Tây
Hồ
Giang Nam Cổ Trấn
Hàn San Tự
Thượng Hải
Bắc Kinh
Vạn Lý Trường Thành
Ẩm thực
Văn Hoá
Từ Quảng
Châu tôi bay đến Thượng Hải và đi xe đến Hàng Châu.
Hiện nay, Thượng Hải – Hàng Châu – Tô Châu là khu
tam giác phát triển công nghệ thu hút nhiều tư bản
nước ngoài chủ yếu là Nhật, Đài Loan và Đức. Hàng
Châu là thủ phủ của tỉnh Chiết Giang. Tô Châu là một
thành phố của tỉnh Giang Tô. Những thành phố nầy
cách nhau non 200 km nhưng họ có tiếng nói địa
phương hoàn toàn khác nhau. Khu vực nầy từ xưa còn
gọi là “Giang Nam”, một vùng địa linh nhân kiệt sản
sinh nhiều bậc anh hùng hào kiệt. Thời cổ đại đây là
những vương quốc độc lập. Trước khi Tần Thủy Hoàng
thống nhất Trung Nguyên (2300 năm trước), Tô Châu
(Cô Tô) là thủ đô của nước Ngô (tỉnh Giang Tô ngày
nay) và Hàng Châu là một thành phố của nước Việt
(tỉnh Chiết Giang ngày nay). Thời Tam Quốc nơi nầy
là trung tâm quyền lực của nước Đông Ngô dưới quyền
cai trị của Tôn Quyền.
Trở lại 2500
năm trước, Ngô và Việt là hai nước không đội trời
chung. Ngô Vương Phù Sai và Việt Vương Câu Tiễn
tranh dành thiên hạ. Thừa Tướng nước Việt là Phạm
Lãi dâng người yêu của mình là Tây Thi cho Ngô Vương
thực hiện “mỹ nhân kế”. Tây Thi là một trong “Trung
Quốc tứ đại mỹ nhân” xuất thân từ một làng cách Hàng
Châu không xa. Tương truyền Tây Thi có một sắc đẹp
“Trầm ngư, lạc nhạn” (chim sa cá lặn). Từ khi được
Tây Thi, Phù Sai bỏ quên việc nước, đắm say hoan lạc
"Ngô Vương cung lý túy Tây Thi" [1]. Quân
vương dùng quốc khố nhân dân xây cho nàng một "lâu
đài tình ái" có tên là "Quán Oa Cung" trên núi Linh
Nham để ngày ngày từ trên cao nàng có thể nhìn về cố
hương Việt Quốc. Tiếc thay, một bậc anh hùng cái thế
như Phù Sai cũng phải mềm lòng trước nước mắt mỹ
nhân để cho nước Ngô cuối cùng bị diệt. Đến bây giờ
người ta vẫn chưa rõ Tây Thi là một nữ gián điệp tài
ba hay là một người tình cuồng nhiệt nhưng mối tình
tay ba đầy bi kịch tính giữa Phạm Lãi, Tây Thi và
Ngô Vương Phù Sai trở thành một thiên tình sử đẫm lệ
Trung Quốc. Về sau, thi nhân đời Đường La Ẩn có lời
biện giải cho Tây Thi:
Gia quốc
hưng vong tự hữu thời
Ngô nhân
hà khổ nộ Tây Thi
Tây Thi
nhược giải khuynh Ngô Quốc
Việt Quốc
vong lai hựu thị thùy?
Tạm dịch:
Quốc gia
hưng vong cũng có lúc
Người nước
Ngô làm gì phải giận Tây Thi
Nếu như Tây
Thi làm mất nước Ngô
Thì ai là
người làm mất nước Việt đây?
Người Trung
Quốc có một câu nói “Trên là Thiên Đường, dưới là Tô
Hàng” để diễn tả nét đẹp thiên nhiên, khí hậu ôn hòa
và nhất là mỹ nữ của vùng Giang Nam (Tô Hàng). Trên
mặt kinh tế, từ xưa vùng Giang Nam đã được công nhận
là vùng quan trọng trong việc sản xuất lụa tơ tầm và
trà. Từ 1500 năm trước, lụa Hàng Châu được di chuyển
theo con đường Lụa (the Silk Road) để xuất cảng đến
tận Âu Châu. Con kênh Kinh Hàng dài 1800 km nối liền
Bắc Kinh và Hàng Châu được đào vào đời nhà Tùy (1400
năm trước) cho việc thông thương Nam Bắc. Sau nầy
vua Càn Long nhà Thanh dùng con kênh nầy đến vùng
Giang Nam 6 lần để ngao du thiên hạ và đi tìm mỹ nữ!
Tây Hồ
Hàng Châu có
sông Tiền Đường, nơi mà nàng Kiều của Nguyễn Du đã
gieo mình tự tử. Tây Hồ là điểm du lịch chính ở Hàng
Châu còn có tên là Tiền Đường Hồ. Tôi nhập bọn với
một đoàn du khách Hong Kong và Hàn Quốc đi dạo vòng
quanh một phần hồ trên một chiếc tàu. Ngày xưa có lẽ
Tây Hồ đẹp hơn bây giờ, vì một phần bờ hồ là thành
phố Hàng Châu với những nhà cao tầng hiện đại nhô
lên một cách rất "vô duyên". May thay, 2/3 phần còn
lại của Tây Hồ vẫn còn liễu rũ, vẫn còn hoa sen, vẫn
còn những tầng tháp cổ tọa lạc trên đồi núi xa xa.
Dưới ánh nắng chiều hoàng hôn hay những đêm trăng
rằm, khung cảnh thơ mộng của Tây Hồ in đậm trên nền
trời là một mảnh thiên đường hạ thế, là một nguồn
thi hứng bất tận của tao nhân mặc khách bao ngàn năm
qua. Phong cách kiến trúc Trung Quốc đậm đà khái
niệm “sơn thủy” mà Tây Hồ thể hiện được sự hài hòa
giữa thiên nhiên và những công trình mỹ thuật của
con người.
Tây Hồ là
một bài thơ, một bức tranh thủy mặc và cũng là một
nơi có nhiều tình sử lãng mạn. Cô hướng dẫn viên tên
Jin chỉ cho tôi ngọn tháp Lôi Phong bên bờ hồ kể cho
tôi nghe chuyện tình “Liêu Trai” của con rắn trắng
Bạch Xà và một chàng thư sinh. Chuyện kể rằng có một
thư sinh họ Hứa cứu sống hai con rắn, một con màu
trắng, Bạch Xà, và một con màu xanh, Thanh Xà. Để
trả ơn, Bạch Xà biến thành một tiểu thư nhan sắc
tuyệt trần kết nghĩa vợ chồng với chàng Hứa, nuôi
nấng chàng ăn học, Thanh Xà biến thành tỳ nữ hầu hạ.
Hai người ăn ở hạnh phúc hòa thuận. Một hôm, Hứa thư
sinh tình cờ gặp một sư ông. Sư ông bảo chàng nguyên
khí bất thường vì có yêu khí hiện ra. Sư ông mang
chàng Hứa về chuà chữa trị. Bạch Xà đi tìm chồng,
nước dâng theo làm lụt cả một vùng. Về sau, sư ông
lập mưu bắt sống Bạch Xà chôn sống dưới tháp Lôi
Phong. Tôi nghe câu chuyện mà phì cười và bảo cô Jin
“Sư ông ở không đi phá hoại hạnh phúc gia đình
thiên hạ. Còn tôi như chàng Hứa thì tôi sẽ ở với
người vợ đẹp suốt đời dù tôi có chết vì nàng là hồ
ly tinh hay rắn độc đi nữa!”. Có lẽ chưa bao giờ
nghe ai bình phẩm như vậy, cô Jin thích chí cười
vang bảo “Ông thật chung tình!!”. Cô ta lại
kể chuyện Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài. Tôi hỏi
“Tại sao Hàng Châu lại lắm chuyện tình mà chỉ toàn
là chuyện không có happy ending?”.
Cô Jin cười cười bảo “Trừ chiến tranh Ngô Việt
giữa Phù Sai và Câu Tiễn 2500 năm trước, vùng Hàng
Châu tương đối hoà bình từ xưa đến giờ. Vì vậy,
người dân Hàng Châu rất phong lưu và lãng mạn”.
Tôi chuyển đề tài "Người ta bảo phụ nữ Hàng Châu
rất đẹp mà hôm qua đến giờ tôi chưa thấy người đẹp
nào cả”. Cô Jin nhanh miệng “Vậy thì không
phải ông đang nói chuyện với một người đẹp sao?”.
Tôi bị hớ “Nói ra bây giờ thì sớm quá. Tôi chỉ
muốn khen cô đẹp trước khi từ giã cô thôi…”.
Cô Jin lại chỉ hai con đê gọi
là Bạch Đề (đê ông Bạch) và Tô Đề (đê ông Tô). Bạch
là Bạch Cư Dị và Tô là Tô Đông Pha. Bạch Cư Dị là
một nhà thơ lớn đỗ tiến sĩ đời Đường (1300 năm
trước). Khi Bạch Cư Dị được bổ làm Thứ Sử Hàng Châu,
ông tiến hành đấp đê xung quanh Tây Hồ để hồ có thể
chứa nước nhiều hơn, khi gặp hạn có thể dùng nước
Tây Hồ để cứu hạn. Ông cảm thông và quan tâm đên nỗi
khổ của dân. Khi ông rời chức vụ ra đi, người dân
Hàng Châu thương nhớ ông vô cùng. Ông viết một bài
thơ để lại trong đó có hai câu:
Thuế
trọng đa bần hộ, nông cơ túc hạnh điền
Duy lưu
nhất hồ thủy, dữ nhĩ cứu hung niên
Tạm dịch:
Thuế nặng
nên còn nhiều nhà nghèo khó, nông dân còn đói vì
ruộng bị khô.
Tôi để lại
hồ nước đầy, dùng nó cứu nguy những năm đói kém.
Ba trăm năm
sau cũng như Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha là một tiến sĩ
vào đời nhà Tống dược bổ làm Thứ Sử Hàng Châu một
thời gian. Tô Đông Pha là một người phong lưu, lãng
mạn và tài hoa rất mực. Ông vừa là một nhà thơ lỗi
lạc vừa là một họa sĩ của trường phái mới đương thời
[2]. Trong thời gian ở đây ông tiếp tục công trình
của Bạch Cư Dị làm đẹp Tây Hồ bằng cách vét bùn
trong hồ vừa làm đê vừa làm sâu hồ tăng thể tích
chứa nước. Con đê “Tô Đề” băng ngang Tây Hồ dài gần
3 km có những tiểu kiều (cầu nhỏ) cong cong với chân
cầu bán nguyệt. Một nhà thơ vừa là một kỹ sư xây
dựng hẵn phải là một kết hợp thú vị. Bạch Đề và Tô
Đề chia Tây Hồ thành ba phần: hồ trong, hồ ngoài và
hồ sau. Tôi đi trên Tô Đề bước qua những tiểu kiều
nhìn xuống dòng nước nhớ câu “Tiểu Kiều Lưu Thủy”.
Tôi nhớ lại những thiên tình sử cô Jin vưà kể mường
tượng nàng kiều nữ Hàng Châu lượt là xiêm y “Nhân
diện đào hoa tương ánh hồng” [3] phải lòng một
chàng thư sinh gặp trên những chiếc tiểu kiều. Hai
người trao duyên gởi phận, rồi lại ngậm ngùi chia
tay cũng trên những chiếc tiểu kiều…
Tôi đi chậm
lại để nhìn rõ kiến trúc con đê, tôi lại nghĩ đến
mặt tích cực của Nho Giáo đã tạo ra những người có
tầm vóc như Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha tận tụy hết lòng
cho dân. Những lời thơ đầy hào khí nhà Nho của Uy
Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ thoang thoảng bên
tai
Kinh luân
khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi gian giai phận sự
Nam nhi đáo thử thị hào hùng
(Kẻ sĩ)
Tạm dịch
Cách trị
nước đã có trong tim
Binh giáp
dẹp giặc đã có trong lòng
Trong trời
đất tất cả đều là phận sự
Làm trai như
thế mới tài giỏi

Tô Đề
trên Tây Hồ
Giang Nam Cổ Trấn
Tôi từ giã
cô Jin để đến thị trấn Zhouzhuang (Chu Trang) trên
đường đến Tô Châu. Chu Trang là một trong những thị
trấn nhỏ trên sông nước Giang Nam (Giang Nam Cổ
Trấn). Theo anh Shao người hướng dẫn mới của tôi thì
đây là một khu vực mà phương tiện giao thông chính
là đường thủy. Vì vậy, trong những đợt cải cách hiện
đại hoá vùng nầy bị bỏ quên, cách kiến trúc nhà cưả
vẫn còn nguyên thể của 1000 năm trước. Người ta còn
gọi những thị trấn nầy là "Venice of the Orient". Do
phương tiện đi lại chính là những con rạch nhỏ, nhà
nào cũng có một bến nước và một con đường nhỏ cho bộ
hành trước nhà. Hai bên bờ con rạch được nối bằng
những chiếc cầu đá với chân cầu bán nguyệt có từ
hàng ngàn năm. Anh Shao hướng dẫn tôi đến hai căn
nhà có liên hệ thân thuộc đến đại thần trong triều
đình nhà Minh, làm tôi nhớ lại những căn nhà cổ của
thương nhân người Hoa tại Hội An, nhưng những căn
nhà ở đây hoành tráng và uy nghi hơn.
Vùng nầy có thể mãi mãi đi vào
quên lãng hoặc có nguy cơ bị hiện đại hóa với những
toà nhà bê tông cốt sắt nếu không có bức tranh của
nhà danh họa Chen Yifei (Trần Dật Phi). Ông Chen từ
Mỹ trở về quê cũ Chu Trang tìm được cảm hứng trong
vẻ đẹp ngàn năm của quê hương vẽ ra một loạt tranh
"Hồi ức của cố hương" trong đó có bức họa "Song
kiều" (Cầu đôi). Bức họa nầy lọt vào mắt xanh ông
chủ tập đoàn dầu hỏa Occidental (Mỹ), Armand Hammer.
Năm 1985, Hammer tặng Đặng Tiểu Bình bức tranh. Sự
trân trọng của người nước ngoài đối với vùng sông
nước hẻo lánh nầy khiến ông Đặng phải nhìn lại chính
sách du lịch ở các vùng sâu vùng xa. Sau đó không
lâu, Chu Trang và các vùng lân cận được nâng cấp
thành di sản quốc gia mở cửa cho du lịch. Một đêm
sáng ngày, những nông dân nghèo khổ bỗng nhiên có
một nguồn thu nhập phong phú như kéo xe lôi, chèo
thuyền, bán đồ lưu niệm cho du khách.

Song kiều: Cầu đôi bằng đá
(Zhouzhuang)

"Hồi ức của
cố hương": Tranh Chen Yifei (Nguồn:
www.monadock.net)
Hàn San Tự
Tôi đến Tô
Châu thăm Hổ Khưu và Hàn San Tự. Tô Châu (Cô Tô) là
thủ đô và trung tâm văn hoá của nước Ngô ngày xưa
Hổ Khưu (Gò Cọp) là nơi chôn cất của Ngô Vương Hạp
Lư cha của Phù Sai (2500 năm trước). Vì mộ phần của
Hạp Lư được giữ bí mật nên cách đây hơn 1000 năm
người ta vô tình xây cái tháp cao 50 m trên gò. Cái
tháp nghiêng từ khi hoàn thành gây bởi khoãng trống
của mộ phần Hạp Lư bên dưới. Người ta gọi đây là
"Chinese Pisa Leaning Tower".
So với Nam
Hoa Thiền Tự ở Thiều Quan (Quảng Đông) và Linh Ẩn Tự
ở Hàng Châu, Hàn San Tự nhỏ hơn nhưng cũng có một
lich sử 1500 năm với gác chuông nổi tiếng từ ngàn
xưa. Nhưng Hàn San Tự được nhiều người biết đến qua
bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” (Đêm đậu thuyền ở
bến Phong Kiều) của Trương Kế
Nguyệt lạc ô đề sương mãn
thiên
Giang
phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô
thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo
khách thuyền
Tạm dịch:
Trăng tàn,
quạ kêu, sương đầy trời
Nhìn những
cây phong bên bờ sông, ánh đèn trong thuyền chài mà
trong lòng buồn bã không ngủ được
Chuà Hàn Sơn
ở ngoại thành Cô Tô
Tiếng chuông
chuà nửa đêm vẳng đến con thuyền chở khách
Trăng tà
tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài cây
bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai
đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe
tiếng chuông chùa Hàn San.
(Tản Đà (?)
dịch)
Chàng thư
sinh Trương Kế lều chõng đi thi nhưng không được
bảng vàng tiến sĩ đề tên, từ thủ đô Trường An buồn
bã trở về quê cũ. Đến Cô Tô thì cửa thành đã đóng,
chàng Trương đành qua đêm trên một chiếc thuyền
chài. Ánh trăng, tiếng quạ, màn sương, cây phong,
ánh đèn chỉ làm tăng thêm nỗi buồn "thi không ăn ớt
thế mà cay"! Chỉ có tiếng chuông chuà mới làm chàng
vơi đi nỗi buồn để thốt ra những dòng thơ bất hủ.
Bây giờ tiếng chuông chuà nửa đêm không còn. Con
sông trước chuà trở thành con kênh nhỏ và hàng cây
phong cũng biết mất với thời gian. Bài thơ được viết
lại bởi nhiều nhà thư pháp lừng danh và trưng bày
xung quanh chùa. Bài thơ cũng được một vị vua nhà
Thanh ngự đề, nhưng không may bị Hồng Vệ Binh đập
nát trong thời kỳ "Cách Mạng Văn Hoá".
Tôi đọc bài
thơ theo âm Hán Việt làm anh Shao hoang mang "Âm
Việt Nam sao mà giống tiếng Quảng Đông thế!".
Tôi chợt nhớ đến âm Quảng Đông "Duỵt loọc, ú thề,
xướng màn thín….." của một lữ khách Trung Quốc
nhớ cố hương đọc trong một đêm khuya đã làm cho
người mẹ tương lai của Hồ Dzếnh phải cười như chuột
rúc trong đêm [4]….
Thượng Hải
Khi Hàng
Châu và Tô Châu đã là một thành phố ''ngựa xe như
nước áo quần như nêm", thì Thượng Hải chỉ là một
làng đánh cá. Thượng Hải thành lập gần 700 năm nay
nhưng bây giờ là một siêu đô thị lớn nhất Trung Quốc
và là một trung tâm thương mãi và văn hoá với dân số
17 triệu người (gần bằng dân số toàn nước Úc). Từ Tô
Châu đến Thượng Hải tôi đi ngang một khu công nghiệp
đồ sộ Kunsan phần lớn do tiền đầu tư từ các tư bản
Đài Loan lập nên.
Ở đầu thế kỷ
20, Thượng Hải là tô giới Anh nổi tiếng là nơi trụy
lạc, buôn hương bán phấn, bài bạc ma túy nổi tiếng
Viễn Đông. Đây cũng là nơi người Anh đã từng treo
bảng "Cấm chó và người Trung Quốc" trước cổng ra vào
của một công viên. Ở thập niên 60, Thượng Hải lại
trở thành trung tâm của "bọn bốn người" phát động
cuộc "Cách Mạng Văn Hóa" cực đoan làm chết hằng
triệu người và tàn phá không ít những di sản lịch sử
của nhân loại. So với các thành phố cổ ở Trung Quốc,
Thượng Hải chỉ là một thành phố "trẻ" ít có những di
tích lịch sử. Thêm vào đó, theo chiều hướng "hiện
đại hóa" những kiến trúc xưa bị đập phá vô nguyên
tắc để thay vào những tòa nhà hiện đại mọc lên như
nấm trong đám rừng "bê tông". Chỉ trong vòng 10 năm
Thượng Hải chuyển mình từ một thành phố xe đạp thành
một thành phố xe hơi. Xe Volkswagen (= People's car)
sản xuất tại Thượng Hải với giá thành rất thấp và
được đổi thành cái tên Trung Quốc "Đại Chúng" chiếm
25 % số lượng sản xuất xe toàn quốc và đang tiếp tục
gia tăng. Những đường cao tốc mới xây trong vòng 10
năm nay tỏa ra như mạng nhện nối liền Nam Bắc. Những
anh tài xế Trung Quốc phần lớn thuộc hạng "kamikaze"
chạy "bạt mạng" trên xa lộ chèn nhau từng tấc đường
không thua gì tài xế Việt Nam trên Quốc Lộ số 1….
Buổi sáng
đầu tiên tại Thượng Hải tôi cùng một người bạn tản
bộ trên Bến Thượng Hải (The Bund) dọc theo bờ sông
Hoàng Phố. Bên nầy bờ sông là những tòa nhà lịch sử
với số tuổi hơn 150 năm biểu tượng của Thượng Hải
cũ. Bên kia bờ sông là Phố Đông (Pudong) với những
tòa nhà chọc trời cao nhất nhì thế giới biểu tượng
của Thượng Hải mới. Chúng tôi đi đến Phố Cổ nơi
người ta bày bán những đồ giả cổ trong những tòa nhà
xưa được Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố trùng tu và xây
dựng thêm để thu hút du khách. Tôi đến Thượng Hải
nhằm vào Tiết Nguyên Tiêu (rằm tháng Giêng) nên cả
khu phố tràn ngập hằng trăm hằng ngàn chiếc lồng đèn
đỏ treo cao cao …..
Viện Bảo
Tàng Thượng Hải là nơi người ta có thể nhìn được
lịch sử 5000 năm văn minh Trung Quốc qua những sưu
tập lớn nhất thế giới về nghệ thuật và mỹ thuật cổ
đại. Viện Bảo Tàng được thành lập năm 1952 và được
xây lại cách đây 5 năm với 2 tầng ngầm và 5 tầng lầu
với một diện tích 38 000 m2. Ở đây, người
ta trưng bày hơn 120 000 hiện vật bằng đồng, sắt,
vàng, gốm sứ, ngọc, hổ phách, tranh thủy mặc, thư
pháp, tiền tệ. Có nhiều hiện vật từ thời nhà Hạ là
vương triều đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc (4000
năm trước). Tôi nhìn thấy bảo kiếm của Việt Vương
Câu Tiễn và của Ngô Vương Phù Sai (2500 năm trước),
cũng như cái vại bằng đồng bốn chân được chế tạo một
cách tỉ mỉ cao gần 1 m với thành vại dầy 10 cm có
thể chứa gần 100 lít rượu để Ngô Vương khao ba quân
tướng sĩ.
Bắc Kinh
Sau Hàng
Châu, Tô Châu và Thương Hải, tôi đến Bắc Kinh vào
cuối muà Đông. Những cơn gió lạnh buốt thổi từ sa
mạc Gô Bi làm cho cái lạnh –5 ºC rất khô nhưng dễ
chịu. Với dân số 15 triệu người, Bắc Kinh là thành
phố lớn thứ hai sau Thượng Hải. Sau 20 năm theo
chính sách "mở cửa", xe đạp bây giờ phải nhường bước
cho xe hơi. Tuy nhiên, trên những con đường chính
tại Bắc Kinh 1/2 hoặc 1/3 mặt đường được dành độc
quyền cho người đi xe đạp. Cũng như Quảng Châu và
Thượng Hải, phương tiện giao thông công cộng chính
là xe bus và xe điện ngầm. Bắc Kinh có hơn 900 tuyến
đường xe bus chạy ngang dọc thành phố. Đại lộ Trường
An là một con đường chính đi qua Quảng Trường Thiên
An Môn, trung tâm shopping và ẩm thực Wangfuching
(Vương Phủ Tỉnh). Dọc theo con đường nầy là những
tòa nhà hành chánh của chính phủ, trung tâm thương
mãi và những khách sạn cao tầng năm sao. Quảng
Trường Thiên An Môn là trung tâm của Bắc Kinh nơi du
khách dập dìu qua lại ngày đêm. Trước Quảng Trường,
năm ba con diều giấy nhiều màu sắc bay thong dong
trên bầu trời mùa đông Bắc Kinh làm tôi nhớ lại
truyện "Con Diều Giấy" của nhà văn Lỗ Tấn.
Nền trời trong xanh như mùa thu Tokyo nhưng không
buồn bã như ông đã từng diễn tả vì đường phố Bắc
Kinh ngày nay lúc nào cũng sinh động.
Tôi dùng xe
bus và xe điện ngầm như người dân Bắc Kinh để đến
những điểm du lịch như Quảng Trường Thiên An Môn, Cố
Cung (Tử Cấm Thành), Thiên Đàn (Temple of Heaven),
Di Hòa Viên v.v… Thiên An Môn là cửa chính của Cố
Cung nơi xuất phát đi tham quan các cung điện của
vua chúa triều đình nhà Minh và nhà Thanh. Đây là
những kiến trúc vĩ đại đối xứng xây dựng rất tốn kém
với vô số chạm khắc trên gỗ trên đá cực kỳ tinh vi.
Những mái ngói ở đây có màu vàng đồng nhất là màu
biểu tượng của nhà vua. Cái hoành tráng và uy nghi
của Cố Cung đã được ống kính của đạo diễn Bernado
Bertolucci làm sống lại trong bộ phim nổi tiếng
"The Last Emperor".
Với giá "bao
cấp" 15 cents US, dân chúng có thể đi lại trên tuyến
đường xe bus dài 10 – 15 km. Quãng đường từ trung
tâm thành phố Bắc Kinh đến Di Hoà Viên là 25 km chỉ
tốn 50 cents. Di Hoà Viên và Viên Minh Viên là hai
Ngự Viên dành cho vua được thành lập dưới đời Càn
Long nhà Thanh (thế kỷ 18). Năm 1860, Liên Quân Anh
Pháp tấn công Bắc Kinh tàn phá hai Ngự Viên nầy,
những toà nhà bị đốt cháy đến hai tháng trời mới
hoàn toàn bị thiêu hủy. Về sau, Từ Hi Thái Hậu lợi
dụng công qủi Hải Quân nhà Thanh xây lại Di Hòa Viên
để bà ta có nơi nghỉ mát mùa hè. Viên Minh Viên vẫn
còn hoang phế cho đến ngày hôm nay.

Di Hoà Viên
Vạn Lý Trường Thành
Những trận
tấn công của những bộ lạc du mục phương Bắc là nỗi
kinh hoàng của Hán tộc qua mấy ngàn năm lịch sử. Vì
vậy, sau khi thống nhất Trung Nguyên Tần Thủy Hoàng
huy động nhân dân làm sai dịch xây Trường Thành để
ngăn chận những cuộc xâm lược của người Mông Cổ và
người Kim (Mãn Châu). Xương máu đã đổ rất nhiều vào
công trình to tát nầy. Vạn Lý Trường Thành có chiều
dài là 6300 km. Sau nhà Tần, Trường Thành được tiếp
tục gia cố trong khoảng thời gian 1500 năm kể từ đời
Hán đến đời Minh. Khi người Mãn Châu xâm chiếm Trung
Nguyên diệt nhà Minh thành lập nhà Thanh, Trường
Thành mất ý nghĩa và trở nên hoang phế. Ở đầu thập
niên 80 của thế kỷ trước, Trường Thành được gia cố
trở lại để đón những đoàn quân du khách đến "xâm
lăng"..
Mao Trạch
Đông có viết "Bất đáo Trường Thành, phi hảo hán"
[5]. Đến Bắc Kinh mà không viếng Vạn Lý Trường Thành
thì quả là một điều thiếu sót. Gần Bắc Kinh dọc theo
Trường Thành có nhiều cửa ải mà bây giờ là những điạ
điểm du lịch. Cửa Badaling (Bát Đạt Lĩnh) cách Bắc
Kinh 100 km là điểm gần nhất được "cận đại và thương
mãi hoá" có cả dây cable lên xuống. Tuy nhiên cũng
còn nhiều chỗ còn hoang sơ như Gubeikou (Cổ Bắc
Khẩu) cách Bắc Kinh 200 km đường xe lửa. Tôi đến cửa
ải Juyongguan (Cư Dung Quan). Cư Dung Quan là tên
gọi từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, là một cửa ải yết
hầu của Bắc Kinh. Những ngọn núi ở đây rất hùng vĩ
và Trường Thành được xây dọc theo triền núi như con
rắn khổng lồ lúc ẩn lúc hiện. Muốn đi lên đến đỉnh
cũng phải bước hơn một ngàn bậc đá theo vách núi gần
như thẳng đứng. Gió cuối đông thổi rất lạnh, nhưng
trong người vẫn toát mồ hôi! Từ trên cao nhìn Trường
Thành mới thấy đây là kỳ quan thế giới, người ta
không khỏi thán phục trước một kiến trúc quân sự vô
tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Người ta
cũng không khỏi ngậm ngùi khi biết hàng trăm vạn
sinh linh đã bỏ mình dưới chân Trường Thành và những
cuộc ác chiến máu chảy thành sông cũng đã xảy ra ở
chốn nầy.
Ẩm thực
Văn hóa ẩm
thực Trung Quốc thật là phong phú vì người Trung
Quốc có chủ trương "thực vi tiên" (ăn là trước
nhất). Những hiện vật cổ đại dược khai quật phần lớn
là những công cụ nấu ăn hoặc vại chứa rượu. Điều nầy
cho biết sự cầu kỳ trong việc ăn uống của người
Trung Quốc từ xưa. Tôi theo phương thức "Tây ba lô"
đi vào những ngõ ngách để tìm chỗ ăn uống vừa rẻ,
vừa ngon, vừa nhiều! Ở những quán ăn bình dân, một
buổi ăn no bụng chỉ tốn trên dưới $1 USD. Những Food
Court "sang trọng" hơn như ở trung tâm Wangfuching
(Bắc Kinh), người ta bán thức ăn khắp mọi miền Trung
Quốc (cháo thịt Quảng Châu, mì cay Tứ Xuyên, giò hầm
Giang Nam, thịt dê Mông Cổ….) , sushi Nhật Bản,
bibimbab kimchi Hàn Quốc với một giá bình dân. Món
đặc sản Bắc Kinh là "vịt nướng Bắc Kinh" với một vài
chai bia Tsingtao cũng không quá $10 cho một người.
Thịt cầy
cũng là món không thể thiếu trong thực đơn Trung
Quốc. Trong tiệm vịt nướng, cô phục vụ mời tôi ăn
món "Thần Tiên Cẩu Nhục Lẩu". Cái tên gì đâu chỉ
nghe thoáng qua cũng đủ giật mình. Tôi tò mò hỏi
"Thịt chó thật à?", "Thật mà!" cô ta vừa
trả lời vừa chỉ hai người khách đang nhai ngồm ngoàm
bên cái lẩu cầy thật to. Tôi không thuộc trường phái
"mộc tồn" nên thoạt nhìn đã hơi "ớn lạnh", lại nói
đuà "Thảo nào tôi không thấy con chó nào chạy
lanh quanh trên đường phố Bắc Kinh", cô ta thật
thà trả lời "Không, không! Chó chúng tôi nuôi
không phải chó chạy ngoài đường…". Tôi cười cười
lịch sự bảo "Hôm nay tôi ăn vịt, hôm khác tôi đến
ăn cầy, được không?"….
Có lẽ thức
ăn Quảng Châu gần gũi với khẩu vị người Việt Nam
hơn. Tôi không quên được bát phở thịt bò vò viên
thơm phức ăn với nước mắm và tương ớt trong một tiệm
phở mì bên cạnh Công Viên Hoàng Hoa Cương (Quảng
Châu). Ở Bắc Kinh, thức ăn dường như đã pha trộn với
thức ăn Mông Cổ và Mãn Châu. Trong một tiệm ăn tại
Wangfuching, những office ladies xinh xắn ăn sáng
với một khúc "dầu chá quẩy" dài gần 50 cm chấm vào
một tô sữa đậu nành vừa ăn vừa uống xì xụp một cách
ngon lành. Phải nói là người Trung Quốc thích ăn
vặt. Ở Quảng Châu cũng như ở Thượng Hải hay Bắc Kinh
những hàng thịt nướng tấp nập khách ăn đêm. Tôi thấy
có cả bọ cạp dài hơn 5 cm nướng với xì dầu (soy
sauce grilled scorpion)!!!
Văn Hoá
Về món ăn
tinh thần, trên đại lộ Trường An (Bắc Kinh) tôi tìm
thấy 2 "department stores" 6 tầng bán sách đủ loại
tấp nập người mua. Người Trung Quốc thích mua sách
và đọc sách không kém người Nhật. Khi đến Hàng Châu
tôi đã vào một nhà sách lớn tương đương với nhà sách
Kinokuniya ở Shinjuku (Tokyo), nhưng khi bước vào
"department store" sách nầy, tôi choáng ngợp với
lượng sách bán ở đây. Sách được trưng bày nhiều nhất
là sách quản lý kinh tế, phương pháp lãnh đạo,
nguyên tắc làm giàu, kế toán. Best seller là những
quyển nói về nhà tỷ phú Li Kashing (Lý Gia Thành)
của Hong Kong. Sách về Mác - LêNin, tư tưởng Mao
Trạch Đông được "tân trang" với bìa sách cứng trang
trọng. Một loạt sách hoài niệm Mao Trạch Đông được
xuất bản để kỷ niệm ngày sinh thứ 110 của ông. Những
bộ sách cổ "Tứ Thư Ngũ Kinh", sách về tôn giáo,
những bộ "Đường Thi" "Tống Từ" dày ngót một ngàn
trang với những chú thích cho độc giả hiện đại cũng
hấp dẫn nhiều khách hàng trẻ tuổi. Nhà sách có những
tầng riêng cho khoa học kỹ thuật, công nghệ thông
tin, ngôn ngữ học.
Đài Truyền
Hình Trung Ương Trung Quốc (CCTV) có nhiều kênh phụ
trách những tiết mục khác nhau về kinh tế, xã hội,
quốc phòng, lịch sử, khoa học, nhạc kịch cho mọi lứa
tuổi và sở thích. Tin tức và bình luận kinh tế được
đặc biệt chú trọng trong phần thông tin mỗi ngày.
Ngoài ra, trong chương trình thi văn có những buổi
bình luận và tranh luận về những bài cổ thi hoặc
giải thích ý nghiã của những chữ Hán cổ với những
tương quan lịch sử và điạ lý. CCTV còn có một kênh
nói tiếng Anh với những phát ngôn viên có lẽ là
người Mỹ gốc Hoa. Ngoài những tin tức cập nhật, có
chương trình phát hình giới thiệu văn hóa, xã hội
Trung Quốc và chương trình dạy tiếng Hán cơ bản cho
người nước ngoài. Tôi đặc biệt chú ý đến chương
trình hằng đêm dành cho quốc phòng vì nhiều lý do.
Một trong những lý do chính là người điều khiển
chương trình là một nữ quân nhân với quân hàm Trung
Úy Không Quân ăn nói có duyên, rất trẻ và rất bắt
mắt…..
Tôi có cảm giác như càng đi về
phía Bắc các cô gái Trung Quốc càng cao và càng đẹp
ra. Quần áo thời thượng đúng "mốt", yểu điệu bước
đi, tóc dài lả lướt, "Vân tưởng y thường, hoa
tưởng dung" [6], chẳng hỗ thẹn là con cháu Tây
Thi Bao Tự lừng lẫy một thời…. Wangfuching là nơi
hẹn hò cũng là nơi khoe sắc áo. Chiều xuống có những
cặp trai gái đứng hôn nhau ở một góc phố, hôm nầy đi
ngang thấy một anh Tây với một cô Tàu, hôm kia một
anh Tàu với một cô Tàu. Tây thì thoải mái, Tàu hơi
ngượng nghịu. Một đêm tôi lững thững nơi nầy, một cô
gái trẻ đẹp nhưng có vẻ già dặn chạy lại hỏi tôi
bằng tiếng Phổ Thông là có muốn đi hát karaoke, vừa
rẻ lại vừa nhiều cô đẹp. Tôi giả đò không hiểu, trả
lời tiếng Anh. Tưởng đâu thoát nạn, không dè cô
ta nói một tràng tiếng Anh lặp lại lời rủ rê. Tôi từ
chối không dám phiêu lưu.
"Chủ nghĩa
thực dụng" của người Trung Quốc phản ảnh qua những
công trình xây dựng và thẩm mỹ quan. Nếu cần, họ rất
cầu kỳ. Nếu không cần, họ không màng đến chi tiết.
Họ có thể đi từ một cực đoan nầy đến một cực đoan
khác một cách rất thoải mái. Khu Wangfuching như
Ginza của Tokyo là "thiên đàng của người đi bộ", ở
đây thay vì trồng hoa người ta mang những chùm hoa
plastic xanh xanh đỏ đỏ trang hoàng dọc hai bên phố
cho… đẹp mắt.
Nam
Kinh Lộ là một khu phố sầm uất của Thượng Hải. Hai
bên đường là những căn phố lầu hai tầng, phiá dưới
là nơi buôn bán sang trọng, phiá trên là nhà ở mà
cũng là nơi để những cây sào phơi quần áo kể cả nội
y phụ nữ chỉa thẳng ra ngoài! Tôi không thể dung hoà
được những vẻ đẹp của những kiến trúc cổ xưa với
những cái "thực dụng" hiện tại, cũng như cái cung
cách "phong lưu tài tử" qua những bài Đường Thi và
cái thói "khạc nhổ" ngàn năm vẫn tồn tại trên đường
phố.
Trăm thấy không bằng một
sờ…
Hai mươi năm
sau khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố chính sách "mở cửa"
thực thi "xã hội chủ nghĩa với đặc tính Trung Quốc"
(= chủ nghĩa kinh tế thị trường tư bản) theo chủ
trương "mèo trắng mèo đen" của ông [7], Trung Quốc
đã có những thành tựu đáng kể về mặt kinh tế và phát
triển xã hội. Việc biến làng đánh cá Thẩm Xuyến gần
Hong Kong thành một đô thị kinh tế có tầm cỡ trong
vòng 20 năm thì phải công nhận là một kỳ tích có một
không hai. Họ đã học hỏi nhanh chóng phương pháp
phát triển kinh tế, tài chánh của tư bản Âu Tây. Xem
CCTV, tôi cảm nhận họ cũng học được cách tuyên
truyền rất tinh vi kiểu Mỹ. Lối tuyên truyền thô
thiển của thời kỳ "Cách Mạng Văn Hoá" với lối nói
con vẹt sáo rỗng không còn chỗ đứng trong xã hội
Trung Quốc ngày hôm nay. Những biểu ngữ tôn vinh
Đảng Cộng Sản không còn thấy trên đường phố, thay
vào đó là những khẩu hiệu khuyến khích người dân cố
gắng nói tiếng Phổ Thông (Mandarin) để thống nhất
tiếng nói và yêu cầu tập thói quen văn minh làm sạch
đường phố tránh khạc nhổ nơi công cộng..
Mặt khác,
người Trung Quốc có một thái độ rất thực tiễn trong
việc rút tỉa kinh nghiệm của 5000 năm văn hiến. Họ
không nằm trên bề dày lịch sử tự hào suông để thoả
mãn lòng tự ái dân tộc hẹp hòi mà họ phân tích những
câu chuyện lịch sử vài ngàn năm trước để vận dụng
sáng tạo vào những họat động chính trị hành chánh
cho việc trị quốc và bang giao quốc tế ở thế kỷ 21.
Chủ nghiã "anh hùng dân tộc" cũng không được đề cập
trên sách báo. Về mặt chính trị nó đi ngược lại chủ
trương đoàn kết 56 dân tộc trong cộng đồng Trung
Quốc, phản ảnh một thực tế Trung Quốc là một đất
nước đa dân tộc đa văn hoá và đa ngôn ngữ. Ngày nay,
triều đình nhà Nguyên (Mông Cổ) và nhà Thanh (Mãn
Châu) không còn xem là triều đình ngoại tộc. Hốt Tất
Liệt, Khang Hy, Càn Long được đặt ngang hàng như
những vị vua Hán tộc khác. Thậm chí, Thành Cát Tư
Hãn cũng được xem là một anh hùng có một chỗ đứng
quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.
Có lẽ Trung
Quốc là một nước duy nhất trên quả điạ cầu nầy có
thể đồng hoá được kẻ xâm lược bằng nền văn minh lâu
dài của mình. Trung Quốc đã đi qua những bước thăng
trầm lịch sử từ thời kỳ vàng son "Thạnh Thế Đại
Đường" đến thời kỳ đen tối "bán thuộc điạ" bị liệt
cường Âu Tây và Nhật Bản xâu xé vào những ngày cuối
cùng của triều đại nhà Thanh. Từ kinh nghiệm lịch
sử, Trung Quốc sẽ không dừng lại ở vị trí hiện tại
là một nơi sản xuất những đồ rẻ tiền bán cho thế
giới mà họ chỉ dùng cơ sở nầy quyết tâm trở thành
một cường quốc về khoa học kỹ thuật và không gian.
Điều nầy thể hiện rõ qua câu nói của một chuyên gia
ngoại giao Trung Quốc trong một buổi mạn đàm trên
đài truyền hình Bắc Kinh; ông ta bảo "cuộc cải
cách hiện tại là một cơ may duy nhất nước ta có kể
từ cuộc "Chiến
Tranh Nha Phiến" (1840)".
Đọc lịch sử
Trung Quốc và tham quan thực địa là một dịp để "ôn
cố tri tân" và để "biết người biết ta". Không phải
ngẫu nhiên, học giả Nguyễn Hiến Lê đã dành phần lớn
cuộc đời của mình trong việc dịch thuật những kinh
điển Trung Quốc. Trong chuyến du hành hai tuần nầy
tôi học hỏi được nhiều điều, gọt bớt được nhiều
thiên kiến. Người ta bảo "Trăm nghe không bằng
một thấy", tôi đi thêm một bước nữa là "Trăm
thấy không bằng một sờ"!
March 2004
(viết lại February 2007)
Chú Thích
1.
"Ngô Vương trong cung mê mệt với Tây Thi" trong bài
"Ô Thê Khúc" của Lý Bạch
2. Xem
"Tô Đông Pha", Nguyễn Hiến Lê, Xuân Thu xuất
bản
3.
"Gương mặt cô gái và hoa đào cùng rạng ánh hồng"
(nói đến nét tươi thắm của người con gái) trong bài
"Đề Đô Thành Nam Trang" của Thôi Hộ
4. Xem
"Chân trời cũ" của Hồ Dzếnh. Người lữ khách
Trung Quốc là thân phụ Hồ Dzếnh
5.
"Chưa đến Trường Thành thì chưa phải là người hảo
hán"
6.
"Xiêm y tưởng là mây, dung nhan tưởng là hoa", một
câu tán tụng sắc đẹp của Dương Quí Phi trong bài
"Thanh Bình Điệu" của Lý Bạch
7.
Đặng Tiểu Bình có lần tuyên bố "Không cần biết
chú mèo màu trắng hay đen, miễn bắt chuột là được".