Những bài cùng
đề tài
Hôm trước, trong lúc lái xe chở 2 đứa con đến
trường, chúng hỏi tôi:
-Trên bảng số xe người ta có viết chữ : <Je me souviens>. Nghĩa
là sao ? Có phải là người Pháp muốn ghi nhớ lại lúc bị người Anh xâm chiếm
không?

Tôi trả lời:
- Nghĩa là : Đừng quên nguồn gốc của mình.
- Là câu đầu của bài thơ:
“Je me souviens /Que né sous le lys / je croîs sous la rose
"
I remember / That born under the lily / I grow under the rose"
- Có nghĩa là: Tôi nhớ / Rằng sinh ra trên đất
Pháp / Tôi lớn lên trên đất Anh.
- Hoa Lys (hoa huệ tây) tượng trưng cho vương quốc Pháp, còn Hoa Rose (hoa
hồng) là của vương quốc Anh.
 
* *
*
Québec nguyên thủy là
vùng đất của người da đỏ (Amérindien) và người Inuit. Năm 1535, nhà thám
hiểm đầu tiên đến Québec là Jacques Cartier, người Pháp. Sau đó, vào năm
1608, dưới thời vua Louis 12, Samuel de Champlain đến chiếm, thành lập nên
thuộc địa cho Đế quốc Pháp, đặt tên là Nouvelle-France. Đến năm 1663, vua
Louis 14 cử Quan quản lý (intenant) Jean Talon đến để cùng với Thống đốc đẩy
mạnh phát triển và biến Québec thành 1 tỉnh của nước Pháp. Năm 1763, Pháp và
Anh đánh nhau tranh giành thuộc địa. Pháp thua trận nên vua Louis 15 phải
nhường Nouvelle-France cho Đế quốc Anh. Phần đất từ đó chính thức mang tên
“Québec” cho đến ngày hôm nay.

Samuel de Champlain đến Québec
năm1608
Sau khi chiếm lấy Québec, Đế quốc Anh muốn đồng hóa những kiều dân Pháp
theo đạo Thiên Chúa Giáo và loại trừ chính quyền cũ nên đã lập ra bản tuyên
ngôn với những điều kiện phân biệt đối xử như: Đòi phải tuyên thệ trước
khi muốn trở thành công nhân viên nhà nước, gạt bỏ những thần dân Pháp ra
khỏi vị trí trọng trách trong chính quyền, không được quyền làm ban bồi
thẩm, ủng hộ việc lập trường học dòng đạo Tin Lành, tăng cường di dân người
Anh vì 95 % dân số là người Pháp.
Năm 1774, tại Québec chỉ có 2000 người Anh, nhưng có tới 90000 người
Pháp. Để tránh những cuộc nổi dậy của người Pháp và cũng để tránh người Pháp
bị cám dỗ kết thân với quân phản nghịch Mỹ ngày càng mạnh ra. Đế quốc Anh đã
phải đồng ý 1 Đạo luật Québec, trả lại luật lệ Pháp, đất đai, tài
sản, bảo đảm quyền tự do theo tôn giáo của họ, bãi bỏ việc tuyên thệ khai
trừ đạo Thiên Chúa Giáo của các nghị sĩ, quan tòa và viên chức chính quyền,
Công nhận ngôn ngữ văn học Pháp và mở rộng lãnh thổ Québec. Đây là định
mệnh và là một thành quả vô cùng quan trọng mà người Pháp đã giành được kể
từ khi bị cai trị. Nó là bàn đạp để sau này tiến đến đấu tranh giành lại chủ
quyền.
Năm 1783, khi Đế quốc Anh bại trận trong chiến tranh dành độc lập của Mỹ.
Có khoảng 50 000 dân trung thành rút về Canada, phần lớn định cư vùng gần
Lake Ontario, trong số đó có khoảng 7000 dân Anh đến tỵ nạn ở Québec, tại
Sherbrooke, Drummondville, và Lennoxville. Những người Anh thiểu số này cảm
thấy khó chịu trước ưu thế đa số của người Pháp nên đã làm áp lực với chính
quyền Anh, tìm cách làm giảm bớt những ưu đãi đã nhường lại cho người Pháp
bởi Đạo luật Québec ban hành trước đó.

Thành phố
Québec
Năm 1791, để làm vui lòng những người trung thành,
chính quyền Anh đã thông qua một Đạo luật Lập hiến, chia Canada thành
2 thực thể chính trị: Hạ Canada (Pháp) và Thượng Canada (Anh). Hiến pháp
này dẫn vào 1 số yếu tố của nền dân chủ sơ khai trong chính trị của Canada.
Vào mùa hè năm 1792, lần đầu tiên tổ chức tuyển cử
nhưng chỉ dành cho người làm chủ, trên 21 tuổi, có lên hệ với Anh, bầu bằng
cách phát biểu trước quần chúng chứ không viết giấy bỏ vô thùng phiếu kín
như hiện nay, chọn ra được 50 nghị viên, gồm 34 Pháp và 16 Anh. Trong thời
gian đó, quốc hội trên thực tế không có quyền lực, bởi vì Thống Đốc do vua
Anh chỉ định, Thống Đốc tự quyết định chọn 9 người Pháp và 9 người Anh vào
cơ quan lập pháp, 4 người Pháp và 5 người Anh vào cơ quan hành pháp. Ngoài
ra Thống đốc có quyền phủ quyết mọi quyết định của quốc hội và cũng có quyền
giải tán quốc hội. Mọi đề án luật đều phải đưa lên cho cơ quan lập pháp xem
xét, nếu được chấp thuận mới được trình lên Thống đốc phê chuẩn. Ngôn ngữ
dùng trong quốc hội cũng là 1 đề tài tranh cãi rất gây gắt. Chính vì những
bất công đó, vào năm 1834 đảng Patriote (Người yêu nước) ra đời, lãnh tụ
đảng Patriote là Louis-Joseph Papineau đã gởi 1 văn kiện gồm 92 nghị quyết
nói lên những bất mãn tích tụ của người Canada gốc Pháp cho Luân Đôn. Mãi
đến năm 1837 (4 năm sau) Luân Đôn chỉ đáp lại bằng 10 nghị quyết của
Russell, không những từ chối mà còn chứa đựng 1 sự tăng cường quyền lực.
Thống đốc giải tán quốc hội. Trước tình thế như thế, đảng Patriote triệu tập
hội nghị quần chúng và yêu cầu tẩy chay sản phẩm của Anh. Phong trào đấu
tranh được thành hình. Vào năm 1837, lãnh tụ của đảng Cải Cách lợi dụng nhóm
nỗi loạn của đảng Patriote để lật đổ chính phủ của đảng Bảo Thủ, nhưng lực
lượng vũ trang của đảng Patriote bị quân đội Anh dẹp tan 1 cách nhanh chóng.
750 đảng viên bị bỏ tù, 12 người bị treo cổ và hơn 60 người bị đày đi Úc.
Năm 1838, Thống đốc của tất cả thuộc địa ở Bắc Mỹ, ông Durham đến Québec để
điều tra tình thế của thuộc địa. Đầu năm 1839, Ông trở về Anh đề nghị sữa
đổi Đạo luật Lập hiến, vì chính đạo luật này đã khêu gợi ra những xung đột
chính trị giữa các nghị viên được dân bầu với cố vấn do Thống đốc chỉ định.
Một bên muốn được thêm quyền hạn và một bên muốn bảo vệ quyền lực. Hơn nữa,
2 bên Anh và Pháp có nhiều cá tính khác nhau và thù ghét nhau nên thường xảy
ra xung đột dân tộc.
Năm 1840, dựa trên bản báo cáo của Tổng thống đốc
Durham, chính quyền Anh đã thông qua một Đạo luật Liên minh để ghép 2
Canada Thượng và Hạ vào 1, Mỗi bên đều có 42 nghị sĩ và phải vô chung 1 nghị
viện, mặc dù dân số của bên Thượng Canada (Anh) ít hơn bên Hạ (Pháp), bên
Thượng (phía tây) có 450 ngàn dân; bên Hạ (phía đông) có 650 ngàn dân. Tiếng
Anh là ngôn ngữ chính thức trong các cuộc hội thảo, Thống đốc vẫn được quyền
chỉ định những cố vấn lập pháp và hành pháp. Do đó, nghị sĩ gốc Pháp trở
thành thiểu số và bị đồng hóa trở lại.

Nhà thờ Notre Damme
Lúc bầu cử năm 1841, lãnh tụ của nhóm gốc Pháp tại nghị viện, ông
Louis-Hippolyte Lafontain đã liên minh với lãnh tụ của đảng Cải Cách gốc
Anh. Nhờ đó đảng liên minh thắng cử.
Năm 1848, Thống đốc Lord Elgin thừa nhận thực tế một
chính phủ có trách nhiệm do 2 đảng thành hình. Lafontain đọc diễn văn bằng
tiếng Pháp tại nghị viện., tiếng Pháp được thừa nhận, nhiều tù nhân phản
nghịch được ân xá và đền bù tiền. Nhờ đó vị trí của người Pháp được đảm
bảo, đặc quyền chính trị và văn hóa được bảo tồn. Đây cũng là bước tiến quan
trọng cho số phận tương lai của người Pháp.
Vào năm 1851, khi bộ kiểm tra dân số nêu lên rằng dân
số của vùng thượng (952 ngàn) bây giờ nhiều hơn vùng hạ (890 ngàn) thì đảng
Clear Grits, theo chủ nghĩa cải lương, yêu cầu áp dụng “Rep by Pop” (viết
tắc của chữ Representation by population), tức là đại diện theo tỷ lệ dân số
của 2 vùng. Cách này có lợi cho dân gốc Anh.
Năm 1864, tình hình chính trị rất nguy cập. Trong 2
năm, 5 chính phủ nối tiếp nhau không đạt được đa số ủng hộ, làm tê liệt
chính quyền Canada. Về chính trị thì dân số người gốc Pháp ngày càng tăng
nhanh và không bị đồng hóa, hệ thống chính trị chỉ đẻ ra chính quyền thiểu
số, hoạt động khó khăn do liên minh, không thỏa mãn cho cả người Anh lẫn
người Pháp. Về mặt kinh tế thì chậm phát triển những ngành công nghiệp chủ
yếu, do bởi chính sách thực dân của Hoàng gia Anh, dân số không đủ đông để
giúp đẩy mạnh hiệu quả kinh tế trong bối cảnh Bắc Mỹ. Chính vì thế ý tưởng
tách Canada ra thành 2 tỉnh: Ontario (Anh) và Québec (Pháp) rồi kết hợp 2
tỉnh đó với 2 thuộc địa khác là Nouveau-Brunswick và Nouvelle-Écosse để
thành lập ra Liên bang Canada.
Đây là sự ra đời của nước Canada mới bởi
Đạo luật Amerique du Nord britanique được công bố chính thức tại Ottawa
ngày 1 tháng 7 năm 1867.
Chính phủ Liên bang làm luật trong phạm vi đối ngoại,
trong khi đó chính phủ tỉnh bang quản lý việc địa phương. Mỗi chính phủ được
quyền tự trị trong lĩnh vực của mình. Cả 2 bên gốc Anh và gốc Pháp đều thỏa
mãn vì:
-Người Anh có được đa số trong những tỉnh bang của họ.
-Người Pháp cũng có được đa số trong tỉnh bang của
mình với những quyền hạn cần thiết để bảo vệ ngôn ngữ và văn hóa của mình.
-Nước Canada mới tạo ra 1 môi trường kinh tế lớn nhất,
nơi mà tất cả có thể phát triển.
Manitoba gia nhập vào Canada năm 1870, British
Columbia năm 1871, Saskatchewan và Alberta năm 1905.
Vào cuộc bầu cử năm 1867 ở Québec, giới giáo sĩ thiên
chúa giáo xúi giục quần chúng chấp nhận hiến pháp mới. Nhóm Bảo thủ đại diện
cho tầng lớp thợ, công nhân, thắng 45 trong 65 ghế trong Hôi đồng Lập pháp.
Sau năm 1867, mặc dù làm chủ về tài chính, thương mại
và chính trị đối nội nhưng Canada cũng chưa có chủ quyền vì quyền lực còn
nằm trong tay Nữ Hoàng Anh.
Thể chế chính trị của Canada năm 1867:
Nữ Hoàng Anh --> Thống đốc --> Thượng viện
Dân chúng --> Hạ viện --> Nội các--> Thủ tướng
*Ngày nay, Thủ tướng thay quyền Nữ Hoàng, chỉ định
Thống đốc và Thượng viện.
Thể chế chính trị của Québec năm 1867:
Nữ Hoàng Anh --> Thống đốc tỉnh --> Cố vấn lập pháp
Dân chúng --> Hội đồng lập pháp --> Nội các --> Thủ hiến
*Ngày nay, Thủ hiến cùng với Thủ Tướng chỉ định Thống
đốc tỉnh. Từ năm 1968, Cố vấn lập pháp được hủy bỏ và Hội đồng lập pháp đổi
thành Quốc hội.
Từ năm 1879 đến năm 1896, nhờ vào chính sách đẩy mạnh
kinh tế của chính phủ liên bang như thiết lập mức thuế nhập cảng nhầm nâng
đỡ công nghiệp, nối dài đường xe lửa xuống phía tây, ủng hộ di dân đến mở
mang phía tây, năng suất nông nghiệp tăng nhanh, nhiều ngành công nghiệp
phát triển tại thành phố lớn Montréal. Từ đó xuất hiện ra giai cấp tư
sản công nghiệp và ngân hàng, phong trào công đoàn phát triển mạnh. Tuy
nhiên, về mặt chính trị, xảy ra nhiều bất đồng giữa 2 chính phủ Liên bang và
Tỉnh bang. Năm 1887, Honoré Mercier, Thủ hiến của Québec (từ 1887 đến 1891)
đã tổ chức 1 buổi gặp mặt của 5 Thủ hiến, yêu cầu liên bang tăng tiền viện
trợ và đề nghị không can dự vào phạm vi tòa án của tỉnh bang.

Thành phố
Montréal
Từ năm 1896 đến năm 1918, Québec bắt đầu phát triển
những tài nguyên thiên nhiên phong phú của mình. Để có thể phát triển những
công nghiệp lớn như thủy điện, bột giấy, nhôm, hoá chất, chính phủ Québec
phải ưu đãi những nhà đầu tư nước ngoài, phần lớn là người Anh và người Mỹ.
Trong giai đoạn nầy, có rất nhiều dân di tản từ nông thôn vào thành phố,
nhiều di dân đến từ Anh, Ý, Hy Lạp, và Ba Lan. Năm 1896, Ông Wilfrid
Laurier, là người Pháp đầu tiên đắc cử Thủ tướng Canada.
Năm 1900, Canada vẫn còn là thuộc địa của Anh, mặc dù
hưởng quyền tự trị rất lớn trong chính trị đối nội, lệ thuộc Anh trên phương
diện đối ngoại. Nhưng sự tham gia của Canada trong chiến tranh Anh có hệ quả
thúc đẩy bước tiến đến tự trị. Bởi vì tính ưu thế quân sự của nước Anh đang
bị 2 sức mạnh mới của Đức và Mỹ hăm dọa. nên chính phủ Anh cần đến sự giúp
đỡ của các thuộc địa. Tuy nhiên, phần lớn người Canada gốc Anh bị chia rẽ về
tính trung thành với Đế quốc Anh. Người gốc Pháp không muốn gởi quân đôi
tham chiến với Anh.
Từ năm 1919 đến năm 1928, Nước Anh bận tái kiến thiết
đất nước nên không còn tài trợ cho Québec. Thay vào đó, Mỹ đã cung cấp những
tư bản cần thiết cho việc công nghiệp hóa của Québec. Do ảnh hưởng của sự
suy thoái kinh tế sau chiến tranh, 130 000 người Québec đã di cư qua Mỹ để
tìm việc làm. Trong giai đoạn này đã xảy ra nhiều xung đột giữa 2 hệ tư
tưởng của đảng Tự do cầm quyền, chủ trương phát triển công nghiệp, với đảng
đối lập, chủ nghĩa dân tộc, chủ trương phát triển nông nghiệp là chính, coi
trọng gia đình và tôn giáo.
Từ năm 1929 đến năm 1945, Québec cũng như tất cả các
tỉnh bang khác đều bị ảnh hưởng nặng nề do cuộc đại suy thoái lớn nhất
(1929-1933) bùng nổ ra tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3% đến 25%. Lương
giảm 40%.
Năm 1931, Canada độc lập với Đế quốc Anh, làm chủ
chính sách đối ngoại và tự trang bị quân đội, chọn quốc kỳ (1964), quốc
ca(1980) cho chính mình.
Năm 1939, Thủ tướng Mackenzie King gởi quận đội đi
giúp các nước đồng minh với trách nhiệm giới hạn trong việc tiếp ứng thực
phẩm và dụng cụ. những người gốc Anh được ưu tiên trong chiến tranh ở Âu
châu. những người gốc Pháp thì không bị gọi tòng quân. Thế nhưng, năm 1942,
trước nhu cầu tăng quân số, Mackenzie King phải thông qua 1 cuộc bỏ phiếu
toàn dân, xin quyền động viên cả người Canada gốc Pháp. Mặc dù 71% người
Québec từ chối nhưng không được chấp thuận, vì nó là thiểu số trong tỷ lệ
80% đồng ý của các tỉnh bang khác. 600 000 lính Canada đã được gởi đi tham
dự Đệ nhị thế chiến, 42 000 chết và 53 000 bị thương.
Từ năm 1945 đến 1960, thời kỳ này được đánh dấu bởi sự
ngự trị lâu dài của Thủ hiến Maurice Duplessis. Đây là thời kỳ thịnh vượng
cho Québec, lương bổng được tăng nhanh, điều kiện làm việc được cải thiện,
Người Québec theo cách sống của người Mỹ (l’American Way of Life), tăng thêm
xe hơi, tủ lạnh, radio, tv, điện thoại. Duplessis ý thức được rằng sự phát
triển kinh tế Québec phải được hướng theo trục sản phẩm công nghiệp và khai
thác tài nguyên thiên nhiên., ông muốn kéo Québec trở nên giàu có về công
nghiệp và tài chánh như Mỹ. Ông là 1 chính trị gia gây nhiều tranh luận
trong lịch sử của Québec. Năm 1948, Chính phủ Maurice Duplessis thừa nhận lá
cờ Québec, được gọi là “le Fleurdelisé).

Lá cờ của
Québec
Năm 1960, Jean Lesage của đảng Tự Do nắm chính quyền,
sau đó là Daniel Johnson, Jean Jacques Bertrand đã làm nhiều cải cách cho
Québec. Gian đoạn 1960-1975 được gọi là giai đoạn Cách mạng yên lặng
(Révolution tranquille). Québec sống thêm 1 giai đoạn khác cũng rất thịnh
vượng và vinh quang. Nhiều phụ nữ đi làm, lợi tức gia đình được nâng cao. Do
ảnh hưởng của những chương trình của đài truyền hình Mỹ, người Québec càng
chấp nhận cách sống theo kiểu Mỹ, sự tiêu dùng tăng nhanh.
Năm 1961, 45% công ty tại Québec nằm trong tay người
nước ngoài, 47% của người Canada gốc Anh, người gốc pháp chỉ nắm được 7%. Do
đó, chính phủ Québec đã phát ra 1 chương trình quốc gia, lập ra nhiều công
ty quốc doanh. Việc quốc hữu hóa các công ty thủy lực trên toàn tỉnh bang là
1 việc vang dậy nhất, thành lập ngân hàng Caisse de dépot và SGF (Société
général de financement), nhầm trợ cấp, cho vay không tính lời, trợ giúp xuất
cảng v. v…cho tư bản gốc Pháp. Nhờ đó xuất hiện ra tầng lớp kinh doanh gốc
Pháp. Chính quyền Jean Lesage đã thúc đẩy chương trình bảo hiểm nằm bệnh
viện, lập ra Bộ gia đình và trợ cấp xã hội (Biên-être social), Bộ quản lý
niên kiêm (Régie des rentes) để bảo hiểm lợi tức của người lao động, chấp
thuận luật lao động giúp thành lập công đoàn, thông qua luật thừa nhận sự
bình đẳng pháp lý của người đàn bà đã thành hôn (1964).
Dưới thời Daniel Johnson và Jean-Jacques Bertrand
(1966-1970), để khuyến khích tiếng Pháp, chính phủ đã ban hành luật 63
cho phép phụ huynh chọn ngôn ngữ dạy cho con cái của họ, những người di dân
có quyền gởi con đi học ở trường dạy tiếng Pháp. Nhiều thỏa thuận đã được ký
kết với nước Pháp. Québec đã tham gia vào hội nghị những nước nói tiếng
Pháp. Từ đó phát xinh ra nhiều mối xích mích giữa 2 chính quyền liên bang
và tỉnh bang. Người gốc Anh lo lắng về những thay đổi đang tiến hành trong
xã hội Québec và những yêu sách của họ. Năm 1963, Thủ tướng liên bang, ông
Lester B. Pearson đặt 1 câu hỏi nổi tiếng là: “What does Québec want?”
(Québec muốn gì?), ông thành lập 1 Ủy ban điều tra về sự nói 2 thứ tiếng
(bilinguisme) và văn hóa song trùng (biculturalisme) để trả lời cho câu hỏi
trên và cũng để đề xuất ra những biện pháp nhằm thỏa mãn những đòi hỏi của
người Québec. Trước những xích mích thường kỳ giữa chính phủ liên bang và
tỉnh bang, phòng trào dân tộc Québec biến thành phong trào độc lập. Đảng RN
(Ralliement National: tập hợp dân tộc) và đảng RIN (Rassemblement pour
l’Indépendance National : Tập hợp vì độc lập dân tộc) ra đời vào năm 1960.
Vào năm 1968, 2 đảng này kết hợp lại thành 1 đảng, đó là Đảng Québecois
(Parti Québécois), được lèo lái bởi René Lévesque. Những đảng
muốn độc lập chiếm được 8% số phiếu quần chúng vào năm 1966, chiếm 23% năm
1970 và 30% năm 1973, vào năm 1976 lần đầu tiên đảng Québecois nắm chính
quyền. Kết quả cho thấy sự lớn lên của hệ tư tưởng độc lập của Québec. Năm
1967, Tướng de Gaulle của Pháp đến Canada, đã cho ý tưởng về độc lập của
Québec qua sự tuyên bố “Vive le Québec libre” trước đám đông cuồng nhiệt tại
Montréal.
Từ năm 1970 đến năm 1976, Đảng Liberal nắm chính
quyền, trưởng đảng là Robert Bourassa, là 1 nhà kinh tế trẻ tuổi. Ông đẩy
mạnh đề án của thế kỷ (projet du siècle), xây nhiều đập thủy điện tại vịnh
James, sáng lập ra Bảo hiểm bệnh (Assurance maladie), CLSC (trung tâm phục
vụ cộng đồng tại các địa phương).
Vào mùa thu năm 1970, Phong trào cách mạng khủng bố
FLQ (Front de libération du Québec) bắt cóc 1 tùy viên thương mại của Anh và
ông Pierre Laporte, bộ trưởng Lao động của Québec. Ngày 17 tháng 10, người
ta tìm thấy xác của Laporte trong rương của 1 chiếc xe. Robert Bourassa phải
nhờ liên bang cử quân đội đến Québec, bắt bỏ tù 450 thành phần quá khích.
Năm 1972, Gần 210 000 lao động phát động 1 cuộc đình
công vô hạn định. Chính phủ bỏ phiếu thông qua 1 đạo luật để bắt họ trở lại
làm việc. Những người chỉ huy cuộc biểu tình bị bỏ tù.
Năm 1974, Nhằm ép buộc những người di dân mới gởi con
cái vào học trường hệ Pháp, chính phủ Bourassa đã thông qua đạo luật 22
(Loi 22), qua đó tiếng Pháp được quyết định là ngôn ngữ chính thức của
Québec. Tuy nhiên, những trẻ em có đủ hiểu biết tiếng Anh có quyền học
trường hệ Anh. Chính luật 22 này là nguyên nhân chủ yếu cho sự thất bại của
Bourassa năm 1976. Người gốc Anh coi rằng chính quyền ăn hiếp quyền cá nhân.
Người di dân cảm thấy như bị chia ra thành 2 loại.
Từ năm 1976 đến 1980, Lần đầu tiên, đảng Québécois của
René Lévesque lên nắm quyền với những lời hứa là sẽ thực hiện 1 cuộc trưng
cầu dân ý về chủ quyền hay kết hợp. Trước đó, René Lévesque bỏ đảng Libéral
Québec, ra thành lập Phong trào MSA (Mouvement souveraineté-association:
Phong trào chủ quyền-kết hợp), sau đó thành lập ra đảng Québecois (PQ), kết
hợp tất cả các lực lượng tranh đấu dành độc lập cho Québec. Bởi chiến thắng
của đảng Québecois này, Thủ tướng Pierre Elliott Trudeau phải thừa nhận tầm
quan trọng của phong trào chủ quyền của Québec. Ông đã thành lập ra Ban Đoàn
kết Canada, nhầm tìm ra phương cách củng cố sự đoàn kết trong Canada. Chính
phủ René Lévesque đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng như: Bảo hiểm xe
hơi, phát thuốc không cho người cao niên, nghỉ sanh đẻ, quyền lợi cho người
tàn tật, bảo vệ môi sinh, bảo vệ đất nông nghiệp.
Năm 1977, Đảng Québec thông qua 1 đạo luật Hiến chương
của tiếng Pháp (Charte de la langue francais), còn gọi là luật 101.
Tuyên bố tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức và duy nhất tại Québec. Đây là
một đạo luật mà hầu như tất cả mọi người dân sống trên Québec đều biết, vì
nó áp đặt trên tất cả lãnh vực của đời sống công cộng như: luật pháp, toà
án, giảng dạy, nơi làm việc, thương mại, niêm yết. Nhiều người gốc Anh đã
phản đối kịch liệt, cho rằng luật này không có tính hợp pháp, quyền tự do cá
nhân bị ức hiếp.
Năm 1980, René Lévesque phát động chiến dịch cho cuộc
trưng cầu dân ý về chủ quyền hay kết hợp. Thế nhưng, chiến dịch này đã không
thành công, kết thúc vào tối thứ ba ngày 20 tháng 5; với kết quả chống là
59, 56% (2 187 991 phiếu), ủng hộ chỉ có 40, 44% (1 485 851 phiếu), tỷ lệ
tham dự đi bầu là 85, 61%. Điều đáng chú ý là trước đó, ngày 7 tháng 4, tại
Forum Montréal (cầu trường đánh hockey) 14 000 phụ nữ phản đối lời tuyên bố
về phụ nữ của bộ trưởng Lise Payette, đặc trách về địa vị phụ nữ của chính
quyền René Lévesque và tuyên bố ủng hộ bên chống. 6 ngày trước bầu cử, Thủ
tướng liên bang, Pierre Trudeau cam kết sẽ sửa đổi hiến pháp nếu phe chống
thắng.
Năm 1981, Trong cuộc bầu cử quốc hội, mặc dù thất bại
trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1980, nhưng đảng Québecois vẫn còn được chọn
với số phiếu ủng hộ là 49, 26% (1 773 237 phiếu), đảng Tự do Québec được
(46, 7%) 1 658 753 phiếu, và đảng Union National mất hoàn toàn 11 ghế trong
quốc hội.
Ngày 17 tháng 4 năm 1982, Nữ hoàng Elisabeth 2 đến
Ottawa để hợp thức hóa thể chế của Canada. Luật lập pháp 1982 này chứa đựng
phần hoà giãi và bổ xung quyền lợi và quyền tự do của mọi người dân Canada.
Tất cả các đảng phái trong Québec đều không đồng ý vì nó không nói lên tính
chất đặc thù của Québec.
Ngày 2 tháng 12 năm 1985, đảng Tự do Québec (PLQ) do
Robert Bourassa cầm đầu đã thắng cử với số phiếu ủng hộ là 1 910 307 phiếu
(55, 99%). Đảng Québecois (PQ) có 1 320 008 phiếu (38, 69%), mất đi 57 ghế
(71, 3%) trong quốc hội (từ 80 ghế còn lại có 23 ghế). Cuộc bầu cử này cho
thấy sự trở lại của ông Robert Bourassa, vì trước đó ông đã bị thất bại
trong cuộc bỏ phiếu năm 1976 và đã từ chức trưởng đảng. Bản thân ông bị thất
cử tại vùng của ông, nhưng ông được bầu lại 1 tháng sau đó.
Năm 1987, Hiệp định Lac Meech được ký kết giữa
Thủ tướng liên bang, Brian Mulroney với 10 Thủ hiến tỉnh bang. Thừa nhận
Québec là 1 xã hội đặc thù (société distinte), đồng ý Québec được quyền phủ
quyết về lập pháp, tham dự vào Toà án tối cao, thừa nhận vai trò của Québec
trong vấn đề di dân. Do có nhiều phản đối của người gốc Anh về việc thừa
nhận xã hội đặc thù, năm 1990 tỉnh bang Terre-Neuve và Manitoba từ chối phê
chuẩn, làm cho hiệp định này trở nên vô hiệu. Sau đó, Bourassa tuyên bố 1 đề
nghị mới là hiến pháp có thể chấp nhận phải được làm tại Québec, nếu không
sẽ làm 1 cuộc trưng cầu dân ý về chủ quyến trước cuối tháng 10 năm 1992.
Trước sự hăm dọa như thế, chính phủ liêng bang tìm cách thuyết phục các tỉnh
bang khác trở lại bàn tròn, nhưng Bourassa không đồng ý tham dự mà chỉ muốn
đàm phán với chinh phủ liên bang mà thôi. Trong khi không có mặt của
Bourassa, câu hỏi “Xã hội đặc thù” không còn đề cập đến. Trong nỗ lực cuối
cùng để có được sự chấp nhận tối thiểu của Québec, Bourassa chấp nhận vào
họp chung. Ngày 26/8/1992 ông ký chung 1 Hiệp định Charlottetown.
Năm 1993, Tại cuộc bầu cử liên bang, đảng Bloc
Québecois chủ trương chủ quyền của Québec, do Lucien Bouchard lảnh đạo, đã
dành được đa số đại diện cho Québec (54/75), trở thành đảng đối lập trong
chính quyền liên bang.
Những năm sau đó, 2 đảng Québecois
(PQ) và Tự do (PLQ) thay phiên nắm chính quyền của tỉnh bang.
Năm
Đảng PQ Đảng (PLQ) Đảng (ADQ)
1985 23
ghế 99 ghế 0 ghế
1989 29
92 0
1994 77
47 0
1998 76 48
1
2003 45
76 4
2007 36 48
41
2008
36 66 7
Năm 1994, Tại cuộc bầu cử tỉnh bang, đảng Québecois
(PQ) do Jacques Parizeau lãnh đạo, đã dành lại được chính quyền từ tay đảng
Tự do, (77/47). Parizeau gởi bản thỏa thuận với đảng Bloc Québecois (của
liên bang) và đảng ADQ (của tỉnh bang) đến tận nhà dân chúng và kêu gọi 1
cuộc trương cầu dân ý vào ngày 30/10/1995. Thế nhưng, 50, 58% của 4, 7 triệu
cử tri không đồng ý. 49, 42% ủng hộ, cách nhau có 54 288 phiếu. Tỷ lệ đi bầu
là 93, 5%, cao nhất từ đó đến nay, có khoảng 43 855 di dân mới có quốc tịch.
So sánh với cuộc trưng cầu dân ý trước đây ta thấy:
Năm 1980 Năm 1995 Chênh lệch
Cử tri đăng ký : 4 367
134 5 087 009 + 719 875
Cử tri đã đi bầu : 3 738
854 4 757 509 + 1 018 655
Tỷ lệ đi bầu : 85,
6 % 93, 5 % + 7, 9 %
Đồng ý : 1 485
851 2 308 360 + 822 509
Chống : 2 187
991 2 362 648 + 174 657
Năm 1998, Do thất bại của cuộc trưng cầu dân ý năm
1995, Jacques Parizeau từ chức. Vì thế, Lucien Bouchard từ vị trí trưởng
đảng Bloc Québecois ở chính trường liên bang, quay về nắm chức lãnh tụ đảng
Québecois, ra tranh cử tỉnh bang lần thứ 36 kể từ khi vô liên bang Canada
năm 1867. Jean Charest cũng từ chức trưởng đảng Bảo thủ Tiến bộ của liên
bang về giữ chức lãnh tụ đảng Tự do tỉnh bang. Kết quả gần như đồng nhất với
cuộc bầu cử năm 1994. PQ: 76 ghế, PLQ : 48 ghế và ADQ chỉ vỏn vẹn 1 ghế. Mặc
dù PQ có nhiều đại biểu hơn PLQ nhưng tổng số phiếu ủng hộ cho PQ là 1 744
240 phiếu, ít hơn số phiếu ủng hộ PLQ là 1 771 858 phiếu, thua 27 618 phiếu.
Lucien Bouchard là 1 luật sư, đã từng tham gia trong 2
đảng Tự do và cả đảng Bảo thủ Tiến bộ, từng làm đại sứ Canada tại Pháp và đã
giữ chức Bộ trưởng Môi sinh dưới thời Brian Mulroney. Sau đó ông bỏ đảng Bảo
thủ Tiến bộ, ra thành lập đảng Bloc Québecois, là 1 đảng tranh đấu cho chủ
quyền Québec. Năm 1993, ông đã là trưởng đảng đối lập của chính quyền liên
bang. Ông có tài ăn nói nên rất được sự ủng hộ của người gốc Pháp. Ông có 1
ảnh hưởng lớn trên hướng đi của đảng Québecois. Nhưng vào ngày 8/5/2001, Ông
tuyên bố từ chức, rút chân ra khỏi đời sống chính trị, ông bày tỏ đã thất
bại trong việc khôi phục ngọn lửa chủ quyền nên nhận lấy trách nhiệm đó.
Theo kết quả thăm dò của báo Le Devoir, số ngày 6/5/2006 thì 50% dân chúng
ủng hộ ông trở lại chính trường.
Bầu cử 14/7/2003, Jean Charest tiếp tục lãnh đạo đảng
Tự do đã chiến thắng vẻ vang, đảng Québecois được giao cho Bernard Landry
thất bại nặng nề. Với kết qủa: -PLQ : 76 ghế (1 755 863 phiếu) –PQ : 45 ghế
(1 269 183 phiếu) –ADQ : 4 ghế (694 122phiếu).
Trong thời gian vận động bầu cử, Landry mang băng
trắng phản đối chiến tranh ở Iraq, khẩu hiệu của PQ là “Restons forts” (ở
lại vững chắc) mang tính ổn định. Trong cuộc tranh luận trên đài truyền
hình, Bernard Landry bị Jean Charest tấn công về câu nói của cựu thủ lĩnh
của ông, Jacques Parizeau, là : “Cuộc trưng cầu dân ý bị thất bại là do tiền
và phiếu bầu của nhóm sắc tộc”.
Năm 2005, Bernard Landry từ chức lãnh tụ đảng
Québecois và rời bỏ chính trị. André Boisclair thừa kế sau khi trải qua 1
cuộc chay đua tranh chức trưởng đảng, đã hạ được được đối thủ hạng nặng là
bà Pauline Marois. Nhưng André bị nhiều chỉ trích trong nội bộ về vai trò
lãnh đạo và sự phán đoán, ngoài ra còn bị báo chí phanh phui về việc sử dụng
cần sa trong thời gian làm bộ trưởng và bị mang tiếng là người đồng tính.
Qua cuộc bỏ phiếu ngày 26/3/2007, Jean Charest tiếp
tục thắng nhưng không đủ túc số để thành lập chính phủ đa số tuyệt đối. Đảng
Québecois do André Boisclair thất bại chua cay. Đảng ADQ do Mario Dumont
thắng lợi vẻ vang. Kết quả :- PLQ : 48 ghế (1 313 664 phiếu), –ADQ : 41 ghế
(1 224 412 phiếu), -PQ : 36 ghế (1 125 546 phiếu).
Chính quyền thiểu số lần đầu tiên được thành hình, gặp
nhiều chống đối của thành phần đa số của 2 đảng ADQ và PQ trong quốc hội.
Chính phủ Charest phải từ bỏ dự án tư nhân hóa Mont-Orford. Jean Charest đã
làm 1 kỳ tích đầy ấn tượng, đó là việc bổ nhiệm đồng đều phái nữ và phái nam
vô hôi đồng bộ trưởng. Ngày 8/2/2007, ông lập ra Ban Bouchard – Taylor để
hỏi ý kiến về việc thực hiện mối hòa giải nối liền các văn hóa khác nhau,
ban này được chủ trì bởi nhà triết học Charles Taylor và nhà xã hội học
Gérard Bouchard. Ngày 10/4/2007, ông cũng lập ra 1 ban Johnson để điều tra
sự sập cầu cạn (viaduc) trên đường Concorde ở Laval, gây ra 5 người chết.
Mặc dù kỳ hạn của nhiệm kỳ là năm 2012, nhưng vì mong
muốn có được đa số nghị sĩ trong quốc hội, lợi dụng nhược điểm của 2 đảng
đối lập. Ngày 5/11/2008, (1 ngày sau cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ) Thủ hiến
Jean Charest đã yêu cầu Thống đốc Pierre Duchesne giãi tán quốc hội, rồi sau
đó phát động 1 cuộc bầu cử vào ngày 8/12/08. Kết quả là đảng Tự do của Jean
Charest dành được đa số với 66 nghị sĩ, đảng PQ do bà Pauline Marois lãnh
đạo dành được 51 nghị sĩ nên trở thành đảng đối lập. Bà Pauline Marois là
người đàn bà đầu tiên làm trưởng đảng và cũng là người đàn bà đầu tiên tham
gia cuộc tranh luận trên đài truyền hình. Đảng ADQ do Mario Dumont cầm đầu
bị thất bại ê chề, từ 39 nghị sĩ rớt xuống còn 7 nghị sĩ. Đảng Québec
Solidaire (đoàn kết) do Amir Khadir cầm đầu và chỉ có ông ta được thắng cử
đầu tiên trong số 122 ứng cử viên.
Trong cuộc vận động tranh cử, đảng PLQ đã hứa: -Sẽ
tăng lương tối thiểu lên 9, 50$/giờ vào năm 2010 –Tăng đầu tư vào hạ tầng cơ
sở, yêu cầu Hydro Québec phát triển thêm nữa tiềm lực năng lượng. –Dành 2 tỷ
đô la giúp cho các xí nghiệp vay, bảo hiểm vay, tăng đầu tư. –Mở rộng hợp
tác với các tỉnh bang khác, với liên minh Âu châu và với Pháp.
Québec hiện nay là 1
tỉnh bang của Canada, có dân số hơn 7 triệu 750 ngàn (2008), là tỉnh bang
đông dân đứng hàng thứ nhì trong Canada, đứng hàng thứ nhất về diện tích.
Trên 80% dân số ở Québec (khoảng 6 triệu) có gốc Pháp và tiếng Pháp là tiếng
mẹ đẻ. Tuy nhiên, tại những thành phố lớn, hầu hết mọi người đều có thể nói
và hiểu tiếng Anh. Hàng năm, Québec thâu nhận khoảng 25 ngàn di dân, 10% của
tổng số di dân đến Canada. Do bởi lịch sử và văn hóa đặc thù của nó, Québec
chịu ảnh hưởng của cả 2 nguồn văn hóa Âu châu và Bắc Mỹ, người ta có thể tìm
thấy 2 di sản của đạo Thiên Chúa Giáo và đạo Tin Lành ở mọi nơi trong
Québec, đặc biệt là ở trong kiến trúc và nghệ thuật của nó. Vấn đề về vị trí
của Québec trong liên bang Canada vẫn còn nguyên đó. Nó ám ảnh người Canada
trong những năm kế tiếp.
* * *
Lịch sử của Québec
quả thật rất thú vị. Nó được lấy làm tham khảo cho 2 dân tộc, 2 quốc gia
hoặc 2 phái khác chính kiến muốn sống chung với nhau.
Người Canda gốc Anh, là kẻ chiến thắng, đã biết
nhường bộ, tôn trọng vị trí của người gốc Pháp, để chuộc nào 1 phần lỗi lầm
của mình trong việc cai trị và đối xử không phải đối với người gốc Pháp
trước đó.
Người Canada gốc Pháp, là kẻ bại trận, đã biết đoàn
kết để tạo ra sức mạnh chống lại sự ức hiếp của người gốc Anh. Họ không cố
chấp, họ cũng thừa hiểu rằng việc liên kết với nhau sẽ có lợi cho đôi bên.
Do đó, họ đã bỏ phiếu từ chối tách riêng ra khỏi khối Canada.
Là 1 người di dân đến sau, nhập gia tùy tục,
tôn trọng tính dân chủ, văn hóa, tôn giáo của người đến trước, tiếp thu
quyền tự do cá nhân, bình đẳng nam nữ, phát huy văn hóa của mình hòa chung
với xã hội đa văn hoá. Đó là điều mà mọi ngươi di dân mong muốn.
Montréal,
3/11/2009
Ngô khôn Trí
Tham khảo:
“Je me Souviens” Histoire du Québec et du Canada. Của Marcel Roy và
Dominic Roy. Nhà xuất bản ERPI
http://blog. frogmedias. com/je-me-souviens-la-devise-du-Quebec. html
http://vi. wikipedia. org/wiki/Qu%C3%A9bec
http://fr. wikipedia. org/wiki/Histoire_du_Qu%C3%A9bec
http://fr. wikipedia. org/wiki/Histoire_du_Canada
http://www. stat. gouv. qc.
ca/donstat/societe/demographie/struc_poplt/qc_1971-2008. htm
http://www. grandQuebec. com/systeme-politique-Quebec/declaration-immigrant/
http://vi. wikipedia. org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Canada
http://www. bonjourQuebec. com/qc-en/qcaujourdhui0. html
http://www. micc. gouv. qc. ca/fr/recherches-statistiques/stats-recensement.
html
http://fr. wikipedia. org/wiki/R%C3%A9f%C3%A9rendum_de_1980_au_Qu%C3%A9bec
|