1.
Khái quát chữ Hán
Chữ Hán có nguồn gốc từ
Trung Quốc, sau đó được du nhập vào các nước khác
trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.
Ở Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, chữ Hán được
mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của từng nước.
Phần này khái quát lịch sử chữ Hán ở Trung Quốc và
sự du nhập và phát triển của chữ Hán ở các nước lân
cận Trung Quốc gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.
Chữ Hán ở Trung Quốc:
Theo
nhiều tài liệu viết về chữ Hán thì chữ Hán bắt nguồn
từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát
đồ vật xung quanh và viết thành dạng chữ tượng hình,
chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kỳ
phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được
cho là loại Chữ Giáp Cốt (Giáp Cốt Tự -
甲骨字),
chữ viết xuất hiện vào đời nhà Ân (殷)
vào khoảng thời 1600-1020 trước Công Nguyên. Chữ
Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên các mảnh xương thú
vật, và có hình dạng rất gần với những vật thật quan
sát được. Một ví dụ về chữ Giáp Cốt được cho trong
hình sau [2].
|
Chữ Giáp Cốt viết bằng
chữ Hán hiện đại:
丁 未 卜 賓
Đinh Vị Bốc Tân
丁 未 卜 賓 貞 今
Đinh Vị Bốc Tân Trinh
Kim
辛 亥 卜 争 貞 登 人
Tân Hợi Bốc Tranh Trinh Đăng Nhân |
Chữ
Giáp Cốt (trích từ Hayashi et al. 1997)
Chữ Giáp Cốt tiếp tục
được phát triển qua các thời: thời nhà Chu
周 (1021-256 tr.
CN) có Chữ Kim (Kim Văn –
金文) - chữ viết
trên các chuông (chung) bằng đồng và kim loại, thời
Chiến Quốc
戦国 (403-221 tr. CN) và thời
nhà Tần
泰 (221-206 tr. CN) có Chữ
Triện (Đại Triện và Tiểu Triện) và có Chữ Lệ (Lệ Thư
–
隶書),
và thời nhà Hán
漢
(Tiền Hán 206 tr. CN – 8 sau CN, Hậu Hán 25-220) có
Chữ Khải (Khải Thư -
楷書), Chữ Khải còn
có thể được chia thành Chữ Hành (Hành Thư –
行書) và Chữ Thảo (Thảo Thư –
草書). Chữ Khải là
loại chữ được
dùng bút lông chấm mực tàu viết trên giấy và rất gần
với hình dáng chữ Hán ngày nay vẫn còn được dùng ở
Nhật, Đài Loan hay Hồng Kông.
Chữ Thảo là loại chữ được viết bằng bút lông có lược
bớt hoặc ghép một số nét lại. Sự phát triển chữ Hán
trải qua các thời kỳ có thể được minh họa bằng một
số chữ sau:
Minh họa sự
phát triển của chữ Hán - chữ Khứ [11]
Chữ Giáp Cốt-Chữ Kim-Chữ
Triện-Chữ Lệ-Chữ Khải-Chữ Thư
Chữ Giáp Cốt (Giáp Cốt
Tự –
甲骨字):
Chữ Triện (Triện Thư –
篆書):
Chữ Khải (Khải Thư –
楷書):
Chữ Hành (Hành Thư –
行書): (chữ
Kê
鶏,
nghĩa là con gà)
Ngày nay chữ Hán ở Trung
Quốc đã có xu thế được giản lược đơn giản hơn và ở
Trung Quốc còn sử dụng hai loại chữ: Chữ Phồn Thể (繁体字) và Chữ Giản Thể (簡体字)
như sau [11]:
Chữ Quốc dạng Chữ Phồn
Thểđược
đơn giản thành Chữ Giản Thể .
Chữ Mã dạng Chữ Phồn Thể được
đơn giản thành Chữ Giản Thể .
Chữ Thể dạng Chữ Phồn
Thể được
đơn giản thành Chữ Giản Thể .
Chữ Hán ở Triều Tiên:
Theo tác giả Lê Anh Minh
và các nguồn tham khảo khác, Hán ngữ được du nhập
vào bán đảo Triều Tiên khá lâu, khoảng thời kỳ đồ
sắt. Đến thế kỷ thứ 4 trước công nguyên xuất hiện
các văn bản viết tay của người Hàn. Các bản viết tay
này được sử dụng chữ Hán. Tiếng Hán là thứ ngôn ngữ
khó, dùng chữ Hán để viết tiếng Triều Tiên trở nên
phức tạp, cho nên các học giả người Hàn đã tìm cách
cải biên chữ Hán để phù hợp với âm đọc của tiếng
Hàn. Vào khoảng thế kỷ thứ 15, ở Triều Tiên xuất
hiện chữ Hàn, được gọi là Hangul (한글),
chữ này trải qua nhiều thế kỷ phát triển thăng trầm,
cuối cùng chính thức được dùng thay thế cho chữ Hán
cho tới ngày nay. Chữ Hàn ra đời, lúc ban đầu gồm 28
ký tự, sau đó còn 24 ký tự giống như bảng chữ cái hệ
chữ La Tinh, và được dùng để ký âm tiếng Hàn. Tuy
chữ Hàn ra đời nhưng chữ Hán vẫn còn được giảng dạy
trong trường học. Năm 1972, Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã
quy định phải dạy 1800 chữ Hán cơ bản cho học sinh.
Chữ Hán ở Nhật:
Theo tác giả Lê Anh Minh
thì chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường
Triều Tiên. Chữ Hán ở Nhật được gọi là Kanji, Hán Tự
(漢字),
và được du nhập vào Nhật theo con đường giao lưu
buôn bán giữa Nhật và Triều Tiên vào khoảng thế kỷ
thứ 4, 5 CN. Tiếng Nhật cổ đại vốn không có chữ
viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật, người Nhật
dùng chữ Hán để viết tiếng nói của họ. Dạng chữ đầu
tiên người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng
Nhật là chữ Man-yogana – Vạn Diệp Giả Danh
万葉仮名.
Hệ thống chữ viết này dựa trên chữ Hán và khá phức
tạp. Chữ Vạn Diệp Giả Danh được đơn giản hóa thành
Hiragana
ひらがな (Bình Giả
Danh
平仮名), và Kagakana
カタカナ (Phiến Giả Danh
片仮名). Cả hai loại
chữ này trải qua nhiều lần chỉnh lý và hoàn thiện
mới trở thành chữ viết ngày nay ở Nhật. Tiếng Nhật
hiện đại được viết bằng bốn loại ký tự 1) Chữ Hán
(Kanji,
漢字),
2) Hiragana (ひらがな), 3) Katakana (カタカナ),
và 4) chữ La Tinh (Romaji,
ローマ字). Chữ La
Tinh dùng trong tiếng Nhật là bảng chữ cái tiếng Anh
được phiên âm hóa theo tiếng Nhật và được dùng như
là loại ký tự thứ tư để viết các công thức và khi
cần viết nguyên gốc các từ có nguồn gốc từ các tiếng
dùng chữ viết La Tinh. Tiếng Nhật cũng có thể được
viết bằng chữ La Tinh, nhưng cách viết này không
thông dụng mà chỉ được dùng để nhập dữ liệu trên máy
tính hoặc dùng để dạy tiếng Nhật cho người nước
ngoài. Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất
hai cách đọc, cách đọc theo âm Hán cổ, được gọi là
On-yomi (Âm Độc,
音読), và cách đọc
theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun-yomi (Huấn Độc,
訓読). Trong quá trình phát
triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn mượn
chữ Hán để sáng tạo ra một số chữ (khoảng vài trăm
chữ) và mỗi chữ này chỉ có cách đọc theo âm tiếng
Nhật, và được gọi là Quốc Tự (Kokuji -
国字), tiếng Nhật gọi là Quốc Tự
Quốc Huấn (国字国訓), tạm hiểu là “chữ quốc
ngữ âm quốc ngữ”. Những chữ quốc ngữ này của người
Nhật có cách hình thành khá giống chữ Nôm của Việt
Nam (xin xem phần sau về chữ Nôm). Tháng 11 năm
1946, Bộ Giáo dục Nhật đề nghị đưa vào giảng dạy
1850 chữ Hán cơ bản trong trường học, và được Quốc
hội Nhật thông qua năm 1847. Đến năm 1981 thì lượng
chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm khoảng
1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác
dùng để viết tên người. Đến năm 2000, các chữ Hán
dùng để viết tên người được điều chỉnh thêm, số
lượng tăng lên trên 400 chữ. Các chữ Hán này được
lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng
(Jyoyo Kanji Hyo - Thường Dụng Hán Tự Biểu
常用漢字表), và Bảng chữ Hán dùng
viết tên người (Jinmeiyo Kanji Hyo - Nhân Danh Dụng
Hán Tự Biểu人名用漢字表).
Chữ Hán ở Việt Nam:
Theo nhiều nguồn tư
liệu thì trước khi chữ Hán du nhập vào Việt Nam,
người Việt chúng ta chưa có chữ viết, mà chỉ có
tiếng nói, tiếng Việt cổ đại, là thứ ngôn ngữ thuộc
họ Mường-Khmer, khác hẳn họ ngôn ngữ với tiếng Hán.
Gần đây những dấu vết khảo cổ học chúng ta khai quật
được có dấu hiệu cho biết có thể tiếng Việt đã có
chữ viết dạng nguyên thủy trước khi chữ Hán du nhập
vào Việt Nam. Một số tài liệu cổ của Trung Quốc cũng
có viết về sự tồn tại của một loại ngôn ngữ và chữ
viết ở phía nam Trung Quốc, có thể đó là tiếng Việt.
Tuy nhiên giả thiết này chưa đứng vững vì thiếu cơ
sở, hoặc giả nếu tồn tại chữ viết như vậy ở Việt
Nam, chữ viết đó đã không có đều kiện phát triển
dưới thời bắc thuộc [10]. Nhiều tác giả cho rằng chữ
Hán du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ 1 trước
công nguyên, ngay sau khi quân Hán phương bắc chiếm
xong Việt Nam. Trong suốt một nghìn năm, từ thế kỳ 1
tr.C.N. tới năm 938, tiếng Việt bị ảnh hưởng mạnh mẽ
của tiếng Hán. Trong suốt thời gian bắc thuộc với
chính sách Hán hóa của nhà Hán, tiếng Hán đã được
giảng dạy ở Việt Nam, và người Việt Nam đã chấp nhận
thứ ngôn ngữ mới đó song song với tiếng Việt, tiếng
nói truyền miệng. Người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán
và chữ Hán, đồng thời đã Việt hóa nhiều từ của tiếng
Hán thành từ tiếng Việt, gọi là từ Hán Việt. Có rất
nhiều từ Hán Việt đã đi vào trong từ vựng của tiếng
Việt. Sự phát triển của tiếng Hán ở Việt Nam trong
thời kỳ bắc thuộc song song với sự phát triển của
tiếng Hán ở chính Trung Quốc thời đó. Tuy nhiên, năm
938, bằng chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, Việt
Nam đã độc lập và không còn lệ thuộc vào phương bắc
nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề của
tiếng Hán. Sau ngày dành được độc lập, mặc dù tiếng
Hán là ngôn ngữ được sử dụng chính thức, nhưng đã
phát triển theo hướng khác với sự phát triển tiếng
Hán ở Trung Quốc. Tiếng Hán vẫn tiếp tục được dùng
và phát triển nhưng cách phát âm các chữ Hán lại
theo cách phát âm của người Việt, và chúng ta có âm
Hán Việt. Do nhu cầu phát triển của tiếng Việt,
tiếng nói của dân tộc, người Việt Nam đã sử dụng chữ
Hán để tạo ra chữ viết cho chính mình, và chữ viết
của người Việt dựa trên chữ Hán đã ra đời. Đó là chữ
Nôm. Nhiều học giả đã gắng đi tìm bằng chứng thời
điểm ra đời chính xác của chữ Nôm, nhưng cho đến nay
vẫn chưa có bằng chứng thống nhất thời điểm ra đời
của chữ Nôm. Một số tác giả cho rằng chữ Nôm bắt đầu
hình thành từ thời dành được độc lập và được sử dụng
lần đầu vào đời nhà Lý (vào khoảng thế kỷ thứ
11-12). Chữ Nôm là chữ viết cổ của tiếng Việt được
hình thành từ việc mượn chữ Hán. Sự ra đời của chữ
Nôm ở Việt Nam cũng tương tự như sự ra đời của chữ
viết ở Triều Tiên và Nhật Bản. Người Việt mượn chữ
Hán để ghi âm thanh tiếng Việt. Chữ Nôm là dạng
chữ biểu ý được hình thành dựa trên chữ Hán bằng
cách mượn một chữ Hán hoặc hai ba chữ Hán kết hợp
với nhau. Có thể tóm tắt chữ Nôm được tạo ra từ chữ
Hán theo một số nguyên tắc sau:
1) dùng chữ Hán có âm và nghĩa giống tiếng
Việt, ví dụ: chữ Chè
茶 dùng chữ Hán “Tra”
茶, chữ Là
羅 viết từ chữ Hán
“La”
羅 v.v…
2) ghép hai hay 3 chữ Hán với nhau, ví dụ:
Tháng = Nguyệt
月 + Thượng
尚; Mắt = Mục
目
+ Mạt
末, v.v…
3) dùng một chữ Hán có âm giống như âm
tiếng Việt, loại này người viết chữ chỉ trú trọng về
âm, không chú trọng về nghĩa, ví dụ, chữ
我 có âm đọc là “ngã”, nghĩa là
“tôi”, đối chiếu với tiếng Việt thì có chữ “ngã”
trong từ “ngã nhào” là thích hợp. Do đó chữ
我 trong tiếng Nôm được đọc là
“ngã” [4].
4) Ngoài ra chữ Nôm còn được hình thành
bằng một số hình thức khác [4]. Về cơ bản cách tạo
thành chữ Nôm cũng giống như cách hình thành chữ
Hán. Xem chi tiết các hình thành chữ Hán ở phần sau.
Thời xưa chữ Nôm có lẽ
không được tiêu chuẩn hóa cho nên tự ai nấy diễn đạt
chữ viết theo riêng mình, làm cho một chữ Nôm có thể
được viết theo một vài cách khác nhau. Và điều này
gây ra sự phức tạp trong chữ Nôm [4]. Do đó chữ Nôm
đã không được truyền bá rộng rãi trong dân chúng.
Mặc dù chữ Nôm ra đời, nhưng thực tế không được coi
trọng và không trở thành chữ viết chính thức cho
Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của chữ Nôm, chỉ
trừ hai thời đại ngắn ngủi: Hồ Quý Ly (1400-1407) và
Quang Trung Nguyễn Huệ (1788-1792), chữ Nôm hoàn
toàn bị “thả lỏng” [10], tức là không được trú trọng
và tiếp tục phát triển thành chữ quốc ngữ. Tuy không
được truyền bá rộng rãi trong dân chúng, nhưng chữ
Nôm đã được nhiều học giả và các nhà văn nhà thơ sử
dụng trong việc ghi tên địa danh Việt Nam và trong
sáng tác các tác phẩm văn học.
Chữ Nôm được dùng song
song với chữ Hán cho đến thế kỷ thứ 16, khi các nhà
truyền đạo phương tây vào Việt Nam, họ đã dùng chữ
La Tinh để phiên âm tiếng Việt, và chữ Quốc ngữ bắt
đầu ra đời. Chữ Quốc ngữ bằng chữ La Tinh ra đời dần
dần thay thế chữ Hán Nôm do sự đơn giản dễ nhớ dễ
học, và đặc biệt chữ Quốc ngữ có thể phiên âm được
các âm thanh có trong tiếng Việt. Và cho đến đầu thế
kỷ 20, chữ Quốc ngữ chính thức thay thế chữ Hán Nôm,
và chữ Hán Nôm đã không còn được giảng dạy và học
trong trường học nữa. Đến nay đã gần thế kỷ, nhiều
thế hệ người Việt Nam không còn được học chữ Hán Nôm
nữa. Do vậy sợi dây liên hệ giữa chữ Quốc ngữ với
chữ Hán Nôm đã bị gián đoạn. Chữ Quốc ngữ ra đời tuy
đơn giản, dể nhớ dễ học nhưng lại có nhược điểm là
chữ biểu âm khó diễn đạt hết các từ cùng âm khác
nghĩa vốn rất nhiều trong tiếng Hán và tiếng Việt.
Và vì lý do này, chúng ta thấy rằng có nhiều từ
chúng ta dùng sai, nhưng do dùng lâu quen và do đó
từ sai trở thành từ đúng. Và cũng chính vì việc từ
khi sử dụng chữ Quốc ngữ không tiếp tục giảng dạy và
học chữ Hán Nôm đã làm cho những thế hệ ngày nay
không còn biết đến chữ Hán Nôm nữa, và không thể đọc
được những tư liệu sách vở trong kho di sản Hán Nôm
ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Chính vì điều đó mà
chúng ta thấy rằng nếu chúng ta sử dụng chữ Quốc ngữ
và biết thêm chữ Hán Nôm, nghĩa là khi chúng ta đã
chính thức dùng chữ Quốc ngữ chúng ta cũng vẫn duy
trì việc dạy và học chữ Hán Nôm trong trường với một
số lượng nhất định những chữ Hán Nôm thong dụng
(giống trường hợp của Triều Tiên và Nhật Bản) thì
chúng ta đã có thể hiểu rõ và dung đúng tiếng Việt
hơn. Ngày nay, tuy đã muộn, nhưng nếu chúng ta kịp
thời phục hưng được chữ Hán Nôm, kịp thời đưa chương
trình giảng dạy chữ Hán Nôm và trong trường học,
chúng ta sẽ có thể làm cho tiếng Việt phong phú đa
dạng hơn, và cũng là tạo cho những thế hệ sau có thể
nối tiếp công việc nghiên cứu kho di sản Hán Nôm của
dân tộc, và cũng là tạo cơ hội tốt trong quan hệ
thương mại và trao đổi giao lưu với các nước sử dụng
chữ Hán trong khu vực.
2.
Sự tạo thành Chữ Hán - Lục Thư
(六書)
Chữ Hán được hình thành
theo các cách sau [2]:
Chữ Tượng Hình
(Shokei Moji
象形文字):
Chữ Hán “Xuyên” (Kawa
川,
nghĩa là sông) được viết bằng ba đoạn thẳng như
trong hình vẽ. Đoạn thẳng ở giữa biểu diễn ý nghĩa
là dòng nước chảy, và hai đoạn thẳng ở mép là bờ
sông.
---->
---->
Chữ “Xuyên” này nguyên
gốc được hình thành như hình vẽ con sông, và được
gọi là Chữ Tượng Hình (Tượng Hình Văn Tự, Shokei
Moji
象形文字).
“Tượng hình” có nghĩa là tạo nên hình cho chữ viết.
Chữ Chỉ Sự
(Shiji Moji
指事文字) hay Chữ
Biểu Ý (Hyôi Moji
表意文字) : Trong quá
trình phát triển của loài người, sự sinh hoạt và
cách suy nghĩ của con người ngày càng cao, những chữ
tượng hình không còn đủ để diễn tả những sự việc nữa
nên người ta đã nghĩ ra thêm những Chữ Chỉ Sự. Ví
dụ, để tạo nên chữ Bản (Moto
本),
diễn đạt nghĩa “gốc rễ của cây” (Ki no ne
木の根), thì người ta dùng chữ Mộc (Moku
木)
và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa “ở đây là gốc rễ”
và chữ Bản (本)
được hình thành như hình vẽ dưới.
---->
---->
Chữ Thượng (上), chữ Hạ (下)
và chữ Thiên (天)
cũng là những Chữ Chỉ Sự được hình thành theo cách
tương tự. “Chỉ Sự” có nghĩa là chỉ định một sự vật
và biểu diễn bằng chữ.
Chữ Hội Ý
(Hội Ý Văn Tự, Kaii Moji
会意文字): Để làm
tăng thêm Chữ Hán, cho đến nay người ta có nhiều
phương pháp tạo nhiều chữ mới có ý nghĩa mới. Ví dụ,
chữ Lâm (Hayashi
林, rừng nơi có
nhiều cây) có hai chữ Mộc (木)
xếp hàng đứng cạnh nhau được làm bằng cách ghép hai
chữ Mộc với nhau và được gọi là chữ Lâm. Chữ Sâm (森,
rừng rậm nơi có rất nhiều cây) được tạo thành bằng
cách ghép ba chữ Mộc, còn chữ Minh (鳴,
nghĩa là kêu, hót) được hình thành bằng cách ghép
chữ Điểu (鳥,
nghĩa là con chim) bên cạnh chữ Khẩu (口,
nghĩa là mồm), chữ Thủ (取,
nghĩa là cầm, nắm) được hình thành bằng cách ghép
tai (chữ Nhĩ
耳, nghĩa là tai) của động vật
với tay (chữ Thủ
手, chữ Hựu又).
Những chữ được tạo thành theo phương pháp ghép như
trên gọi là Chữ Hội Ý (Kaii Moji
会意文字).
“Hội Ý” có nghĩa là ghép ý nghĩa với nhau.
口(Khẩu)
+
鳥
(Điểu)
=
鳴
(Minh)
Chữ Hình Thanh
(Keise Moji
形声文字):
Cùng với những Chữ Tượng Hình, Chỉ Sự và Hội Ý, có
nhiều phương pháp tạo nên Chữ Hán, nhưng có thể nói
là đa số các Chữ Hán được hình thành bằng phương
pháp hình thanh, gọi là Chữ Hình Thanh (Keise Moji
形声文字). Chữ Hình
Thanh chiếm tới 80% toàn bộ Chữ Hán. Chữ Hình Thanh
là những chữ bao gồm hai phần: phần hình (形)
là phần biễu diễn ý nghĩa chính mà đã được dùng từ
lâu đời, và phần thanh (声) là phần biểu diễn cách phát
âm chính xác của từ đó. Ví dụ, chữ Khẩu (口)
có hình biểu diễn việc ăn hoặc nói, và chữ Vị (未)
có các phát âm là Mi biểu diễn ý nghĩa Mùi, khi ghép
hai chữ với nhau tạo nên chữ Vị (味).
Bộ Thủy (氵) biểu diễn nghĩa dòng sông
hoặc dòng chảy của nước, khi ghép cùng với chữ Thanh
(青)
(nghĩa là màu xanh) tạo thành chữ Thanh (清)
có nghĩa là “trong suốt” hoặc “trong xanh”.
Chữ Chuyển Chú
(Tenchu Moji
転注文字):
Các Chữ Hán được hình thành bằng bốn phương pháp kể
trên, nhưng trong số các Chữ Hán thì còn có những
chữ có thêm những ý nghĩa khác biệt, và được sử dụng
trong những nghĩa hoàn toàn khác biệt đó. Ví dụ, chữ
Dược (薬), có nguồn gốc biểu diễn “âm
nhạc” (từ chữ Lạc hay Nhạc
楽),
âm nhạc làm cho lòng người cảm thấy sung sướng phấn
khởi nên. Chữ Lạc (楽)
có cách phát âm là “Raku” có nghĩa là “sung sương
phấn khởi” (Tanoshii). Chữ Dược (薬)
được tạo thành bằng cách ghép thêm bộ Thảo ()
(có nghĩa là cây cỏ) vào chữ Lạc (楽).
Chữ được hình thành theo phương pháp này được gọi là
Chữ Chuyển Chú (Tenchu Moji
転注文字).
Chữ Giả Tá
(Kashaku
仮借文字):
Ví dụ chữ Lai (Rai
来)
có nguồn gốc biểu diễn nghĩa là “mạch” (Mugi, từ chữ
Mạch
麦 麥), nhưng được
sử dụng có nghĩa là “Kuru” (đến, tới) có cùng cách
phát âm là “Rai”. Những chữ được hình thành theo
phương pháp bằng cách mượn chữ có cùng cách phát âm
được gọi là Chữ Giả Tá (Kashaku Moji
仮借文字).
Ở
trên giải thích về bốn cách tạo chữ và hai cách sử
dụng chữ Hán. Bốn cách tạo chữ và hai cách sử dụng
được gọi chung là Lục Thư (六書).
|