|
 |
 |
 |
 |
 |
Platon |
Hubble |
Halley |
Herschel |
La Place |
Năm 1800 trước
CN:
Người Babylone
thành lập một cuốn lịch dựa trên
sự di chuyển của mặt Trời và
những tuần Trăng. Những
bảng chữ
hình góc (cunéiforme) chứng tỏ rằng họ
biết tiên đoán những hiện tượng như
những nhật, nguyệt thực với sai
số chừng vài phút!
|

Năm 400 trước CN:
Dưới ảnh hưởng
của Platon, người Hy Lạp được
sự giải thích về vũ trụ: trái Ðất
ở trung tâm và những hành tinh quay chung quanh
theo đường tròn.
Đọc tiểu sử Platon
EUDOXE DE CNIDE (khoảng
-406/-355) :
Là học trò của Platon,
thuyết của ông dựa trên các quả cầu đồng tâm: tất cả các vật
trong bầu trời (sao, hành tinh, Mặt Trời, Mặt Trăng) được
đặt trên những quả cầu bằng pha lê trong suốt và chuyển động
quay đều quanh trục để giải nghĩa sự chuyển động không thẳng
của các hành tinh. Có tất cả hai chục quả cầu quay
quanh Trái Đất và mang tất cả các thiên thể.
Các vòng tròn bên đây
tượng trưng cho các quả cầu trong không gian 3 chiều. Trong
hệ thống của EUDOXE có một quả cầu
mang Mặt Trời, một mang Mặt Trăng và ít nhất mỗi quả cầu
mang mỗi hành tinh và ngay cả các ngôi sao cũng được
quả cầu mang nữa. Ông chỉ dựa trên trực giác, hệ thống của
ông không dựa trên một luật vật lý nào cả: nếu các
tinh tú ở đó, có nghĩa là chúng phải đứng trên cái gì
đó, thí dụ ở đây chúng đứng trên các quả cầu pha lê
ARISTOTE (khoảng
-384/-322) :
Aristote, nhà triết học Hy
lạp cho rằng trong vũ trụ có 4 chất: đất, nước, lửa và không
khí.
Ông cũng là tác giả của
thuyết chuyển động thẳng: vật càng nặng, càng rơi nhanh.
Ông cũng tưởng tượng Vũ trụ
hình cầu và giới hạn và Trái Đất nằm ở trung tâm vũ trụ. Theo
ông không có chân không, và các hành tinh ở trong
một nơi gọi là Ether
Đọc tiểu sử Aristote |
ARISTARQUE DE SAMOS (khoảng
-310/-320) :
Ông phát biểu giả thuyết trái đất tròn và chứng minh bằng
những nghiên cứu thiên văn (đáng kể nhất là cái bóng hình
nón trên mặt trăng trong kỳ nguyệt thực)
Aristarque có ý định
tính đường kính của Mặt Trời và Mặt Trăng đối với Trái Đất.
Đặc biệt là ông
nghĩ rằng Trái Đất là một hành tinh như những hành tinh
khác, quay quanh Mặt Trời. Đối với thời đại chúng ta
thì ông là một thiên tài. Nhưng ở thời đại
ông thì lý thuyết của ông trái ngược
với những gì người ta thấy thường ngày.
Và vì không dựa trên căn bản toán
học nên lý thuyết của ông không có kết quả ở thời đại
ông.
Archimède có kể lại trong bài
chuyên
luận Arenaria,
rằng "Aristarque
cho rằng Mặt Trời và các ngôi sao đứng
yên và Trái Đất quay vòng tròn xung quanh Mặt Trời"
|
ERATOSTHENE DE CYRENE (khoảng
-284/-192) :
Nhà thiên văn và nhà địa lý học. Nghiên cứu bóng của nhiều
vật ở nhiều nơi khác nhau trên mặt đất và suy ra bằng toán
chu vi quả địa cầu, thí dụ ông
lấy những tọa độ của cái giếng ở
Assouan và thành phố
Alexandrie..
Ératosthène
de Cyrene điều khiển
thư viện
Alexandrie năm 236 TCN, nên ông đọc
được tất cả kiến thức của thời ông.
Năm 205
TCN, trong khi quan sát bóng của hai cây cắm thẳng
đứng cùng một thời điểm nhưng
ở hai thành phố khác nhau ông hiểu rằng
quả đất tròn. Từ một cuộc thí
nghiệm khác, ông đã có thể tính được
chu vi Trái Ðất với độ chính xác không
ngờ! Ông đề nghị
một phương pháp thuần túy hình học để tính chu vi trái đất
|
HIPPARQUE (khoảng -150)
: 
Ông tiếp tục theo lý thuyết của
Eudoxe de Cnide. Ông thêm
vô nhiều vòng tròn để giải thích những hiện tượng trông thấy
được (điểm phân, équinoxes ...). Tổng
kết ông có tất cả là 90 hình cầu. Là một trong những người
sáng lập môn toán lượng giác (trigonométrie). Ông xác định
khoảng cách Trái Đất- Mặt Trăng, ông đo chu kỳ quay vòng của
Mặt Trăng, giải thích hiện tượng nhật thực, sáng chế
astrolabe, một
dụng cụ đo thiên thể thời xưa.
|
CLAUDE PTOLEMEE (khoảng 90/168)
Claude Ptolémée,
nhà Thiên văn, Ðịa lý và Toán đã viết
một chuyên luận (traité) về Thiên văn tên Almageste.
Ðó là một tập gom nhặt những kiến
thức xưa và đã dùng cho đến thời
kỳ Phục Hưng (nguyên thế kỷ XV đến
đầu thế kỷ XVII). Nhưng trái Ðất
vẫn còn đứng yên một chỗ và ở
trung tâm vũ trụ.
Trong mẫu của Ptolémée, vẫn luôn
có các khối cầu quay quanh Trái Đất, nhưng các hành tinh thì ở trên
những vòng nhỏ (những vòng nhỏ này nằm trên các khối cầu). Ông dùng
hệ thống hơi phức tạp này để giữ nguyên tắc chung là bầu trời
hoàn hảo nên chỉ có những chuyển động theo đường tròn (không có nhật
nguyệt thực hay chuyển động phức tạp).
Cho dù không dựa trên căn bản vật
lý, nhưng hệ thống của ông cũng chính xác trên phương diện hình học.
Nhờ ông mà lúc bấy giờ cho dù không có một diển tả vật lý nào, nhưng
người ta cũng biết trước được vị trí của các hành tinh, Mặt Trời,
Mặt Trăng và lập ra những lịch sao (éphémérides)
gần giống y như lịch sao mà chúng ta có ngày nay. Tác phẩm của ông
tên Almageste.
Bản vẽ nguyên tắc hệ thống
Ptolémée giống y như hệ thống của Eudoxe de Cnide,
trừ các hành tinh chuyển động trên vòng nhỏ và chính
vòng này cũng quay quanh quả cầu thủy tinh trong suốt
Hệ thống Ptolémée
được nổi tiếng bởi đã sống trong một
thời gian lâu dài, cho tới cuối thế kỷ thứ 16.
Người Hy lạp vào thời đó
rất tiến bộ về hình học: Họ có khả năng biết trước một cách khá
chính xác phần lớn các hiện tưọng xảy ra trên bầu trời: vị trí
các hành tinh, nhật nguyệt thực, mùa màng...
Vào thời đại đó, ngành chiêm tinh
phát triển quan trọng và ngành này liên quan tới ngành thiên
văn
|
Hồng Y NICOLO CUSANO
và Giám mục NICOLAS D'ORESME (16ème siècle) :
là những người đầu tiên nghi
ngờ tư tưởng của Ptolémée và là những người đầu tiên không
hài lòng kiểu hệ thống vũ trụ địa tâm |

Năm 1543
Nicolas Copernic
(1473-1543)
cho là mặt Trời ở trung tâm vũ
trụ
Ông
in ra thuyết mình trong tác phẩm "De
Revolutionibus Orbium Coelestium" en 1543,
cũng là năm ông mất.
Hệ thống Copernic dựa
trên sự quả quyết rằng trái đất quay quanh chính nó 1 vòng
trong một ngày và quay quanh mặt trời một vòng trong một
năm.
Ngoài ra, những hành
tinh khác cũng ở xung quanh mặt trời. Như vậy, trái đất có
sự tiến động trên trục của nó khi nó quay (cũng giống như
một con vụ vừa quay xung quanh nó, vừa quay vòng)
Hệ thống Copernic còn giữ
lại một số lý thuyết xưa như những khối cầu thật chắc mang
những hành tinh và mang những ngôi sao đứng yên.
Thuyết của Copernic có ưu điểm hơn của
Ptolémée là giải thích được sự chuyển động hàng ngày của mặt
trời và sao (do chuyển động của trái đất xung quanh chính
nó) và chuyển động của mặt trời hàng năm (do sự chuyển động
của trái đất quanh mặt trời). Ông giải thích được chuyển
động bề ngoài có vẻ ngược của Mars, Jupiter và Saturne
và Mercure và Vénus giữ nguyên độ xa đối với mặt trời
Ngoài ra thuyết Copernic cho một bảng thứ
tự mới của các hành tinh tùy chu kỳ quay vòng của chúng
Hệ thống Copernic khác của Ptolémée là
bán kính quỹ đạo của hành tinh càng lớn thì càng cần nhiều
thời gian hơn để hành tinh đó quay một vòng quanh mặt trời
Cũng nhờ thuyết này mà Copernic có thể
suy ra rằng các ngôi sao ở rất xa so với khoảng cách giữa
Mặt Trời và các hành tinh
Lúc đầu, hệ thống Copernic không được
kết quả cho lắm, tuy nhiên ông cũng đã bổ túc cho cách suy
nghĩ của các nhà khoa học thời bấy giờ. Copernic không
tìm cách bắt người ta phải nhận thuyết mình bởi vì ảnh hưởng
của áp lực nhà thờ thời đó
Đọc
tiểu sử Nicolas Copernic
|
GIORDANO
BRUNO (1548-1600) :
Ngược với
Copernic,
Giordano Bruno không do dự
khi nói trái ngược với nhà thờ: ông đã bảo vệ tư
tưởng của Copernic và bảo vệ Vũ trụ vô tận.
Nhà thờ đã thiêu sống ông.
Đọc cuộc đời của Giordano Bruno |
TYCHO BRAHE (1546-1601) :
Ông theo ý của Copernic nhưng
không nhận là Trái Đất chuyển động. Hệ thống do ông
nghĩ ra hơi phức tạp, là trái đất không quay
mà chính Mặt Trời quay quanh Trái Đất nhưng
các hành tinh khác lại quay quanh Mặt Trời.
Ông không chấp nhận Trái
Đất là trung âm Vũ trụ.
Ông đã tìm ra và in một quyển
viết về 777 ngôi sao
Đọc tiểu sử Bahé
Tycho
 |
Tư tưởng của Copernic chỉ
được công nhận vào đầu thế kỷ thứ 17 bởi Képler và
Galilée
|

KEPLER (1571-1630) :
Képler chịu
ảnh hưởng tín ngưỡng, nhưng cũng là một nhà
toán học lớn. Ông cũng công nhận cho dù một cách
miễn cưỡng những kết quả do ông tính vì trái
với tín ngưỡng. Ông rất nổi tiếng nhờ ba
định luật danh tiếng của ông đã mang tên ông: Định
luật Képler 1, 2 và định luật Képler 3.
Năm 1596
Johannes Kepler bảo
vệ hệ thống của Copernic. Vì
những công trình của ông và vì ông theo Tin Lành
(protestant) , ông nghi ngờ nhà Thờ và trốn tránh,
ở bên cạnh nhà thiên văn Ðan Mạch
Tycho
Brahe (1546-1601). Nhờ những quan sát
của Tycho Brahé mà Kepler chứng minh được
rằng quỹ đạo những hành tinh có hình
bầu dục chớ không hình tròn. Mặt
Trời có mặt ở tâm của một
trong những quỹ đạo này
Năm 1619
Kepler phát biểu
định luật cuối cùng trong ba định
luật nổi tiếng dưới tên của ông:
Ðịnh luật Kepler 1 và 2,
và
định
luật Kepler 3
Đọc tiểu sử Johannes
Képler |
|
(Còn tiếp)
|
|
http://www.selenehelios.net
©
http://vietsciences.free.fr Võ
Thị Diệu Hằng |