Những bài cùng tác giả
Sakura, nhạc truyền thống Nhật
Trở lại Nhật Bản lần nầy tôi được cái may mắn làm một du khách cùng với
Ba Mẹ tôi gia nhập vào một đoàn du lịch cùng chu du Nhật Bản. Dù là một du
khách hơi "bất đắc dĩ", tôi cũng tìm được thời gian để nhìn lại Tokyo,
Kyoto, Osaka, những khu trung tâm như Ginza, Shinjuku, Ikebukuro, Shinagawa.
Thành phố Tokyo được phát triển nhiều mặt. Nhiều địa danh mới với những
tuyến đường xe điện, xe điện ngầm mới làm tôi ngạc nhiên đến bàng hoàng.
Vào thập niên 60 toà nhà cao 30 tầng gần ga Hamamatsu-cho đã từng được xem
là toà nhà cao nhất nước Nhật. Sau khi Keio Plaza Hotel cao gấp đôi được xây
gần cửa Tây ga Shinjuku với thiết kế chống động đất, người Nhật xây hàng
loạt khách sạn 5 sao cao tầng xung quanh những nhà ga chính như Shinjuku,
Ikebukuro, Shinagawa làm thay đổi bộ mặt Tokyo. Những kiến trúc to lớn mà
tôi biết được trong chuyến du lịch nầy như quảng trường Takashimaya Time
Squares ở Shinjuku hay Rainbow Bridge màu trắng bắt ngang vịnh Tokyo với
dáng dấp của Golden Gate Bridge ở San Francisco làm cho khung trời Tokyo trở
nên khoáng đãng hơn phảng phất một không khí Tây Phương.
 |
Quảng trường Takashimaya Time
Squares (Tokyo) |
 |
Rainbow Bridge (Tokyo) |
Những gì tôi muốn tìm lại thì
không còn hiện hữu, những gì tôi không mong đợi thì không hẹn mà gặp. Con
đường, nhà ga của quá khứ không đẹp như bây giờ nhưng cũng đủ gợi trong tôi
một niềm cảm xúc một sự bồi hồi khi trở
lại chốn xưa. Ký ức của thời
sinh viên bây giờ chỉ là những hình ảnh nhạt nhoà trước sự phát triển đô thị
ồ ạt trong vài chục năm qua. Những con đường cũ đã thay hình đổi dạng. Cảnh
vật cùng
thay đổi với con người. Những bước đi thoăn thoắt của "daikon ashi" (1) đã
biến mất trên đường phố, trong nhà ga mà bây giờ chỉ thấy những dáng đi thon
thả dịu dàng của những office ladies cũng thời thượng không kém gì các bậc
đàn chị trước kia. Những quán nhậu "akachochin" (2) với cái đèn lồng đỏ treo
lủng lẳng trước quán, những tiệm mì ăn đứng "tachigui soba" (3) lần lượt
biến mất với thời gian, hay trở thành "chain store" mà thức ăn mất dần đi cá
tính vì phương pháp sản xuất hàng loạt. Khi tôi rủ anh bạn Nhật đi ra quán
akachochin năm xưa, anh bạn nửa đùa nửa thật bảo tôi "Ồ… Tân-san!
Sao lỗi thời quá! Nước Nhật đã đi vào thế kỷ 21 rồi làm gì còn akachochin
nữa!". Câu nói của anh bạn làm tôi hơi "sốc" biết rằng mình bị đẩy vào
thế hệ cũ tuy vẫn phải chấp nhận thời gian đã san bằng và khỏa lấp tất cả.
Mà thật vậy, tôi đi từ Tokyo đến Osaka không còn thấy những quán lụp xụp với
chiếc đèn lồng đỏ bán những món nhậu đặc biệt Nhật Bản của năm xưa.
"Những ngày xưa thân ái" không thể
nào thiếu cái món mì ăn đứng "tachigui soba". Cái thời sinh viên còn nghèo,
không phải vì thích cái món nầy mà chỉ vì nó vừa túi tiền học trò. Nhưng ăn
nhiều lần cũng ghiền lại cảm thấy ngon, mà nghĩ lại thì chỉ ăn toàn là bột
qua nhiều dạng vật lý khác nhau. Thỉnh thoảng muốn ăn sang thêm 50 yen để có
quả trứng sống bỏ vào tô mì. Sang thêm chút nữa thì thêm 50 yen được miếng
tempura tôm. Cái tempura bột chiên thì nhiều nhưng con tôm thì chỉ bằng ngón
tay út, nhiều lúc chỉ ngửi được mùi tôm nhưng chả thấy con tôm..... Trên
những bước đường lưu lạc lang thang xứ người xứ ta tôi cũng có may mắn thử
qua các món "sơn hào hải vị" Tây Tàu Việt Nhật đủ cả, nhưng tôi không bao
giờ quên cái món tachigui soba với tô nước dùng đo đỏ trong trong nóng hổi
có vị nước tương Nhật Bản, cái miếng tempura ăn xốp xốp dòn dòn với một chút
ớt bột shichimi cay cay, một chút hành xắt mỏng, vừa ăn vừa bưng cái tô húp
xì xụp. Cái món zaru soba cũng vậy.
Đi vào quán ăn không đủ tiền ăn "gomoku ramen" (4) (mì thập cẩm) thì phải
chọn lấy zaru soba. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao zaru soba phải để
trên một phiến tre. Nhìn vào giống như cái giường trải chiếu nên anh em vui
miệng gọi là soba "giường"! Một món ăn đơn giản nhưng cái vị cay nồng của
wasabi trong chén nước chấm thì không bao giờ quên được.
Chiếc xe bus đưa chúng tôi đến Kyoto. Con
đường Gion Douri vẫn tấp nập khách nhàn du từ khắp nơi trên thế giới. Dòng
sông Kamogawa vẫn lững lờ trôi qua cố đô ngàn năm yêu kiều nầy. Bờ sông như
một công viên đường thẳng. Những cặp trai gái ngồi trên bãi cỏ dọc theo hai
bên bờ với một khoảng cách đều đặn, đủ gần để chừa chỗ trống cho người khác
nhưng đủ xa để còn có một chút "riêng tư". Dòng sông tạo một không gian tĩnh
mịch dường như muốn chứng kiến những mối tình "cố đô" kéo dài từ thế hệ nầy
sang thế hệ khác. Cố đô nào dù Huế hay Kyoto và con người của cố đô lúc nào
cũng có một bản sắc riêng của nó. Giọng nói yểu điệu hoàng cung lên lên
xuống xuống của người con gái Kyoto lúc nào cũng khiến cho lòng người rung
động. Tôi bất chợt nhớ đến bài ca "Shiroi buranko" (Chiếc đu màu
trắng) mà tôi có dịp nghe từ một cô bạn năm xưa vai sánh vai cùng đi dọc
theo dòng Kamogawa. Thoang thoảng bên tai lời ca trong một giai điệu nhè nhẹ
Kyoto "Boku no kokoro ni ima mo yureru" (Đến bây giờ con tim tôi vẫn
còn rung động).....
Những danh lam, thắng cảnh, chùa chiền ở Kyoto
ngày xưa êm đềm lãng mạn bao nhiêu thì bây giờ ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu. Số
lượng khách du lịch quá tải đến độ chóng mặt đè nặng lên Kyoto. Cái mong
manh, dịu dàng của Kyoto dường như muốn vỡ nứt trước sự ồ ạt của làn sóng du
khách phần lớn từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong và thậm chí
người Việt từ Mỹ.
 |
Ngôi chùa lớn nhất Nhật Bản: Todaiji
(Đông Đại Tự, Nara-Kyoto) |
 |
Kiyomizu-tera (Thanh Thuỷ Tự, Kyoto) với
cấu trúc đa tầng bằng gỗ |
Tôi trở lại ngôi trường Đại Học cũ. Những cây
tùng xanh mướt năm xưa trồng trước cổng trường bây giờ là những cây đại thụ
một vòng tay ôm không hết. Thời gian cứ hững hờ trôi theo một đường xoắn ốc
mà chu kỳ co dãn khi nhanh khi chậm nhưng lúc nào cũng muốn đi ngược lại
nhịp điệu đời người. Một niên học mới lại bắt đầu. Nhìn những khuôn mặt trẻ
trung hớn hở cười cười nói nói của những cô cậu sinh viên làm tôi cảm thấy
mình già đi xen lẫn một chút ganh tị. Những biến chuyển xã hội của vài chục
năm qua cộng với ảnh hưởng của chủ nghĩa hưởng thụ vật chất Tây Phương tưởng
chừng như chọc thủng được nền văn hóa truyền thống Nhật Bản. Lớp trẻ Nhật
Bản ngày nay có vẻ được "quốc tế hóa" hơn, thoải mái hơn, vui tươi hơn,
nhưng sự cần cù, tỉ mỉ, khiêm tốn, lễ phép, kỷ cương, tinh thần tập thể vẫn
là truyền thống được gìn giữ tuyệt đối.
Trên xe điện người ta im lặng đọc
sách báo hoặc chăm chú đọc và gởi những lời nhắn từ những chiếc điện thoại
cầm tay. Không ai nghe một tiếng chuông điện thoại di động reo ồn ào ở những
nơi công cộng kể cả những chuyến xe điện đông người.
Trở lại Nhật làm một du
khách nhưng lại nhớ đến cái tuổi học trò, lòng tôi bất giác bồi hồi. Tôi
muốn đi lại tất cả những con đường xưa chốn cũ, đến nhìn lại từng nhà ga của
một thuở xa xưa.
Xin được
làm người trên bến cũ
Đợi tàu
như thuở mới đôi mươi
(Mưa trên
Yamatesen, Nguyễn Nam Trân)
Gió đầu Xuân mơn trớn
trong cái lạnh khô và gắt rơi rớt của mùa Đông. Những cánh hoa anh đào mà
người Nhật vẫn hằng yêu mến năm nay nở trễ hơn mọi năm vì những làn gió Đông
còn lưu luyến trần gian chưa chịu từ giã ra đi. Người Nhật yêu hoa anh đào
bằng một sự nhiệt tình. Hằng năm, họ mở hội chờ đợi từng ngày từng giờ để
chuẩn bị cho ngày hoa nở như một kẻ si tình chờ ngắm người yêu...
Tôi tình cờ đọc được một bài
haiku treo trong nhà một người bạn.
Sakura saku
Haru no
komichi o
Kimi to
yuku
(Hoa anh đào khoe sắc
Trên con đường nhỏ
Của mùa Xuân
Chậm bước cùng em )
Bây giờ tất cả chỉ là ký ức. Như một giấc mộng
đẹp.

(Tạp ghi sau chuyến đi
Nhật March/April 2005)
TVT
Chú thích:
(1) Daikon ashi: chân củ cải. Daikon:
củ cải trắng, ashi: chân. Củ cải trắng Nhật dài 30 - 40 cm, hai đầu
thon nhỏ ở giữa phình ra có đường kính 10 - 15 cm. Lúc xưa phụ nữ Nhật
thường ngồi xếp theo kiểu Nhật làm cho bắp chân to ra như hình dạng củ cải
trắng.
(2) Aka: đỏ, chochin:
đèn lồng. Những quán nhậu Nhật thường treo đèn lồng đỏ để gây sự chú ý người
qua lại.
(3) Tachi: đứng, gui:
ăn, soba: mì Nhật màu xám.
Một lối ăn nhanh (fast food) lâu đời tại Nhật.
(4)
Ramen:
mì trứng màu vàng.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Trương Văn Tân
|