông
và mùa hạ thì thập võ kinh (là binh thư
chiến lược và chiến thuật, áp dụng
những phương pháp dùng binh đánh giặc).
Kể từ đó mà danh từ võ kinh mới
được phổ thông trong quần chúng. Mỗi
năm có một kỳ thi võ. Để tham dự vào
kỳ thi võ, thí sinh lần lượt phải qua các
bộ môn như bắn cung, múa giáo, múa gươm,
bắn cung trong lúc phi ngựa, và bắn cung trong lúc
chạy bộ. Sau cùng, thí sinh phải qua kỳ thi
vấn đáp về nghĩa lý trong sách vỡ thánh
hiền để xét về học lực và
những phương lược trong sách võ kinh để
xét về tài năng.
Năm 1740, Trịnh Doanh cho lập võ miếu ở chánh
vị có bàn thờ Vũ Vương, Khương Thái
Công, Tôn Võ Tử, Quan Tư, ... Ở phía sau có bàn
thờ Trần Hưng Đạo, và lập miếu
riêng thờ Quan Công. Mỗi năm vào mùa xuân và thu,
vua cho mở cuộc tế lễ tại võ miếu.
Cận kim thời đại (1802 – 1975)
Năm 1802, vua Gia Long thống nhất sơn hà
vẫn theo gương xưa của chúa Sãi
Nguyễn Phúc Nguyên (1631). Nhà vua cho thành lập xưởng
súng đại bác, mở trường bắn
huấn luyện voi, ngựa và trường huấn
luyện võ kinh, võ lâm cho binh sĩ. Ở những nơi
hiểm yếu, vua chỉ thị cho lập đồn
ải. Tại các cửa bể và đảo, vua cho
lập ra pháo đài. Ngoài ra, vua còn cho lập ra xưởng
đóng tàu đồng, và huấn luyện thủy
quân để đề phòng mặt biển.
Năm 1820, vua Minh Mạng đã chia binh đội ra
thành bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ
binh và pháo binh. Bộ binh gồm có kinh binh và cơ
binh. Kinh binh chia làm doanh, vệ, đội. Kinh binh
dùng để đóng giữ ở kinh thành hoặc
để sai phái đóng giữ ở các tỉnh.
Mỗi doanh có năm vệ, mỗi vệ có mười
đội, mỗi đội có năm chục người.
Mỗi đội có suất đội và đội
trưởng cai quản. Những binh khí của
mỗi vệ gồm có hai khẩu súng thần công,
hai trăm khẩu súng điểu thương và hai
mươi mốt ngọn cờ. Còn cơ binh là
lính riêng của từng tỉnh, cũng được
chia ra làm cơ, đội. Cơ thì có quân cơ,
đội thì có cơ suất đội cai
quản.
Tượng quân được chia ra thành từng
đội, mỗi đội có bốn chục con
voi. Số voi ở kinh thành gồm có một trăm
năm chục con. Ở Bắc thành có một trăm
mười con. Ở Gia Định thành có bảy mươi
lăm con. Ở Quảng Nam có ba mươi lăm
con. Bình Định có ba chục con. Nghệ An có hai
mươi mốt con. Tại Quảng Bình, Quảng
Ngãi, Thanh Hóa, mỗi nơi đều có mười
lăm con. Còn ở Quảng Trị, Phú Yên, Bình
Thuận, Ninh Bình mỗi nơi có bảy con.
Thủy quân có mười lăm vệ được
chia làm ba doanh, mỗi doanh đều có quan chưởng
vệ quân lính, và quan đô thống chỉ huy
cả ba doanh.
Ngoài ra, vua Minh Mạng còn cho thành lập ra trường
Anh Doanh và Giáo Dưỡng Binh để cho các con
của quan võ, từ suất đội trở lên ai
muốn tình nguyện vào học sẽ được
hưởng lương bổng. Việc
huấnluyện võ lâm và võ kinh do một viên quan
đại thần chăm sóc.
Để bổ dụng vàongành võ học, vua còn cho
mở ra các khóa thi võ lâm, tuyển chọn người
đậu tú tài, cử nhân và tiến sĩ võ khoa.
Người dự thi võ khoa đều phải
biết chữ nghĩa, vì sau khi thi xong các bộ môn
của võ lâm, thí sinh còn phải dự thi phần
võ kinh, để chứng tỏ khả năng trong
cách dùng binh pháp đánh giặc mà trong sách võ kinh
đã ấn định.
Năm 1837, vào thời Minh Mạng thứ 18 vua còn
định phép cho các kỳ thi võ lâm như sau:
_ KHÓA THI HƯƠNG: trường thứ nhất thi
cử tạ, trường thứ hai thi diễn roi
côn (trúc mộc), diễn quyền, múa kiểm đoản.
Trường thứ ba thi về bắn súng điểu
thương (loại súng thời xưa). Nếu thí
sinh trúng tuyển cả ba trường, được
chấm đậu cử nhân võ khoa. Nếu thí sinh
chỉ trúng tuyển ở trường thứ
nhất và trường thứ hai, được
chấm đậu tú tài võ khoa. Sau đó, để
sắp hạng cao thấp, các võ tú, võ cử còn
phải dự thi vấn đáp để trả
lời những cẩu hỏi có liên quan đến
sách võ kinh và sách Tử Tư. Nếu ai trả
lời thông suốt, tên được sắp
hạng đứng trước.
_ KHÓA THI HỘI: Cũng như khóa thi Hương, thi
Hội gồm có ba trường. Nhưng ở
phần diễn côn roi, thí sinh phải dùng đến
côn roi bằng sắt (thiết côn). Thí sinh nào trúng
tuyển cả ba trường và giỏi thông
chữ nghĩa sẽ được vào kỳ thi
Đình.
_ KHÓA THI ĐÌNH: Sau khi được tuyển
chọn ở kỳ thi Hội, thí sinh được
vào dự khóa thi Đình để làm một bài văn
sách, trả lời những câu hỏi về nghĩa
lý trong bộ sách võ kinh, sách Tử Tư, và
những binh pháp chính yếu của các danh tướng
thời xưa. Những thí sinh được trúng
tuyển ở kỳ thi Đình được
chấm đậu tiến sĩ võ khoa. Nếu thí
sinh chỉ được trúng tuyển kỳ thi
Hội mà không đậu ở kỳ thi Đình
được chấm đậu phó bảng võ khoa.
Trong thời Pháp thuộc, người Pháp đã
gặp phải những sự chống cự oanh
liệt của người dân Việt, phần
lớn các tổ chức kháng chiến chống Pháp,
bắt nguồn từ các nhà lãnh đạo võ
thuật. Do đó, để vô hiệu hóa phần
nào sức kháng cự của người Việt,
chính quyền Pháp đã ra lệnh nghiêm cấm các
hoạt động võ thuật trên toàn lãnh thổ
Việt Nam. Tuy nhiên, với tinh thần ái quốc và
bất khuất của người Việt, các
vị võ cử, võ gia Việt Nam vẫn âm thầm
lén lút dạy võ cho các thanh thiếu niên để
nung đúc tinh thần quật khởi, kháng chiến
chống Pháp. Mặc dù với khí giới thô sơ,
tầm vong chuốt nhọn, gươm giáo không
thể trực diện đối đầu với
các súng đạn tối tân của người
Pháp nhưng người Việt đã dùng phương
pháp du kích, nhiều phen khiến cho chính quyền
Pháp kinh hoàng và đã giết được các tướng
tài Pháp như tướng Francis Garnier và tướng
Henri Riviere tại Ô Cầu Giấy, Hà Nội
(Bắc Việt).
Trong các vị lãnh đạo chống Pháp, quân Pháp
đặc biệt chú ý đến các ông như Phan
Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Lê Trực, Hoàng Hoa
Thám...
Năm 1862 – 1864 Ông Trương Công Định
kháng chiến ở Gò Công và Biên Hòa.
Năm 1875 ông Nguyễn Hửu Huân (Thủ khoa Huân)
nổi lên ở Mỹ Tho và Tân An.
Vào tháng 8/1864 ông Trương Huệ (con ông Trương
Công Định) nổi lên ở Tây Ninh.
Vào 8/1917 ông Lương Ngọc Quyến và Trịnh
Văn Cấn nổi lên ở nhà lao Thái Nguyên.
Năm 1927 hai ông Nguyễn Thái Học và Nguyễn
Khắc Nhu lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân
Đảng nổi lên chống Pháp ở Yên Bái.
Năm 1885, ông Quản Hớn Nguyễn Văn Bường
khởi binh ở Bà Điểm Hốc Môn, Bà Trà,
Tân Khánh. Trận đánh nổi tiếng nhất là
ở Mười Tám Thôn Vườn Trầu (gọi
là Thập Bát Phù Viên) trong đó nghĩa binh bị
vây đánh, sau cùng còn lại bảy chục người
cùng nhau thề đánh cho đến chết. Và
họ đã giữ vững lời thề. Từ
trận đánh Pháp nổi tiếng này về sau,
danh từ "võ vườn" đã được
lưu truyền để nói lên tinh thần võ dũng
của địa phương này. Nếu muốn
nói "võ vườn" là một môn phái võ
thuật người ta cũng không thấy được
một tài liệu sách vở nào để chứng
minh về nguồn gốc, kỹ thuật căn
bản của nó, mà chỉ được nghe
nhắc qua lời truyền miệng của các dân
địa phương. Có lẽ, đây chỉ là
một số đòn thế chiến đấu
tự vệ của dân địa phương
được ảnh hưởng bởi võ
thuật Trung Hoa, bắt nguồn từ năm 1679, tướng
Trần Thắng Tài và hơn ba ngàn binh sĩ nhà
Minh, bất phục tùng Thanh triều, đã
được chúa Nguyễn Hiền Vương cho
phép tỵ nạn, khai hoang, lập ấn định
cư dọc theo đồng bằng sông Đồng
Nai (Biên Hòa, Hốc Môn). Để chứng minh cho
luận cứ trên, chúng tôi còn ghi nhận qua
lịch sử bởi chiến tích võ dũng của
mười tám thôn vườn trầu vào năm
1782. Tại đây, quan binh Tây Sơn Nguyễn
Nhạc đã bị đánh bại, do sự
phục kích của đạo binh Hòa Nghĩa (người
Trung Hoa cư ngụ tại 18 thôn Vườn
Trầu, theo giúp Nguyễn Ánh).
Vào năm 1911, ngài Mộc Đức Thiền Sư,
một trong nhưng vị cố vấn cho Tôn
Dật Tiên đã thu nhận bốn đồ đệ
người Việt Nam như Trần Tần Chân
Nhân, Thiện Tảo Đạo Nhân, Tư Hớn Cư
Sĩ, và Thiện Tâm Thiền Sư. Về sau
bốn vị này góp công lớn vào việc phát
triển ngành thiền tông và võ lâm tại Việt
Nam.
Riêng về Thiện Tâm Thiền Sư, tên thật
là Nguyễn Văn Sáu, hiệu Đoàn Tâm Ảnh,
sanh năm 1900 tại Bạc Liêu, Nam Việt Nam. Sau mười
tám năm được theo thầy Mộc Đức
Thiền Sư để học võ lâm và thiền
tông tại chùa Phi Lai Tự, miền Bắc Trung Hoa,
ông trở về Việt Nam vào năm 1930 mở trường
dạy võ thâu nhận môn đồ. Đồng
thời, ông cùng một số nghĩa sĩ âm
thầm thành lập đảng Sao Trắng để
chống Pháp. Đảng Sao Trắng với tinh
thần nghĩa hiệp giúp đỡ dân lành, đã
làm cho những tay cường hào ác bá và chính
quyền Pháp phải nhiều phen bối rối,
tại miền lục tỉnh hậu giang, Nam
Việt Nam. Năm 1960, để hưởng ứng
phong trào thanh niên võ thuật, ông đã chính thức
thành lập Hội Võ Lâm Việt Nam và sau đó thu
nhận được bốn vị đệ
tử tâm đắc như Giáo Sư Vũ Đức,
Giáo sư Hùng Phong, Giáo Sư Hàng Thanh, và Giáo sư
Nguyễn Thiên Tài. Mãi đến năm 1970, ông lui
về ẩn dật chức vụ Chưởng Môn
Phái Võ Lâm Việt Nam đã được ông chính
thức truyền lại cho Giáo sư Vũ Đức
(Âu Vĩnh Hiền) để tiếp tục công
việc phát triển môn phái. Về sau, để
tìm nguồn an lạc nơi chốn thiền,
Thiện Tâm Thiền Sư đã trụ trì tại
chùa Pháp Hoa, Sài Gòn.
Ngoài ra, một số các vị võ sư Việt Nam
lão thành nổi danh như Thầy Võ Dựt (1870 –
1958), hiệu là Nam Nghĩa, người làng An Dinh
quận Bình Khê. Thầy Hồ Nhu (1890 - ?) hiệu
Hồ Ngạnh người làng Thượng
Truyền, quận Bình Khê giỏi về côn pháp.
Thầy Đàon Phong và Thầy Tàu Sáu ở quận
Bình Khê giỏi về quyền cước. Thầy
Triệu Thúc Lang ở quận Dương Đông
đảo Phú Quốc. Thầy cử nhân Trương
Thạch (1880 - ?) ở Bình Định. Thầy
cử nhân Đinh Các (1880 – 196?) người Qui Nhơn.
Thầy Năm Soai (1880 – 197?) người Bạc
Liêu. Thầy Sáu Khá (1885 – 196?) và các thầy Tư
Công, Hai Sình đều ở Bạc Liêu. Võ sư
Huỳnh Kim Hên (1905 – 1980) hiệu là Mã Thanh Long người
ở Bạc Liêu về sau cư ngụ tại Hòa Hưng,
Sài Gòn. Thầy Hàn Bái sáng tổ hệ phái Hàn Bái.
Thầy Vũ Bá Oai (1901 – 28/1/2001) kế nghiệp
thầy Hàn Bái thành lập võ đường Hàn
Bái tại Sài Gòn. Thầy Truong Thanh Đăng (1895
– 197?) hiệu Sa Long Cương người tỉnh
Phan Thiết, về sau cư ngụ tại Sài Gòn.
Thầy Hồ Hợi (1896 - ?) sáng lập Hội
Cửu Long Võ Đạo tại Sài Gòn. Thầy
Bảy Nếp người quận Cần Đước,
Nam Việt Nam về sau là cư sĩ tại tỉnh
Gia Định.
Trong thời Pháp thuộc, môn quyền anh được
du nhập với kỹ thuật tay nghề đấm
giản tiện và rất được sự ngưỡng
mộ của quần chúng người Việt. Vào
giữa thập niên 1960 – 1970, các võ sư huấn
luyện quyền anh đáng kể như Minh
Cảnh, Huỳnh Tiền, Kidemsey, Trần Mộng
Lân, Nguyễn Son, Lý Huỳnh, Minh Thành, ... Bộ môn
quyền anh được hoạt động dưới
sự chăm sóc của Tổng Cuộc Quyền
Thuật Việt Nam. Tổng cuộc này đã
được thành lập vào năm 1956 tại Sài
Gòn do sự góp mặt của các võ sư và võ sĩ
thuộc nhiều môn phái võ thuật Việt Nam khác
nhau.
Ngoài ra vào năm 1960, các vị võ sư còn thành
lập Tổng Hội Nghiên Cứu Võ Học
Việt Nam với ước vọng để
khảo cứu các ngành võ thuật Việt Nam. Trong
suốt 15 năm (1960 – 1975) thành hình, tổng
hội này không có một biểu hiện nào đáng
được ghi nhận. Phần lớn nổ
lực hoạt động võ thuật Việt Nam
trong quảng đại quần chúng đều do
công trình của Tổng Cuộc Quyền Thuật
Việt Nam đẩy mạnh, dưới sự
yểm trợ của chính quyền thanh niên. Mặc
dù có rất nhiều võ phái Việt Nam hoạt động
son song với Tổng Cuộc Quyền Thuật
Việt Nam, nhưng chỉ có vài võ phái đạt
được sự tổ chức một hệ
thống võ đường qui cũ, thu huat được
nhiều võ sinh trên toàn quốc như Hội Võ
Thuật Vovinam, do Võ Sư Nguyễn Lộc sáng
lập, về sau võ sư Lê Sáng kế nghiệp;
hội Võ Lâm Việt Nam do lão sư Đoàn Tâm
Ảnh (pháp danh Thiện Tâm Thiền Sư) sáng
lập, về sau giáo sư Vũ Đức kế
nghiệp; Hội Cửu Long Võ Đạo do võ sư
Hồ Hợi sáng lập, ...
Năm 1945, sau khi quân đội Nhật Bản
thắng Pháp tại Việt Nam, cũng như tinh
thần võ sĩ đạo Nhật vang danh khắp
thế giới, môn võ Nhật nổi danh lúc bấy
giờ là môn Nhu Đạo (Judo) và Nhu Thuật
(Jiu-Jittsu) rất được người Việt
Nam hâm mộ. Vị võ sư người Nhật
đầu tiên đến giảng dạy Nhu Đạo
tại Việt Nam là võ sư Yonka, về sau lại
có các võ sư Watanabe, võ sư Ishikawa. Năm 1948,
giáo sư Hồ Cẩm Ngạc trở về nước
sau 5 năm du học tại Nhật Bản. Giáo sư
Hồ Cẩm Ngạc là người Việt Nam đầu
tiên đã tốt nhiệp môn Nhu Đạo tại
trường Đại học Nhu Đạo Kodokan,
Nhật Bản. Ngoài ra ông còn tốt nghiệp các
bộ môn võ Nhật khác như Karatedo (KHông thủ
đạo) thuộc trường phái Yosheikan. Vào năm
1956, giáo sư Hồ Cẩm Ngạc đã xuất
bản quyển Nhu Đạo Tạp Phương.
Vào năm 1955, Giáo sư Phạm Lợi từ Pháp
về Việt Nam và đã xuất bản quyển
Kỹ Thuật Nhu Đạo vào năm 1956. Ngoài ra
còn có một số giáo sư Nhu Đạo đáng
kể như giáo sư Đặng Thông Trị, giáo
sư Phan văn Quan, giáo sư Thái Thúc Thuần, giáo
sư Vương Quang Ba, thượng tọa Thích
Tâm Giác. Những vị giáo sư Nhu Đạo
vừa kể trên đều là những vị đã
góp công thành lập Tổng Cuộc Nhu Đạo
Việt Nam vào năm 1956. Riêng giáo sư Đặng
THông Trị ngoài môn Nhu Đạo, ông còn làm giaó sư
Aikido đầu tiên đẩy mạnh phong trào
Hiệp Khí Đạo tại Việt Nam. Vào năm
1964 bào đệ của giáo sư Trị là giaó sư
Đăng Thông Phong thành lập Tổng Cuộc
Hiệp Khí Đạo Việt Nam.
Vào năm 1960 quân đội viễn chinh Đại
Hàn đến tham chiến chống cộng sản
tại Việt Nam, môn võ Đại Hàn Taekwondo (Thái
Cực Đạo) do tướng Choi Hong Hi lãnh đạo
đã được chính quyền quân đội
VNCH yểm trợ phát động môn võ này trong
quảng đại quần chúng. Sau đó Tổng
Cuộc Thái Cực Đạo Việt Nam được
ra đời do Trung Tá Phạm Văn Cư làm
chủ tịch sáng lập. Đến niên khóa 1973
– 1975, Đại tá Trần Thanh Điền kế
nhiệm chức chủ tịch Tổng Cuộc Thái
Cực Đạo Việt Nam. Môn võ Thái Cực Đạo
đã lớn mạnh tại Việt Nam trong cao trào
thanh niên khỏe với nhiều võ phái trăm hoa
đua nở.
Căn cứ vào lịch sử tranh đấu
Việt Nam, võ học cổ truyền Việt Nam là
một nền tảng căn bản cho quân sự
quốc phòng. Do đó, võ học đã đóng
một vai trò rất quan trọng trong vận mạng
thịnh suy của đất nước. Kể
từ thượng cổ thời đại, vào
đời vua Hùng Vương lập quốc, mặc
dù con người chưa biết dùng chữ viết
để ghi chép lại sự diễn tiến
của võ học nhưng nhờ vào một số di
tích của các món binh khí như búa, rìu, dao, dùi,
cào, trống đồng và một số tranh ảnh
chiến đấu được khắc vẽ
trên những phiến đá tại các vùng đất
thuộc Bắc Việt Nam, được tìm
thấy bởi các nhà khảo cổ đã nói lên
được phần nào khoa võ học lập
quốc của tổ tiên người Việt Nam.
Với vốn liếng căn bản khoa võ học
lập quốc đầu tiền, sau đó trong các
dịp giao tiếp với lân bang, người
Việt đã biết khôn khéo thái nạp cái hay
của người để biến chế và đồng
hóa và sắc thái riêng biệt của mình. Điển
hình là sự ảnh hưởng ở nền võ
học Trung Hoa và Ấn Độ xuyên qua các nhà
truyền giáo, hoặc các quần binh người
Trung Hoa trong thời kỳ một ngàn năm Bắc
thuộc. Để rồi sau đó nền võ
học kiến quốc được phát huy trong
các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần,
Nguyễn... Mãi đến thế kỷ 17, người
Âu Châu đến buôn bán và truyền đạo
Thiên Chúa tại Việt Nam, và đến thế
kỷ 19, cuộc tranh chấp bằng võ lực
giữa Việt Nam và Pháp bùng nổ, nền võ
học kiến quốc của Việt Nam đã
bị vô hiệu hóa trước đạn súng
ống tối tân của Pháp. Sau đó, Việt Nam
phải chịu đựng hơn tám mươi năm
lệ thuộc người Pháp. Trong thời gian
tiếp xúc với người Âu Châu, người
Việt đã hiểu được rằng sự
tiến hóa của nhân loại trên thế giới
hiện nay đã bước qua một kỷ nguyên
tiến bộ mới trên nhiều phương
diện. Cũng như võ học cổ truyền
với gươm giáo làm căn bản, không còn là
một yếu tố chính yếu thích nghi cho quân
sự quốc phòng nữa, mà đã được
thay thế bằng những đạn dược,
súng ống tối tân hiên đại hóa quân sự
với những kỹ thuật chiến tranh máy móc.
Kể từ đó, nền võ học kiến
quốc của Việt Nam không còn đóng một vai
trò chính yếu quân sự trong lịch sử mà
đã biến thể trở thành một bộ môn
thể thao tự vệ cũng như các bộ môn
thể thao thuần túy khác, nhằm mục đcíh
phụng sự cho phong trào khỏe của nước
nhà, thêm phần phong phú.
MÔN QUYỀN THUẬT VIỆT NAM
Trong phong trào hoạt động võ thuật tại
Việt Nam sau 1945, Tổng Cuộc Quyền Thuật
Việt Nam được thành lập vào năm 1952,
là một tổng cuộc kỳ cựu, lão thành
nhất so với các tổng cuộc võ thuật khác
tại Việt Nam như: Tổng Cuộc Nhu Đạo
(Judo), Tổng Cuộc Hiệp Khí Đạo (Aikido),
Tổng Cuộc Thái Cực Đạo (Taekwondo).
Dĩ nhiên, trước khi tổng cuộc ra đời,
phong trào Quyền Thuật Việt Nam trên toàn
quốc đã chớm nở mãnh liệt, với
những hoạt động võ thuật trong quần
chúng, được lãnh đạo bởi các
vị võ sư lão thành, thuộc nhiều môn phái
khác nhau. Cho nên, việc ghi nhận lại một
số phương danh được biết, trong
số đông đảo những vị võ sư lão
thành vào thời trước. Đó cũng là
một việc làm rất chính đáng.
CÁC VỊ VÕ SƯ LÃO THÀNH ĐÁNG KỂ
Năm 1850 – 1974: Thầy Cử Nhân Võ Triệu Thúc
Lang, về sau ở quận Dương Đông, đảo
Phú Quốc. (Thầy sống 124 tuổi).
Năm 1870 – 1958: Thầy Võ Dựt, hiệu là Năm
Nghĩa, người ở làng An Dinh, quận Bình
Khê.
Năm 1880 – 19 ??: Thầy Cử nhân Võ Trương
Trạch, ở Bình Định.
Năm 1880 – 196?: Thầy Hai Cụt, ở làng
Cẩm Thượng, Bình Định.
Năm 1880 – 196? : Thầy Ba Cát (Nguyễn Văn Cát)
ở Qui Nhơn.
Năm 1880 – 197? : Võ sư Năm Soai, ở Bạc
Liêu, giỏi về quyền cước.
Năm 1885 – 196? : Các vị võ sư Sáu Khá, Tư
Cống, Hai Sình, người ở Bạc Liêu,
giỏi về quyền cước
Năm 1889 – 1928: Thầy Lê Văn Bái, hiệu là
Hàn Bái, thân phụ của ông là một võ tướng,
chức Lãnh Binh của triều đình Huế. Oâng
thất lộc vào mùng 6 tháng 3 âm lịch, năm
1928. Oâng đã đào tạo được một
số cao đồ như: Nguyễn Văn Đắc,
ông Quỳnh, ông Giãn, Viêu Khang và Vũ Bá Oai. Về
sau, chỉ có võ sư Vũ Bá Oai làm rạng rỡ
cho môn phái, và đã rèn luyện được
một số học trò đáng kể như: Đỗ
Dư Ánh, bác sĩ Nguyễn Anh Tài, Trương Minh
Lắm ở Bến Tre, và Lê Bất Trị ở
Tây Ninh... Năm 1950, võ sư Vũ Bá Oai đã thành
lập Hàn Bái Đường tại Sài Gòn.
Năm 1890 – 197? : Thầy Hồ Nhu, hiệu là
Hồ Ngạnh, làng Thượng Truyền, quận
Bình Khê, giỏi về côn pháp.
Các Thầy Đoàn Phong, và thầy Tàu Sáu ở
quận Bình Khê, giỏi về quyền cước.
Võ Sư Quách Văn Kế, giỏi về quyền cước,
là sáng tổ của môn phái Lam Sơn Võ Thuật
Đạo, sau khi cụ qua đời, con trai là võ sư
Quách Văn Phước kế nhiệm chức Chưởng
Môn võ phái.
Thầy Bảy Nếp, người quận Cần
Đước, nam Việt Nam, về sau là cư sĩ
tại tỉnh Gia Định.
Võ sư Chính Hóa là sáng tổ của võ phái Tây Sơn
Nhạn, về sau, học trò lớn của cụ
là võ sư Kim Kê (Đặng Văn Anh) kế
nhiệm chức vụ Chưởng môn võ phái, và
võ sư Nguyễn Văn Mách là phó chưởng môn.
Năm 1897 – 197 ? : Thầy Trương Thanh Đăng,
hiệu là Sa Long Cương, người ở Phan
Thiết. Năm 1925, bắt đầu dạy võ
ở Phan Thiết. Năm 1930, dạy võ tại Sài
Gòn. Năm 1964, chánh thức thành lập võ đường
Sa Long Cương tại Sài Gòn. Lúc 14 tuổi, ông
theo học võ với thầy Trương Trạch,
một cử nhân võ thời bấy giờ tại
Bình Định, sau đó với thầy Hai Cụt,
ở làng Cẩm Thượng, Bình Định, và
thầy Ba Cát (Nguyễn Văn Cát) tại Qui Nhơn.
Năm 1896 – 197? : Võ Sư Hồ Văn Hợi, năm
1969, sáng lập Hội Cửu Long Võ Đạo
tại Sài Gòn (do nghị định 165/PDUTNTT/TDTT,
ngày 16/2/1970) với hội đồng quản
trị như: Chủ tịch Trần Văn Thoàn, Chưởng
Lý Tối Cao Pháp Viện, các phó Chủ Tịch:
Kỹ sư Trần Văn Hà, giáo sư Phạm
Thành Mãi, Tổng thư ký: Nghị sĩ Lê Tấn
Bửu, thủ quỹ: Nghị sĩ Võ Văn
Truyện, các ủy viên: kỹ sư Huỳnh Văn
Diệp, thương gia Trần Văn Chiêu và võ sư
Phùng Văn Chính.
Năm 1900 – sống: Võ sư Đoàn Tâm Ảnh,
pháp dah Thiện Tâm Thiền Sư, phương danh
Nguyễn Văn Sáu (Sáu Nhỏ) hiện nay 2001 ông
vẫn còn sống tại Việt Nam. Oâng sanh tại
Bạc Liêu, nam Việt Nam. Năm 1911, ôn theo thầy
Mộc Đức Thiền Sư học đạo
Thiền Tông và võ lâm cổ truyền, tại chùa
Phi Lai Tự (miền Bắc Trung Hoa). Năm 1930,
trở về Việt Nam, ông sáng lập môn phái võ
lâm Việt Nam Chính Tông. Lần lượt, mở
các võ đường tại các tỉnh miền Nam
Việt Nam như: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau,
Cần Thơ, Bến Tre, Long Xuyên, Vĩnh Long,
Rạch Giá ... Rồi, bí mật thành lập đảng
Sao Trắng, kết nạp các nghĩa sĩ để
chống Pháp, và đã một thời oanh liệt,
đảng Sao Trắng của ông đã làm điên
đảo , bối rối cho các tay cường hào
ác bá cùng chính quyền Pháp ở miền lục
tỉnh (Hậu Giang, miền Nam). Về sau ông lên
Sài Gòn mở các lớp dạy võ lâm. Trong suốt
cuộc đời truyền dạy võ lâm, ông đã
đào tạo rất đông đảo huấn
luyện viên và võ sư rải rác từ Sài Gòn
đến các tình miền nam, Việt Nam. Trong số
các cao đồ đắc ý nhất của ông, và
đã làm rạng rỡ cho môn phái võ lâm đáng
kể đến như: Giáo sư Hàng Thanh (Phan
Chấn Thanh), giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh
Hiền), giáo sư Hùng Phong (Huỳnh Ninh Sơn),
giáo sư Nam Phong (Nguyễn Thiên Tài), giáo sư
Lạc Hà(Nguyễn Văn Bé), giáo sư Từ Võ
Hạnh, giáo sư Lư Công Khanh, võ sư Long và võ
sư Châu (ở Cần Thơ) ...
Đến năm 1970, ông chánh thức chấm định
giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền) là người
được ủy nhiệm thừa kế chức
vụ Chưởng Môn võ phái, để thay thế
ông trong việc phát triển môn phái Võ Lâm Việt
Nam Chính Tông. Sau đó, để tìm nguồn an
lạc tại chốn thiền môn, ông đã trụ
trì tại chùa Pháp Hoa (Sài Gòn).
Từ năm 1970 đến 4/1975, giáo sư Vũ
Đức (Âu Vĩnh Hiền) đã thành lập
Trung Tâm Huấn Luyện Võ Lâm Việt Nam Chính Tông
tại địa điểm: Chi Thanh Niên Quận
Sáu, Chợ Lớn (140 Lê Quang Hiền, Chợ
Lớn). Trong thời gian tại Việt Nam, giáo sư
Vũ Đức đã đào tạo được
một số đông đảo võ sinh. Những
Đai Đen Huấn Luyện Viên đáng kể như:
Hồng Long, Châu Việt Hùng, Trần Văn Quang, Lê
Văn Phước, Lê Kiến Sanh, Trần Văn
Hoàng, Nguyễn Văn Bình, Trương Sắc Hào ...
Sau 4/1975, môn phái Võ Lâm Việt Nam Chính Tông đã
được chánh thức sửa tên gọi là Võ
Lâm Đạo Việt Nam, với sự chuẩn
nhận của sáng tổ Thiện Tâm Đoàn Tâm
Ảnh và Chưởng Môn giáo sư Vũ Đức
(Âu Vĩnh Hiền).
Để thống nhất đường lối
hoạt động của các võ đường chi
nhánh Võ Lân Đạo ở trong nước Việt
Nam và hải ngoại, võ phái còn được
sự chỉ đạo trung ương của
Tổng Hội Thế giới Võ Lâm Đạo
Việt Nam (VoLamDao Vietnam Kungfu World Federation), chủ
tịch hội đồng do Chưởng Môn Giáo Sư
Vũ Đức phụ trách, trụ sở đặt
tại miền nam California, Hoa Kỳ (hộp thư
liên lạc: PO Box 6204, Rosemead, CALIF. 91770 – 1634, USA).
Tổng Hội Thế Giới Võ Lâm Đạo
Việt Nam đã được giáo sư Vũ
Đức chánh thức thành lập , với giấy
phép của chính quyền tiểu bang California, USA,
cấp ngày 07/07/1982.
Năm 1910 – 198? : Võ sư Huỳnh Kim Hên, hiện
là Mã Thanh Long, sanh tại tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ, từ 9 đến 19 tuổi, đã
theo học võ với người bác ruột hiệu
là Mã Thanh Khôn, thuộc võ phái Thiếu Lâm Hồng
Gia Quyền. Năm 1936, ông bắt đầu dạy
võ cho quân đội Hoàng Gia Cao Miên, tại Nam Vang.
Đến năm 1957, ông chánh thức thành lập
võ đường Mã Thanh Long, tại Hòa Hưng, Sài
Gòn. Trong cuộc đời dạy võ, ôn đã đào
tạo rất nhiều huấn luyện viên, và võ sĩ
danh tiếng chiến thắng trên võ đài.
Năm 1917 – 198? : Võ Sư Lê Văn Kiển, hiệu
là Tám Kiển, người ở Sóc Trăng,
tỉnh Ba Xuyên, man Việt Nam. Lúc 12 tuổi, học
võ với thân phụ, được chú ý về
môn bắn cung. Về sau ông được học
võ với nhiều vị lão sư có trình độ
võ học cao về lý thuyết lẫn thực hành.
Oâng đã thành lập võ phái Nam Tông. Năm 1950, ông
có lớp dạy võ tại sân vận động
Phan Đình Phùng (Sài Gòn). Năm 1961, ông dạy võ
tại Trung tâm Sinh Hoạt Thanh Niên /Chợ Lớn
(Khu Đại Thế Giới cũ) và tại sân
vận động Cộng Hòa, đường
Nguyễn Kim, Chợ Lớn. Năm 1969, ông được
đắc cử Chủ Tịch, tổng hội Võ
Học Việt Nam. Nam 1970, ông đã xuất bản
sách võ "Thập Bát Liên Châu".
Năm 1920 – sống: Võ sư Lê Sáng, sanh tại Hà
Nội (gốc ở Thanh Hóa), theo học võ từ năm
1939 đến 4/1960 với võ sư Nguyễn Lộc,
sáng tổ của môn phái VoViNam (gọi tắt
của Võ Việt Nam). Trước khi qua đời
(vào ngày 4/4/1960), võ sư Nguyễn Lộc đã
ủy nhiệm lại cho võ sư Lê Sáng chức
vụ Chưởng môn lãnh đạo võ phái VOVINAM .
Về sau, võ sư Lê Sáng đã phát triển một
hệ thống võ đường huấn luyện
cho quân đội, cảnh sát, và dân sự trên toàn
quốc, dưới sự lãnh đạo của
Tổng Cục Huấn Luyện trung ương
tại đường Sư Vạn Hạnh, Chợ
Lớn. Trải qua nhiều thăng trầm với
thời cuộc, môn phái VoViNam đã thật sự
bành trướng mạnh mẽ, sâu rộng trong
quảng đại quần chúng Việt Nam.
Năm 1917 – 199? : Võ sư Mai Văn Phát, pháp danh
Thích Thiện Tánh, sinh tại xã Thuận Hưng,
Thốt Nốt, Long Xuyên. Năm 1929, lên Thất Sơn
thụ giáo với ông Huỳnh Trí Đức về
võ thuật và thiền tông. Năm 1936, tại
Cần Thơ, được gặp võ sư Hia
Thêm, đưa về Trung Hoa để truyền
dạy võ thuật Thiếu Lâm. Năm 1942, hồi hương
Việt Nam. Năm 1943, dạy võ tại Châu Đốc.
Năm 1956, lên Sài Gòn trụ trì tại chùa Long Hoa. Năm
1964, chánh thức thành lập võ đường Trung
Sơn, tại số 53/22 Trần Khánh Dư, Tân
Định (ngang hồ tắm Cộng Hòa cũ). Năm
1971, võ sư đắc cử Chủ Tịch,
Tổng Hội Võ Học Việt Nam.
Năm 1908 – 198? : Võ Sư Trần Phú Đáng, sinh
tại quận Diên Bàng, tỉnh Quảng Nam. Oâng
bắt đầu học võ vào lúc 20 tuổi (1928).
Sau 5 năm luyện võ, lần đầu tiên, ông
đã chiến thắng trận đấu võ đài
được tổ chức tại hội chợ
tỉnh Hội An vào năm 1933. Sau đó mỗi 2 năm,
các trận đấu võ đài tại hội
chợ của các tỉnh (Quảng Trị, Huế,
Đà Nẵng, Quảng Nam), ông đều có tham
dự đấu, có trận thắng hoặc hòa, chưa
có bị thất bại. Năm 1954, ông mở phòng
tập dạy võ tại Đà Nẵng, về sau,
chánh thức thành lập võ đường Trần
Hưng Đạo (tại số 50 đường
Hàm Nghi, Đà Nẵng). Oâng đã đào tạo
rất nhiều võ sinh, huấn luyện viên, đáng
kể là hai cao đồ Đặng Ngọc Sách và
Nguyễn Văn Vĩnh đã mở hai võ đường
riêng, có đông đảo võ sinh trong thành phố
Đà Nẵng, vào năm 1970 – 71.
Năm 1910 – 198? : Võ sư Bảy Hý (tên thật Lê
Công Trứ), sinh tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Lúc 14
tuổi, theo học võ với vị thầy võ
tại Duy Xuyên. Về sau, được thụ giáo
với võ sư Hiệp Vân, một hiệp sĩ
nổi danh vào năm 1930. Oâng đã chiến
thắng oanh liệt các trận đấu võ đài
tại các tỉnh Hội An, Thu Bồn, Đà
Nẵng, vào lúc tuổi thanh niên. Trước 1970,
ông thành lập võ đường Lê Huấn,
tại Đà Nẵng.
Tại Đà Nẵng, đồng thời với võ
sư Bảy Hý, còn có các võ sư lão thành như:
-Võ sư Hồ Phước là chú của Hồ Cưu
(nhà vô địch tại điạ phương
1940)
Võ sư Phan Vũ Túc với võ đường Hòa
Quang Phái (kiêm Đông y sĩ, Vạn Hưng
Đường) tại số 34 đường Ông
Ích Khiêm, Đà Nẵng. Oâng rất kỹ lưỡng
trong việc thu nhận học trò.
Võ sư Trương Khả có tính tình rất vui
vẻ, rất tận tâm, sốt sắng trong
việc dạy dỗ học trò. Vào thời Pháp,
ông đã tham gia vào quân đội lính Lê Dương
của Pháp và được xuất ngoại
rất nhiều nơi như: Pháp, Ý. Trước năm
1970, ông mở võ đường tại xã Thanh Khê
3, ngoại ô Đà Nẵng.
Võ sư Đặng Văn Vàng với Võ Đường
Việt Nam, tại số 132/902 đường
Trần Cao Vân, An Cư 3, Đà Nẵng.
Võ sư Năm Sẻ (tên là Trần Tử Hiếu)
với võ đường Nguyễn Trung Trực,
tại khóm Hòa Bình, Liên Gia 75, xã Hòa Phát, tỉnh
Quảng Nam.
Võ sư Lưu Thanh Bình với võ đường Lê
Trung Hậu, tại xã Hòa Khánh, quận Hòa Vang,
tỉnh Quảng Nam.
Võ sư Nguyễn Lự với võ đường
Cao Thắng, tại Liên Gia 34, thôn An Hòa, Xã Hòa Phát,
quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
Võ sư Tấn Hoành với võ đường thành
lập trước 1970, tại ấp Từ Quang,
Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Võ sư Lâm Võ, tên thật là Lâm Hiến Giới,
sinh năm 1910, tại Tây Hồ, Phúc Kiến,
tỉnh Quảng Đông (Trung Hoa). Thân phụ của
ông tên là Lâm Hùng Sơn thuộc môn phái Thiếu
Lâm Tự. Năm 1945, ông sang sinh sống ở
Việt Nam. Về sau, ông dừng chân tại đất
Quảng Ngãi, vui sống tuổi về già. Trước
năm 1970, ông đã mở võ đường
tại ấp Phú Hòa, Tàu Tương (gần cầu
sông Trà Khúc), tỉnh Quảng Ngãi. Oâng đã đào
tạo được rất nhiều môn đồ
võ công xuất sắc.
Võ sư Thanh Long kiêm Đông y sĩ, với võ
đường thành lập trước 1970 tại
số 96/10 đường Hoàng Diệu, tỉnh
Pleiku.
Võ sư Lãng (đã qua đời trong biến cố
tết Mậu Thân, 1968) thuộc Nga Mi phái, ông đã
có lớp dạy võ tại sân vận động
Tự Do, Huế.
Võ sư Nhuận với võ đường ở Bãi
Dâu (chợ Dinh) Huế.
Võ sư Minh với võ đường ở
đường Lê Lợi, Huế.
Võ sư Lê Văn Tường, dạy võ Thiếu
Lâm và Bình Định, trước năm 1970 với
võ đường Đại Hải, nằm bên
quốc lộ 1, Nha Trang.
Võ sư Võ Châu Long, thuộc phái Bình Định và
Thiếu Lâm Nam phái, đã từng là nhà vô địch
tại Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Trị. Oâng
nổi tiếng gan lì trong nhiều trận đấu
võ đài từ Trung vào Nam. Trước năm 1970,
ông mở võ đường tại đường
Nguyễn Thái Học (gần lò heo) Nha Trang.
Võ sư Kim Sang dạy võ quyền Tự Do vào năm
1970 với võ đường Kim Sang tại số 30
đường Đồng Nai, sau về số 3, Lê
Lai, Nha Trang.
(Người viết xin cáo lỗi: Vì sự hiểu
biết của soạn gỉa có hạn nên còn
thiếu sót rất nhiều về phương danh
của các bậc võ sư lão thành, thuộc
nhiều võ phái khác nhau, trên toàn quốc. Người
viết xin cám ơn trước nếu quí vị
độc giả bổ khuyết cho phần này.
Về tên tuổi, quê quán và hoạt động
của các võ sư lão thành, xin gởi về: Giáo Sư
Vũ Đức, hộp thư PO Box 6204, Rosemead, CA
91770. Thành thật cám ơn.)
MÔN QUYỀN ANH (BOXING)
Trong thời gian quân đội viễn chinh Pháp đặt
chân lên mảnh đất Việt, môn Quyền Anh
(Boxing), với kỹ thuật tay đấm thần
tốc, mãnh liệt, đã được sự ngưỡng
mộ nồng hậu của quần chúng Việt.
Vào thập niên 1960 – 1970, các vị võ sư
huấn luyện Quyền Anh đáng kể như: võ
sư Minh Cảnh, võ sư Huỳnh Tiền, võ sư
Kid-Dempsey, võ sư Trần Mông Lân, võ sư Nguyễn
Son, võ sư Lý Huỳnh, võ sư Minh Thành .... Bộ
môn Quyền Anh được hoạt động dưới
sự chăm sóc của Tổng Cuộc Quyền
Thuật Việt Nam.
Gs Vũ Đức
|