Theo dấu vết của Con đường Tơ Lụa trên Biển

Vietsciences- Hồng Lê Thọ          03/03/2009

 

Những bài cùng tác giả

  1. Từ một mảnh sành Thanh Hóa
  2. Người Nhật Bản với phố cổ Hội An và văn hoá Chăm Việt Nam
  3. Tách trà sứ gốm Việt Nam trong Trà đạo của người Nhật Bản

1

1/ Từ một mảnh sành Thanh Hóa

 

Bình hoa gốm Chu Đậu(Hải Dương) ở viện bảo tàng Topkapi(thổ nhỉ kì)

 
Vào một buổi chiều chủ nhật cuối thu năm 1978, khi lang thang trong khu trưng bày đồ cổ Châu Á của Viện bảo tàng Topkapi (Thổ Nhĩ Kỳ), tôi ngạc nhiên khi thấy 4 mảnh sành, trong đó có 3 mảnh men lam màu xanh Cobalt kiểu đời Nguyên, ghi "Đồ sành An Nam" với nét thanh thoát hình cánh hoa mẫu đơn và một mảnh khác men ngọc (Céladon) ẩn hình hoa sen, ám họa mang dáng dấp đời Tống ghi niên đại thuộc thế kỷ 9 - 11 đào được ở thành phố Fustat (Ai Cập cổ đại), với câu hỏi về nguồn gốc "Có phải là Long Tuyền Diêu của Trung Quốc hay là của Thanh Hóa (Việt Nam)" ? Điều thú vị là thành phố Fustat -vùng đất cổ ở ngoại ô thủ đô Cairo ngày nay chỉ tồn tại đến hậu bán thế kỷ 12 (năm 1168), vì người bản xứ đã tự hủy diệt, đập bỏ tất cả trong cuộc giao tranh "vườn không nhà trống" với Thập Tự Quân, cho thấy mảnh sành men ngọc nêu trên đã phải có mặt trước đó.
 

Celadon Việt nam—Song ngư


Vài năm sau Viện bảo tàng mỹ thuật Osaka (Nhật Bản) trưng bày một bát men ngọc "An Nam" của ông Kimura, một nhà sưu tầm đồ cổ Việt Nam khá nổi tiếng, bát nầy có màu men, hình dáng và hoa văn rất giống với mảnh sành ở Topkapi, lại thêm chú thích đáng lưu ý: "Celadon An Nam - rất khác với men ngọc của Long Tuyền (Trung Quốc), Sukhothai, Sawalakok (Thái Lan) - có chân bát rất cao; thường thoa thêm một lớp oxyt sắt mà giới chuyên môn gọi là đáy Chocolat, một đặc trưng của đồ sứ gốm Việt Nam ngày trước". Hơn 10 năm sau, vào những ngày cuối năm 1990, ở khu phố bán bàn ghế, tủ, chén giả cổ ở lăng Cha Cả ngày trước (quận Tân Bình) tôi tìm thấy 2 cái bát men ngọc hoàn chỉnh, trong đó một bát có men tuy không dầy như bát ngọc Bắc Tống thường rất nặng tay, nhưng hoàn toàn giống hệt mảnh sành và bát men ngọc ở Osaka nêu trên. Lẽ nào ngày nay còn sót lại những cổ vật quí hiếm như thế ?

Trước khi nhắc lại lịch sử di dời của nghề đồ sứ men ngọc từ đời Tống sang nước ta, xin nói phương pháp xác định 2 bát men ngọc liệu là đồ thật hay đồ giả. Theo cách thẩm định của cụ Vương Hồng Sển để biết đồ cổ loại này thật hay giả là phải xem độ dày bóng của men ngọc, những điểm lấm chấm đen hay nâu của oxyd sắt tiết ra từ bên trong qua thời gian, thêm nữa là mô típ về hoa văn bằng bút sắt (hay tre) ẩn chìm trong men. Với mấy yếu tố này thì 2 cái bát mua được tuy không hoàn toàn giống nhau về nước men nhưng cho phép người khảo chứng có thể tạm xác định là "đồ thật" khoảng thế kỷ thứ 10 - 13, còn được sản xuất ở đâu thì chưa rõ, là "Long Tuyền Diêu" ở Chiết Giang (Trung Quốc) hay Thanh Hóa nước ta, mà cũng có thể là men ngọc kiểu "Tống Hồ Lục" của Xiêm La hoặc một nơi nào khác ? Về điểm này, có thể tóm tắt như sau:

1- Nhiều tư liệu lịch sử và khảo cổ cho biết trong những tù binh người Tống bị bắt đưa về khai hoang ở Thanh Hóa vào năm Ất Mão (1075) khi Lý Thường Kiệt đem quân sang đánh Châu Khâm, Châu Liêm (Trung Quốc) và sau đó là đợt di dân chạy loạn giặc Nguyên Mông, đã có một số danh nhân nghề gốm sứ Bắc Tống sang miền Bắc, mang kỹ thuật Céladon về định cư định canh ở Thanh Hóa và sản xuất đồ gốm sứ ở đây trong suốt gần 2 thế kỷ với mô típ phù hợp với văn hóa Việt Nam, chịu ảnh hưởng của đạo Phật thịnh hành vào thế kỷ 11 - 13. Không những thế, trong cuộc sơ tán này, họ còn mang theo nhiều sản phẩm sành sứ sang Việt Nam và đó cũng là lý do tại sao chúng ta tìm thấy nhiều đồ cổ quí giá của Trung Quốc có mặt ở nước ta.

2- Mặt khác, từ thế kỷ thứ 9 kéo dài đến thế kỷ 17, và nhất là sau khi nhà Nguyên thống trị Trung Quốc thay nhà Tống, người Hồi giáo ở vịnh Ba Tư, thương nhân từ vùng biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đã tấp nập qua lại bến Vân Đồn, phố Hiến... mua bán hương liệu, đồ gốm sứ. Phẩm vật Trung Quốc cũng được chuyển sang nước ta để trao đổi hàng hóa tại đây hay xuất đi nơi khác. Vì thế, các bến cảng miền Bắc vào thời kỳ này là "kho hàng" (Entrepôt) hay trung tâm giao dịch bao gồm cả phía Nam Trung Hoa (Quảng Đông, Phúc Kiến...) lúc bấy giờ. Không chỉ ở Topkapi (Thổ Nhĩ Kỳ) mà cả ở đảo Okinawa (Nhật Bản), Sumatra (Indonesia), quần đảo Philippines... người ta tìm thấy nhiều mảnh sành thời Lý, Trần rất đẹp, chen lẫn trong đồ "thật" và đồ "nhại" của Trung Quốc.

3- Trong đợt người Hoa đời Tống di dân, lánh nạn, nhiều họ tộc đã sang Việt Nam và sau đó, từ đầu đời Nguyên, vua Thái Lan cũng đã mời công nhân sứ gốm đến Xiêm La xây dựng các lò nung tương tự. Mặt khác, theo Roxanna M.Brown, một chuyên gia về đồ gốm sứ Đông Nam Á, cho biết, sau khi nhà Nguyên suy tàn, các họ tộc đời Tống ở Thanh Hóa đã trở về Trung Quốc, và cũng đã có những nhóm người chuyển sang Xiêm La để tiếp tục sản xuất, giải thích tại sao đồ sành của Thanh Hóa không mấy phát triển khi bước vào thế kỷ thứ 16 - 17. Trong những cuộc chuyển di của người Hoa khắp lục địa Châu Á ấy, có lẽ cũng đã có số người dừng chân ở Bình Định (Gò Sành), Đồng Nai... xây dựng lò sản xuất hàng sứ gốm có mô típ rất gần gủi với các nơi khác trong khu vực.
 

Thố men ngọc Việt Nam


Nhiều nhà khảo cổ học Nhật Bản cho rằng đồ sành sứ Thanh Hóa đã chịu ảnh hưởng của Việt châu diêu từ đời nhà Đường, khi tìm thấy nhiều cổ vật (bình, vại...) có hình dạng giống như hàng sành sứ của các lò nung vùng này và mang dáng dấp của men ngọc đời Tống, đậm nét nhất vào thế kỷ 10 - 13, khi phát hiện nhiều bát, chén céladon có mô típ rất gần gũi với Long Tuyền Diêu. Như vậy, mảnh sành ở Topkapi rất có thể là sản vật của Thanh Hóa đã theo các thương thuyền của con đường lụa trên biển từ thế kỷ thứ 10 - 12. Chi tiết giúp tôi khẳng định thêm được điều đó khi tìm thấy ở Viện bảo tàng Istanbul ngày nay một lọ hoa men lam tuyệt vời còn nguyên vẹn, ghi rõ "Đại Hòa năm thứ 8" tức vào đời vua Lê Nhân Tôn (nhà Hậu Lê, năm 1450), của một nghệ nhân họ Bùi ở Nam Sách (Hải Dương), chứng tỏ sứ gốm ở Việt Nam là hàng hóa được xuất khẩu ra nước ngoài một cách qui mô.

Theo kết quả nghiên cứu gần đây của Giáo sư Misugi Takatoshi (Nhật Bản), con đường tơ lụa trên biển hình thành rất sớm, từ khi kỹ thuật đóng thuyền buồm bọc gió vượt biển được xác lập từ đầu công nguyên và ngày càng phát triển khi kỹ thuật la bàn đi biển được phát minh tạo điều kiện cho những thương thuyền cỡ lớn chuyên chở hàng lụa, hồ tiêu, hương liệu và các loại gỗ quí (trầm hương), sản phẩm sành sứ thay thế dần các đoàn lữ hành bằng lạc đà trên lục địa đầy trắc trở. Song song với sự hưng thịnh rực rỡ của nền văn minh lưỡng hà vào thế kỷ 9 - 11, hàng hóa từ Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia... đã được đưa đến các xứ Ai Cập cổ đại để mua bán, trong đó có hàng "sành sứ An Nam", đặc biệt loại bát chén men ngọc được người Vịnh Ba Tư rất ưa chuộng, xem là một dụng cụ để đo thuốc độc trong thức ăn (poisoning test) trong thời kỳ các nước và bộ tộc tranh chấp ác liệt và truyền thuyết đó vẫn được lưu lại cho đến ngày nay.

1/1998

Hồng Lê Thọ

( Tokyo )
 

đã đăng trên báo Sài gòn giải phóng(1998)

 

2

2/ Người Nhật Bản với phố cổ Hội An và văn hoá Chăm Việt Nam

Nếu có dịp đến thăm Viện Bảo tàng NEZU (quận Bunkyo, Tokyo), bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ở đây có một chiếc lu đựng nước bằng gốm pha men nâu sậm của dân tộc Chăm, được các nhà khảo cổ gọi là gốm "Gò Sành" của xứ Bình Định ngày xưa. Khảo sát đồ gốm Seto và Bizen ở miền Nam Nhật Bản vào thế kỷ thứ 15 - 16 và so với những sản phẩm cùng chủng loại của người Chăm, lạ thay tại sao chúng lại rất gần gũi, từ hình dạng, hoa văn đến nước men đen bóng (có khi là nâu đậm). Câu hỏi ấy đã được đặt ra trong giới khảo cổ Nhật Bản đến nay vẫn chưa có lời giải đáp.

Một nhà nghiên cứu về Chăm học ở TP Hồ chí Minh đã ngạc nhiên đến tột bực khi xem tập catalogue của Viện Bảo tàng Machida (tỉnh Kanagawa), nơi thu thập được khá phong phú sản phẩm sứ gốm của nước ta, rằng "ở Ninh Thuận có rất nhiều, hiện nay vẫn còn tìm thấy". Dựa vào nguồn tư liệu viết về mối giao lưu giữa hai nước Việt - Nhật qua "Chu ấn thuyền" (Shuinbune) (*) của Mạc Phủ vào hậu bán thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 17 thì các tàu buôn này tập trung mua bán khá lớn ở các bến cảng của người chăm vùng biển Trung Bộ, sau đó mới đến Hội An, Thanh Hà, Phố Hiến và Hà Nội (Đông Kinh) với các mặt hàng chủ yếu là sành sứ, trầm hương, kén tơ tằm, yến sào, gỗ quí... trong đó sứ gốm chiếm tỷ lệ cao nhất. Những sản phẩm sứ gốm này thường được người Nhật Bản gọi chung là sứ gốm "An Nam", "Giao Chỉ" đối với các loại có men lam hồi hay men ngọc, và các loại men nâu hoặc đen thì họ gọi gộp là gốm Khmer hay gốm Chăm (đã có từ thế kỷ thứ 2 - 3).

 

gốm Gò Sành                                      gốm Bizen(NB)

                 

Nghề sứ gốm của Nhật Bản phát triển rực rỡ vào thế kỷ 17 - 18, khi tướng quân Toyotomi của Mạc Phủ ra lệnh "dẫn độ" nghệ nhân người Triều Tiên mang theo kỹ thuật lò nung ở nhiệt độ cao (trên 1.300 độ C) của nhà Minh, còn sản phẩm sứ gốm Seto hay Bizen nói trên đã tồn tại từ trước cho thấy có khả năng kỹ thuật sản xuất sứ gốm của người Chăm đã được truyền sang Nhật Bản trước cả thời kỳ hai nước giao lưu bằng "Chu ấn thuyền". Cũng có người giải thích rằng hàng hoá sứ gốm men đen, nâu, nhất là các loại lu, vại để đựng nước uống trên thuyền đã được trao đổi giữa các tàu buôn qua lại trên biển Đông của người Nhật hay Trung Quốc trong đó có cả bọn cướp biển. Mặt khác người Chăm cũng đến tận quần đảo Đài Loan để mua bán và định cư từ những thế kỷ đầu Công nguyên và họ đã mang theo để sử dụng chăng ? Giả thuyết này khá thú vị khi các nhà dân tộc học tìm thấy ở Đài Loan những bộ tộc thuộc nhân chủng Malaysia - Polynesien có đặc trưng sinh hoạt văn hoá rất gần gũi với người Indonesia (đảo Java) và người Chăm ở Việt Nam. Tuy vậy, những phát hiện đó cũng chưa giải thích được sự tương hợp giữa hàng sứ gốm người Chăm và sản phẩm của Seto hay Bizen ở Nhật Bản.

 

Con đường tơ lụa trên biển

Một giai thoại trong lịch sử thường được nhắc lại trong những khảo cứu về con đường tơ lụa trên biển vào thời kỳ "Chu ấn thuyền" là Tướng quân Tokugawa - người thống nhất sơn hà vào quyền lực Mạc Phủ trong 300 năm (từ thế kỷ 14 - 17) - rất say mê bát uống trà "An Nam" làm bằng gốm nung màu vàng nhạt có hoa văn cánh sen trang nhã màu hồng tía hay màu xanh cobalt đời Trần. Từ đó, các lãnh chúa phiên bang đều ưa chuộng, trở thành một phong cách trong nghệ thuật uống trà của người Nhật Bản ở Kinh Đô (Kyoto). Ngoài mục đích bảo vệ quyền lợi kinh tế của Mạc Phủ, những thương thuyền Nhật Bản sang nước ta đã thu mua hàng vạn ấm chén uống trà bằng sứ gốm được gọi là "An Nam Yaki" hay "An Nam Somesuke", thậm chí đã có một số lò sứ gốm ở gần Kyoto đã "nhái" lại theo kiểu "An Nam" để tung ra thị trường, một loại hàng giả nổi tiếng thời ấy. Điều đó cho thấy nghề sứ gốm của nước ta thời bấy giờ đã phát triển vài thế kỷ trước Nhật Bản. Mặt khác, nhiều tư liệu mới phát hiện đã chứng minh trước khi thế lực của các công ty tàu biển Đông Ấn - Hoà Lan khuynh loát vùng biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương vào thế kỷ 16 bằng phương tiện chuyên chở cỡ lớn (và súng đạn) xuất hiện các bến cảng dọc theo bờ biển của nước Việt Nam thời trung đại (khoảng thế kỷ thứ 11 đến 17), trong suốt 500-600 năm... đã có mối quan hệ trao đổi và trung chuyển hàng hoá  giữa các thương thuyền khắp nơi kéo đến vì thế nghề sứ gốm ở Bát Tràng, Thanh Hoá với màu men lam hồi hay men ngọc, Bình Định với men nâu đậm hay men xanh bóng đã có điều kiện phát triển khá rực rỡ, cao nhất là thế kỷ 13 - 15, trở thành một trong những mặt hàng chủ lực lan rộng đến cả Nhật Bản, Indonesia, Malaysia và nhiều nước trong vùng vịnh Ba Tư, trong đó có những sản phẩm sứ gốm của dân tộc Chăm.

                  

Thương thuyền Shuinsen của Nhật bản

                

Tàu buôn hàng của Trung quốc trên con đường tơ lụa

Song song với sự phát triển đó, nền văn hoá người Chăm nở rộ với nhiều sắc thái khá độc đáo, là một tụ điểm giao thoa nhiều nền văn minh, tôn giáo và nhân chủng khác nhau theo luồng người di trú hay luồng tàu thương nhân mang đến. Người ta còn lấy làm lạ rằng tại sao dân tộc Chăm lại có thể hội tụ nhiều tôn giáo có khi rất tương khắc vào thời kỳ mà việc giao dịch, đi lại rất hạn chế, chỉ có đường bộ và đường biển bằng tàu buồm chạy theo gió mùa ? Ở đấy đã có đạo Bà La Môn, Hồi giáo, Ấn giáo, đạo Phật (tiểu thừa và đại thừa) cùng tồn tại, không kể đến các loại tôn giáo địa phương khác của người Trung Quốc hay người Việt. Liệu những điều đó có gắn liền với quá trình hình thành và tan rã của nước Lâm Ấp thuở xa xưa hay Chiêm thành sau này? Giáo sư Ogura Sadao, một chuyên gia về sử học nổi tiếng ở Nhật Bản, cho biết: "Người Nhật Bản quan tâm đến Hội An không phải chỉ vỉ ở đấy có khu phố cổ, nơi ghi lại những dấu ấn về mối giao thương chính thức giữa Việt Nam và Nhật Bản từ thế kỷ 16, vấn đề chúng tôi muốn biết thêm là nền văn hoá của dân tộc Chăm đã hình thành và tồn tại như thế nào trong suốt 10 thế kỷ hoặc có thể lâu hơn nữa, từ thời cổ đại". Tại khu di tích vừa mới khai quật tại thành phố Kagawa ở miền Nam nước Nhật vào tháng 8 - 1998, các nhà khảo cổ Nhật Bản tìm thấy một vòng bằng đá ngọc xanh thuộc thế kỷ thứ 3 tại khu vực ăn ở của một lãnh chúa (hay phú hào ?) có hình dạng hoàn toàn giống những vòng trang sức của người Chăm ở Óc Eo mà chúng tôi đã thấy ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Có phải đây là  một bằng chứng mới xác minh mối quan hệ giao lưu giữa người Nhật Bản và người Chăm ngày trước, phù hợp với nhận định ban đầu của Giáo sư Misugi Takayoshi, rằng có những dấu hiệu cho thấy "người Chiêm Thành đi bằng Giao chỉ thuyền" đã vượt biển đến các vùng đảo của Nhật Bản từ thế kỷ thứ hai vì người dân tộc Chăm sống ở ven biển vốn có nghề đi biển theo hướng gió mùa rất thông thạo. Cho nên cũng không lạ gì khi các nhà khảo cổ trẻ tuổi Nhật Bản thường xuyên đi tìm những mảnh vụn sứ gốm, hàng trang sức đang nằm dưới lòng đất ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu... để tìm một lời giải đáp bằng học thuật; điều vẫn được xem là khá "bí ẩn" trong quan hệ Nhật - Việt vào thời kỳ mà con đường tơ lụa trên biển bắt đầu hình thành.

 

Tokyo, 9-2000

HỒNG LÊ THỌ

-------------------------

(*) thương thuyền mang ấn thư triện đỏ do Mạc Phủ cấp gọi là "Chu ấn thuyền" (Shuinbune) hay Goshuinsen (Ngự chu ấn thuyền) - ám chỉ thuyền của Mạc Phủ cử đi để phân biệt với tàu buôn của bọn "hải tặc".

                                                                                         đã đăng trên báo SGGP (9/2000)

(bổ sung ngày 28/2/2009))

đọc thêm ”Vài nét về đồ Gốm Việt Nam trên thị trường Gốm quốc tế vào thế kỷ 14 đến thế kỷ 17”

 http://www.gosanh.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=237

và  “Japan early trade coin and the commercial trade between Vietnam and Japan in the 17th century” http://tripatlas.com/Nanban

 

Du thuyền trên vịnh Hạ Long ngày nay

 

Thuyền buồm ngày xưa

 

đào cổ vật dưới đáy biển trên con đường tơ lụa

 

Cổ vật dưới đáy biển

 

 

 

3

3/ Tách trà sứ gốm Việt Nam trong Trà đạo của người Nhật Bản

 

Người Việt chúng ta thường nghe nói đến Trà đạo, thú uống trà tao nhã của người Nhật Bản với những lễ nghi cầu kỳ kéo dài gần 4 giờ đồng hồ cho một cuộc gọi là Chaji. Trà đạo hình thành từ thế kỷ thứ IX mà mục đích của nó là tạo ra sự thanh thản, tịnh tâm để thả hồn hòa với thiên nhiên, cảnh vật như quan niệm của Thiền đạo trong Phật giáo.

 

    

Tách trà An-Nam phổ biến ở Kyoto

Vào những ngày đầu xuân đúng lúc hoa anh đào nở rộ từ thượng tuần đến hạ tuần tháng 3 hằng năm, khắp nước Nhật, người ta thường thấy trên đường ngắm hoa bên sườn đồi thoai thoải theo dốc núi là một quán trà với sạp gỗ phủ một miếng vải màu đỏ, bên trên che một chiếc dù rực rỡ dành cho người thưởng ngoạn ghé ngồi dừng chân uống trà trông thật nhàn nhã và phong lưu. Những buổi uống trà này không lệ thuộc vào lễ nghi cho nên "dễ chịu" hơn so với thủ tục của Chaji ... Nhìn những cô gái mỹ miều trong bộ kimono sặc sỡ, vén tóc búi cao để lộ chiếc gáy trắng muốt đi lại dịu dàng mời khách uống trà càng làm cho nét xuân thêm rạng rỡ, trở thành điểm nhấn của buổi du ngoạn độc đáo này. Nếu bước chân vào bên trong quán, người ta phát hiện được những bộ sưu tập về dụng cụ pha chế trà, tủ đựng các ấm chén, tách, đĩa quý hàng trăm năm trước được trưng bày, sắp xếp một cách cẩn trọng theo lịch sử phát triển của ngành gốm sứ ở Nhật Bản. Một nét văn hóa vô cùng đặc sắc của dân tộc Nhật rất đáng ngưỡng mộ.

 

Thương thuyền Nhật Bản lui tới Hội An

           Trước thế kỷ XIV, nghề gốm Nhật Bản chưa mấy phát triển, chủ yếu vẫn là dựa vào Trung Quốc và Trà đạo cũng còn nằm trong khuôn viên của nhà chùa và các gia đình phú hào, lãnh chúa nhưng đến thế kỷ XV, khi tập quán uống trà ngày càng phổ biến, lan rộng trong đời sống nhân dân thì nhu cầu phát triển về gốm sứ đi kèm cũng trở nên rầm rộ và ngày càng tinh xảo, điệu nghệ hơn. Đó cũng chính là cơ duyên hội ngộ của Trà đạo Nhật Bản và gốm sứ Việt vào cuối thế kỷ thứ XVI đầu thế kỷ XVII khi các đoàn thương thuyền của Nhật Bản theo gió xuôi về nam cập bến Hội An, Phố Hiến ... Trong hơn 35 năm, một số lượng hàng gốm sứ Việt đã ra đi từ đây để phục vụ cho nghệ thuật uống trà với tên gọi Beni-anam, một loại chén uống trà hoa xanh lam có điểm màu đỏ và xanh lục lộng lẫy hay hình hoa sen thể hiện bằng màu xanh lá cây và màu đỏ rất đẹp mà gia đình tướng quân Tokugawa rất đỗi ưa chuộng. Môn phái Trà đạo nổi tiếng ở thế kỷ thứ XVII là Kanamori showa còn giữ được một bình đựng nước men trắng hoa sen của Việt Nam ( thế kỷ XII - XIII ) và nhiều gia đình phú hào ở Osaka vẫn còn lưu giữ các loại chén, bình nước để dùng trong trà đạo. Đã có lúc hàng Việt Nam khan hiếm, các lò gốm ở Kyoto đã phải làm hàng nhái mang tên Kyoyaki thay cho Annam-yaki.

 

Dụng cụ  dùng trong Trà Đạo(tách trà An-nam)

 

Theo giáo sư Hasebe Gakuji ( viện Bảo tàng Tokyo ) thì kỹ thuật đồ sứ Việt Nam đã có ảnh hưởng rất lớn đến những người thợ nghề này ở Seto ( thuộc tỉnh Aichi ngày nay ), một nơi được tướng quân Tokugawa đặt hàng với số lượng lớn gốm sứ hoa xanh như của Việt Nam khi phát hiện được những hoạt động của gia đình Owari Chaya ( Nagasaki ) được mô tả trong bức tranh "Chaya Shiroku vượt biển thông thương với nước Giao Chỉ" ở Hội An nổi tiếng. Hiện nay Viện Bảo tàng Tokyo còn giữ được một chiếc đĩa hoa xanh có chân rất đặc biệt do thợ gốm Seto làm vào nửa đầu thế kỷ 19 có ghi chữ "Đại Việt quốc" kèm theo mấy câu thơ chung quanh, mô phỏng theo đồ sứ Việt Nam, cho thấy "đồ sứ Việt Nam được đưa vào Nhật Bản liên tục có tác dụng kích thích những người thợ gốm Nhật Bản" ( GS. Hasebe Gakuji trong Tìm hiểu quan hệ Nhật - Việt qua đồ gốm sứ). Vì vậy những chiếc đĩa xanh lam với mô típ cảnh vật thiên nhiên của đồ sứ Imari ( tỉnh Kyushu - Nhật Bản ) sau này vẫn mang dáng dấp của gốm Chu Đậu, nhẹ nhàng và thanh thoát phù hợp với ý thích trong nghệ thuật của người Nhật hơn là tính kỹ xảo, chi tiết rườm rà trong hàng gốm sứ Cảnh Đức Trấn ( Trung Quốc ).

           

Người viết đã được dịp trông thấy những chiếc chén trà hoa xanh có hình con chuồn chuồn rất trang nhã ở Viện Bảo tàng Nezu ( Tokyo ) và được biết nhiều gia đình Nhật Bản hiện nay vẫn còn cất giữ những chén trà tương tự như một bảo vật của tổ tiên. Đây là loại chén chuyên dụng trong Trà đạo, vì vậy có thể thương lái người Nhật đã đặt hàng sản xuất riêng trong những chuyến đi buôn ở Việt Nam vào thời ấy(*).

           Còn gì thú bằng khi tham dự một buổi "tiệc" trà mà trên tay cầm một chiếc chén là hàng gốm sứ nước Việt đã có từ hàng trăm năm về trước với độ dày khả dĩ giữ được hơi ấm rất lâu trong gió thoảng lành lạnh còn sót lại của buổi đầu xuân. Điều đó hoàn toàn có thể thưởng thức vào mùa hoa anh đào nở mỗi năm trong công viên ở thành phố Kyoto cổ kính.                      

Hồng Lê Thọ 

1/2006

---------------

(*) Nghệ thuật uống trà của Việt Nam (điển hình là trà xanh) và trà cụ đã được tiền nhân chúng ta cho xuất cảng sang Nhật trong giai đoạn nầy (từ triều nhà Lý sang đến nhà Trần). Hiện nay tại một bảo tàng viện của người Nhật ở Kyoto (cựu thủ đô của Nhật) vẫn còn lưu giữ và chưng bày một số trà cụ từ Việt Nam mà họ đã nhập vào nước Nhật trong triều đại nhà Lý mà người Nhật vẫn xem là những món đồ "quốc bảo". Tản Mạn Chuyện Trà

http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=print&sid=4792

            12/09/2006(bổ sung chú thích nầy ngày 28/2/2009)

 

                             đã đăng trên  Sức khỏe và đời sống số ra ngày Thứ 7, 28/01/2006.(Báo Xuân )

 

            ©  http://vietsciences.free.frr  và http://vietsciences.org    Hồng Lê Thọ