Những bài cùng tác giả

Kể từ ngày CIA lật đổ chế độ dân cử ở Iran, do thủ
tuớng Mohammad Mossadeq lãnh đạo, và tái lập chính
quyền Shah Reza Pahlavi, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran
luôn là một bí ẩn. Phần lớn những vấn đề hiện nay
của thế giới và Hoa Kỳ ở Trung Đông và Trung Á đều
phát xuất từ động thái kiêu căng mang tính đế quốc
vừa nói . Trong suốt 26 năm triều đại Shah
(1953-1979), Iran luôn được các Tổng Thống Hoa Kỳ
xem không những như một cường quốc đang lên cấp khu
vực mà còn là một tiền đồn của Mỹ . Với sự hỗ trợ
của Hoa Kỳ , Shah Palahvi tăng cường quân lực và đội
ngủ cảnh sát ngầm đáng kinh ngại.
Trong khuôn khổ chương trình "Nguyên tử cho Hòa
Bình"(Atoms for Peace) của T T Dwight
Eisenhower, Iran khởi đầu bước vào con đường nguyên
tử -- một quá trình mà hiện nay Hoa Kỳ đang lớn
tiếng lên án, mặc dù nguyên tư lệnh Centcom John
Abizaid trước đây đã cho rằng một Iran với bom
nguyên tử không có nghĩa nhân loại đang tiến gần đến
ngày tận thế . Tuớng Abizaid nói "Có nhiều cách
để chung sống với một Iran có bom nguyên tử... Phải
thực tế , chúng ta đã từng chung sống với một Liên
Bang Xô Viết nguyên tử , chúng ta đã chung sống với
một Trung Quốc nguyên tử , và chúng ta cũng đang
chung sống với nhiều cường quốc nguyên tử khác"[1].
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, Tòa Bạch Ốc đã ngấm
ngầm chấp thuận một số hoạt động bí mật gây bất ổn,
và rõ ràng đã hậu thuẫn những vụ tập kích khủng bố
cở nhỏ, bên trong Iran; trong khi ảnh hưởng của Iran
đối với cộng đồng Shiite Iraq luôn sâu đậm. Cùng
lúc, cuộc khẩu chiến tiếp tục leo thang. T T Bush,
trong diễn từ tiếp theo sau cuộc điều trần của tuớng
Petraeus ngày 13-9-2007, đã chỉ trích Iran với những
lới lẽ hằn học. Đồng thời, chiến dịch lên án các
hoạt động của Iran và đội Vệ Binh Cách Mạng của xứ
nầy ở Iraq tiếp tục gia tăng cường độ, bên cạnh tin
tức Ngũ giác Đãi đang xây thêm một căn cứ mới ở
Iraq, sát ngay biên giới Iran. Vấn đề Iran tiếp tục
làm giàu uranium vẫn luôn sôi bỏng.
Nhiều tin tức- úp mở nhưng đều đặn- cho biết văn
phòng Phó T T Cheney đang ra sức thúc đẩy một "chiến
dịch không kích gây sốc và kinh hoàng" (a
shock-and-awe air campaign) chống lại Iran.
Ngược lại, Iran cũng đã nhiều lần "ăn miếng trả
miếng". Tuớng Mohammed Hassan Koussechi, một tư
lệnh
Vệ Binh Cách Mạng cao cấp, đã đe dọa trả đũa bất cứ
hành động gây hấn nào của Hoa Kỳ vào Iran bằng các
hỏa tiễn có tầm xa trên 1.200 dặm, nhằm những mục
tiêu của Hoa Kỳ và Tây Phương ở Trung Đông, kể cả
những căn cứ quân sự khổng lồ của Ngũ giác Đài phân
tán trên khắp lãnh thổ Iraq. Koussechi nói:"Ngày
nay người Mỹ đang có mặt chung quanh xứ sở chúng ta,
nhưng điều đó không có nghĩa họ đang bao vây chúng
ta. Chính họ đang bị bao vây và đang ở trong tầm đạn
của chúng ta"[2].
Trong khi hàng không mẩu hạm và tàu chiến Hoa Kỳ
thường xuyên ra vào Vịnh Ba Tư, một cuộc không kích
thầm kín của Do Thái vào một địa điểm bên trong sa
mạc Syria, phối hợp với một câu chuyện nguyên tử kỳ
quặc và khó tin dính líu đến người Bắc Hàn, đã làm
cho tình hình thêm phần huyền hoặc. Theo báo Haaretz
của Do Thái, John Bolton, nguyên đại sứ Hoa Kỳ bên
cạnh Liên Hiệp Quốc, đã cho rằng cuộc không tập của
Do Thái phải được hiểu như "một thông điệp rõ
ràng cho Iran ...là những nỗ lực liên tục nhằm thủ
đắc vũ khí nguyên tử của Iran sẽ không tránh khỏi
phản ứng đối nghịch tương ứng"[3].
TT Bush đã nhiều lần nói rõ là sẽ không để cho
người kế nhiệm phải giải quyết vấn đề nguyên tử
Iran. Ngay cả Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates, một
người hiểu rõ những hiểm tai của một cuộc tấn công
vào Iran, vẫn tiếp tục duy trì lập trường: đối với
Iran, "mọi sự lựa chọn đều rộng mở"(all options
are on the table). Trong bối cảnh đó, từ nay cho
đến tháng 01- 2009, quan hệ Hoa Kỳ-Iran, như đang
dàn trải trên địa bàn Iraq, sẽ là một đấu trường thử
thách mang tính tai họa toàn cầu.
1.Chiến Tranh Iraq và Hai Khối Hồi Giáo Shiite và
Sunny:
Trong nỗ lực củng cố hậu thuẫn cho cuộc chiến Iraq,
ngày 28-8-2007, T T Bush đã đến Reno, Bang Nevada,
để nói chuyện trước đại hội thường niên của Hiệp Hội
Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ. Ông nhấn mạnh đến hiểm họa
Iran nếu Hoa Kỳ rút khỏi Iraq. Bush nói: "Đối với
những ai đang nghi ngờ tính chính đáng của cuộc
chiến Iraq, cứ thử tưởng tượng phần lớn xứ Iraq nằm
trong vòng kiểm soát của các nhóm dân quân được Iran
yểm trợ"[4].
Cùng ngày, ở thành phố Karbala, miền Nam Iraq, Đội
Quân Mahdi, nhóm dân quân trung thành với giáo sĩ
Shiite cực đoan Moqtada al-Sadr, đã đụng độ với lực
lượng an ninh của chính phủ chung quanh ngôi đền
Imam Hussein, một trong những noi thiêng liêng nhất
của Hồi giáo dòng Shiite. Trong số một triệu người
hành hương hiện diện, 51 người đã thiệt mạng.
Người Mỹ không trực tiếp can thiệp. Nhưng phản lực
cơ chiến đấu của Hoa Kỳ bay lượn trên không để hỗ
trợ cho lực lượng an ninh của chính phủ. Trong thực
tế, lực lượng an ninh trong phần lớn miền Nam Iraq
đều bị khống chế bởi Tổ Chức Badr, một tổ chức dân
quân được xây dựng, huấn luyện, trang bị, và tài trợ
bởi Iran. Khi quân đội Mỹ hất chân chế độ Saddam ra
khỏi miền Nam vào đầu tháng 4-2003, Tổ Chức Badr từ
Iran đã xâm nhập điền vào chỗ trống do Chính quyền
Bush thiếu kế hoạch vản hồi an ninh và quản trị Iraq
trong giai đoạn chiếm đóng.
Trong những tháng tiếp theo, Chính Quyền Liên
Hiệp Lâm Thời do Hoa Kỳ tạo dựng và điều hành
(US-run Coalition Provisional Authority -- CPA)
đã chỉ định các lãnh tụ của Tổ Chức Sadr vào các địa
vị then chốt trong quân đội và cảnh sát Iraq, cũng
do chính người Mỹ dựng lên. Cùng lúc, duới sự chỉ
huy của Toàn Quyền L. Paul Bremer, CPA cũng bổ nhiệm
các quan chức trong Hội Đồng Tối Cao Cách Mạng
Hồi Giáo Iraq (Supreme Council for Islamic
Revolution in Iraq -- SCIRI) vào các chức vụ
thống đốc trong các hội đồng thống đốc trên toàn bộ
miền Nam Iraq. SCIRI, sau đó đổi tên thành Hội
Đồng Hồi Giáo Iraq Tối Cao (Supreme Islamic Iraqi
Council -- CIIC), cũng được thiết lập theo chỉ
thị của lãnh tụ Hồi giáo Tối cao Ayatollah Khomeini
ở Tehran năm 1982. Tổ Chức Badr là nhóm dân quân
liên kết với SCIRI.
Trong những cuộc bầu cử tháng 1-2005, SCIRI đã trở
thành một bộ phận quan trọng trong liên hiệp Shiite
cầm quyền. Thay vì nắm giữ chức vụ Thủ Tuớng, SCIRI
đổi lấy quyền chỉ định những bộ trưởng then chốt, kể
cả bộ nội vụ. Nhờ đó, SCIRI đã có cơ hội sắp xếp các
thành viên dân quân vào guồng máy cảnh sát quốc gia.
Nói một cách khác, ngay từ đầu, George W. Bush vô
hình chung đã dọn đường cho chính điều ông luôn cảnh
cáo là hậu quả nghiêm trọng nếu Hoa Kỳ rút khỏi
Iraq: sự kiểm soát phần lớn Iraq bởi phe dân quân
được Iran yểm trợ. Trong khi Bush luôn khoa trương
một Iraq hứa hẹn dân chủ ngược hẵn với một Iran
chuyên quyền, trong thực tế thế giới nhận thấy hiện
nay có nhiều tự do cá nhân ở Iran hơn là miền Nam
Iraq.
Ảnh hưởng của Iran trong sinh hoạt chính trị Iraq
rất sâu rộng và tế nhị. Năm 2005, đại sứ Mỹ đã quyết
liệt dấn thân vào quá trình soạn thảo hiến pháp.
Trong khi đó, bên sau hậu trường, đại sứ Iran đã can
thiệp hữu hiệu vào việc loại bỏ những điều khoản bất
lợi theo quan điểm Iran. Rút cuộc, cả người Mỹ lẫn
người Iran đều muốn củng cố chính quyền trung ương
Iraq. Trong lúc Hoa Thịnh Đốn bám víu lấy ảo ảnh một
dân tộc Iraq duy nhất , Tehran chỉ nỗ lực đem lại
cho phe Shiite thân Iran - lúc đó đã nắm trọn chính
quyền Iraq - càng nhiều quyền lực càng tốt. Tuy
nhiên, do sự kiên trì chống đối của người Kurdish ở
phía Bắc Iraq, Hoa Kỳ cũng như Iran đều không đạt
được mục đích.
Từ năm 2005, chính quyền Iraq do phe Shiite lãnh đạo
đã đạt được nhiều thỏa ước kinh tế, chính trị, quân
sự với Iran. Thỏa ước quan trọng nhất đã liên kết
trữ lượng dầu khí mang tính chiến lược giữa hai xứ
với sự lắp đặt đường ống dẫn dầu từ miền Nam Iraq
đến Iran; Iran cam kết chi viện quân sự rộng rãi cho
chính quyền Iraq là một thỏa ước quan trọng khác.
Theo một viên chức cao cấp trong Bộ Dầu Khí Iraq,
mỗi ngày vào khoảng 150.000 thùng dầu - gần 10% số
sản xuất - đã được xuất khẩu lậu qua ngả Iran. Riêng
về cam kết chi viện quân sự, Iran chưa thấy cần
thiết phải xuất tài nguyên riêng đầu tư vì đã có Hoa
Thịnh Đốn hiện đang cung cấp 160.000 quân và hàng
trăm tỉ mỹ kim để hỗ trợ chính phủ Iraq thân Iran.
Cuộc chiến Iraq đã đem lại nhiều hậu quả bất ngờ.
Thắng lợi chiến lược của Iran là hậu quả sâu rộng
nhất. Khi ấn định ranh giới giữa Đế quốc Ottoman và
Đế quốc Ba Tư năm 1639, Hiệp Định Qasr-i-Shirin đã
phân ranh hai vùng lãnh thổ trong vòng ảnh hưởng
dòng Sunni và dòng Shiite. Với cuộc chiến tàn khốc
trong thập kỷ 1980s, Iran đã tìm cách xóa bỏ đường
ranh vừa nói, nhưng không thành công. Vào thời điểm
đó, chính quyền Reagan hậu thuẫn Saddam Hussein chỉ
vì e ngại những hậu quả chiến lược bất lợi của một
Iraq khống chế bởi Iran và đồng minh. Cuộc tiến
chiếm Iraq năm 2003 đã giúp lãnh tụ Hồi giáo
Khomeini hoàn thành điều mà quân đội của ông đã
không làm được. Ngày nay, khu vực ảnh hưởng của dòng
Shiite đã mở rộng tới tận biên giới Kuwait và Saudi
Arabia. Bahrain, một vương quốc vùng Vịnh Ba Tư với
người Shiite chiếm đa số và một quốc vương người
Sunni, bị ảnh hưởng nhiều hơn hết; Tỉnh Phía Đông
(Eastern Province) của Saudi Arabia, quê hương của
đa số người Shiite trong vương quốc, cũng vậy. Rất
có thể người Shiite chiếm đa số ngay cả ở Tỉnh nầy,
một điều không ai biết chắc vì Saudi Arabia đã không
dám thực hiện một cuộc kiểm tra dân số. Hải quân Hoa
Kỳ có một căn cứ quan trọng nhất vùng Vịnh Ba Tư ở
Bahrain và hầu hết trữ lượng dầu hỏa của Saudi
Arabia nằm bên trong địa giới của Tỉnh Phía Đông.
Với sự kiện Hoa Kỳ sa lầy ở Iraq, Bashir Assad, đồng
minh Syria của Iran, cũng đã được vực dậy. Năm 2003,
chế độ Baathist ở Syria hiện diện như một thực thể
lỗi thời trước những đổi thay kinh tế chính trị
trong khu vực. Ngày nay, Assad chẳng những nắm vững
tình hình, mà đã phục hồi được cả danh dự sau việc
nhúng tay vào vụ ám sát Rafik Hariri, nguyên thủ
tuớng Lebanon. Bên trong Lebanon, lực lượng
Hezbollah đã lên uy tín sau khi chận đứng được
Israel trong cuộc chiến 2006. Iran, qua sự bảo trợ
và cung cấp vũ khí cho Hezbollah, ngày nay đã giành
được uy tín trong hai vụ xung đột Levant (Đông Địa
Trung Hải) và Arập-Do Thái, uy tín trước đó Iran
chưa hề có.
Tầm cỡ sai lầm trong toan tính của Hoa Thịnh Đốn
thật sự vô cùng lớn lao. Trước khi cuộc chiến Iraq
bắt đầu, nhóm làm chính sách phái Tân Bảo Thủ lập
luận, đem lại quyền lực cho dòng Shiite ở Iraq sẽ
làm suy yếu Iran, vì hệ phái Shiite Iraq - như lời
Paul Wolfowitz, thứ trưởng quốc phòng lúc đó- kiểm
soát cả hai thành phố Shiite thiêng liêng nhất, sẽ
trở thành "nguồn quyền lực độc lập của giáo phái
Shia trong một quốc gia dân chủ và thân Tây phương".
Xa hơn nữa, họ lập luận, Iran không bao giờ có
thể khống chế Iraq, bởi lẽ người Shiite Iraq có
gốc Arập trong khi người Shiite Iran có nguồn gốc Ba
Tư. Không may, lý thuyết đó đa không
có căn bản thực tế.
Quan hệ thân tình giữa người Shiite Iran và Iraq còn
đi xa hơn là sự hỗ trợ Iran dành cho các lãnh tụ
Shiite ở Iraq trong cuộc đối đầu với Saddam Hussein.
Nhiều thập kỷ đan áp đã khiến bản sắc tôn giáo trở
nên quan trọng đối với người Shiite Iraq hơn cả bản
sắc chủng tộc Arập của họ. (Vả chăng, tổ tiên nhiều
người Shiite Iraq cũng đã đến từ Thổ Nhỉ Kỳ, Ba Tư,
Kurdistan). Trong khi người Sunni tự nhận có gốc
Arập, người Shiite Iraq lại tìm bản sắc của mình
trong thế giới Shiite, nhất là Iran.
Cũng cần nhắc lại di sản không mấy tốt đẹp
15-2-1991, khi T T George H.W. Bush công khai khuyến
khích dân chúng Iraq nổi dậy lật đổ Saddam Hussein.
Hai tuần lễ sau, người Shiite Nam Iraq đã nghe theo
lời kêu gọi đó. Khi Saddam gửi lính Phòng Vệ Cộng
Hòa xuống phía Nam dẹp cuộc nổi loạn, T T G.H.W.
Bush lại mãi đi câu chẳng màng quan tâm giúp đỡ.
Riêng Iran đã bày tỏ cảm thông. Hàng trăm nghìn
người đã phải bỏ mạng và không một ai trong cộng
đồng Shiite có thể nghi thái độ của T T Bush là
không có chủ tâm. Khi lượng định lòng trung thành
của người Shiite Iraq trước cuộc chiến, những người
làm chính sách thường nhấn mạnh quân đội Iraq đã
từng chiến đấu kiên cường vì Iraq trong cuộc chiến
Iran-Iraq trước đây. Nhưng họ không bao giờ nhắc đến
sự phản bội 1991. Điều nầy cũng dễ hiểu: vào lúc
cuộc chiến 1991 chấm dứt, Wolfowitz là người số 3
trong Ngũ giác Đai, Dick Cheney là Bộ Trưởng Quốc
Phòng, và Bush "cha" là Tổng Thống.
Iran và phe đồng minh ở Iraq kiểm soát một số trữ
lượng dầu lớn thứ ba và thứ hai ở Trung Đông. Ảnh
hưởng của Iran hiện nay đã mở rộng đến tận biên giới
của Tỉnh Saudi Phía Đông với trữ lượng dầu lớn nhất
thế giới. Giờ đây, T T G.W.Bush lại phải đối phó với
những đổi thay chiến lược do chính sách của chính
ông đem lại, bằng cách hỗ trợ một chính quyền thân
Iran ở Baghdad và trang bị và huấn luyện những thành
phần thân Iran nhất trong quân đội và cảnh sát Iraq.
2. Chiến Tranh Iraq và Quan Hệ Mỹ-Iran:
Khởi đầu với phúc trình Tình Trạng Liên Bang năm
2002, TT Bush đã đua ra hai mục tiêu chính ở Iran::
(1). Thay thế chế độ thần quyền bằng một chế
độ dân chủ tự do;
(2). Ngăn ngừa Iran thủ đắc
vũ khí nguyên tử.
Khi cuộc chiến Iraq gặp nhiều sự cố không thuận lợi,
Bush thêm vào mục tiêu thứ ba: phải
giành được sự hợp tác của Iran ở Iraq.
Ở đây thành tích của chính quyền Bush không mấy khả
quan.
Viễn tượng một nền dân chủ tự do ở Iran gần như tiêu
tan khi Tổng Thống có khuynh huớng cãi cách Mohammad
Khatami được thay thế bởi Mahmoud Ahmadinejad, một
nhà lãnh đạo quyết đoán, không nhân nhượng, và ít
nhiều bất định vào tháng 8-2005. Trước đó, Khatami
đã hai lần đắc cử vẽ vang với một chương trình hành
động ôn hòa nhằm làm dịu bớt giọng điệu giới lãnh
đạo thần quyền; nhưng, vì sự chống đối của giới giáo
si bảo thủ, chẳng ghi được thành tích nào đáng kể.
Vào thời điểm T T Bush lần đầu tiên tuyên bố quyết
tâm không để vũ khí nguyên tử lọt vào tay Iran, Iran
không có phương tiện chế biến vật liệu nguyên tử.
Tuy nhiên, sau đó, Iran- làm ngo trước mọi chống
đối từ Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế (IAEA) và Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc (UNSC)- đã lắp ráp và sử dụng
các máy ly tâm để làm giàu uranium. Bên trong Iraq,
chính quyền Bush tố cáo Iran cung cấp bom mìn cài vệ
đường với sức công phá cực mạnh cho dân quân Shiite
và kháng chiến quân Sunni.
Nhằm cưỡng ép Iran ngung chương trình làm giàu
uranium, chính quyền Bush đã dùng nhiều phương cách:
chế tài của Liên Hiệp Quốc (LHQ), các thương thuyết
gia Âu châu, và những lời cảnh báo răn đe của chính
Tổng Thống Hoa Kỳ. Cuộc chiến sai lầm ở Iraq đã vô
hiệu hóa tất cả các phương cách vừa kể.
Sau khi chứng kiến Hoa Kỳ xác quyết trước LHQ về
những bằng chứng "không thể chối cãi" là Iraq sở hữu
vũ khí hóa sinh, và một chương trình nguyên tử bí
mật, chính quyền các nước ngoài và quần chúng trên
thế giới không còn tin vào tính xác thực của những
lời tuyên bố về Iran của chính quyền Bush. Kinh
nghiệm Iraq đã khiến nhiều quốc gia ngần ngại trong
việc ủng hộ các biện pháp chế tài thực sự hữu hiệu
không những vì nghi ngờ tính xác thực trong những
lời tuyên bố của chính quyền Hoa Kỳ, mà còn e ngại T
T Bush sẽ giải thích bất cứ nghị quyết nào của UNSC
lên án Iran như một sự cho phép khai chiến.
Với một số lớn lực lượng quân sự bị buộc chân ở
Iraq, người Iran tin Hoa Kỳ không còn đủ tài nguyên
để tấn công Iran và đối phó với hậu quả sau đó. Họ
cũng tin một cuộc tấn công Iran của Mỹ sẽ được rất
ít người Mỹ ủng hộ, khó thể được Quốc Hội Mỹ cho
phép, và chẳng được một ai trên thế giới đồng tình.
Ngay cả người Anh có lẽ cũng không tán đồng một cuộc
tấn công quân sự vào Iran. Những lời cảnh cáo răn đe
của T T Bush cũng chẳng có mấy tác dụng đối với
Tehran vì từ lâu những lời lẽ đanh thép của ông đã
không hề được minh chứng qua hành động. Chừng nào
người Iran còn tin Hoa Kỳ không có sự lựa chọn quân
sự, họ sẽ không có lý do gì để thỏa hiệp, nhất là
với người Âu châu.
Những nỗ lực thay đổi chế độ ở Iran của chính quyễn
Bush chẳng có chút giá trị nào. Lời rao giảng tự do
của T T Bush chỉ được hỗ trợ bởi Radio Farda, một đãi phát thanh tiếng
Ba Tư được Mỹ bảo trợ, và một
ngân khoản 75 triệu USD dành tài trợ các hoạt động
chống đối Iran kể cả phát hình qua vệ tinh do các
phần tử sống luu vong ở Los Angeles. ước gì thay đổi
chế độ cũng dễ dàng như thế!
Danh tánh những người Iran nhận tiền của Mỹ di nhiên
được giữ kín; nhưng các đồng minh tân bảo thủ của
chính quyền Bush đã lớn tiếng cổ súy Hoa Kỳ cần yểm
trợ quân sự và tài chánh cho những nhóm Iran chống
đối, như con trai của Shah Reza Pahlavi, những người
Kurdish-gốc-Iran ly khai, và Mujahideen-e-Khalq
(MEK) - những nhóm có tên trong danh sách những tổ
chức khủng bố của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Một vài
người sống luu vong ở Los Angeles, hiện đang được
trợ cấp từ ngân khoản 75 triệu USD, hợp tác với con
trai của Shah Reza Pahlavi; nhưng hình như MEK và
nhóm người Kurdish ly khai thì không. Động thái bí
mật của Hoa Kỳ khiến Iran nghi là người Mỹ đang yểm
trợ các nhóm nầy qua chương trình dân chủ hoặc các
hành động bí mật riêng rẻ khác.
Các nhóm trên chẳng lợi ích gì cho kế hoạch thay đổi
chế độ. Con trai của Shah Pahlavi chỉ đại diện cho
một vương quyền thối nát chẳng còn được ai tin.
Người Kurdish gốc Iran gồm toàn những thành phần bất
mãn, chống đối, đã nhiều lần bị lực lượng an ninh
Iran khống chế. Chủ nghĩa quốc gia Kurdish ngoại vi
của Iran không làm suy yếu chế độ Iran ở trung ương.
Trong khi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã xếp phiến quân
Kurdish ở Turkey (PKK) vào danh sách các tổ chức
khủng bố, Pejak - nhánh PKK ở Iran - lại không có
tên trong danh sách, và thậm chí lãnh tụ của nhánh
nầy còn được phép viếng thăm Mỹ quốc.
MEK là một trong những nhóm chống đối Iran mạnh mẽ
và bền lâu nhất. Sau thời gian ban đầu ủng hộ cuộc
cách mạng Iran, MEK đã ly khai với Khomeini và quyết
định di dời qua căn cứ Ashraf vùng đông bắc Baghdad,
Iraq, khi cuộc chiến Iran-Iraq mới khởi đầu. Hợp tác
chặt chẻ với Saddam, MEK không những hỗ trợ Iraq
trong cuộc chiến Iran-Iraq, mà còn giúp Saddam dẹp
cuộc nổi dậy của người Kurdish năm 1991. Mặc dầu tự
xem là dân chủ và thân Tây phương, MEK trong thực tế
hành động như một giáo phái cực đoan (cult) sùng bái
hai lãnh tụ Massoud và Maryam Rajavi. Để làm nổi bật
sự khác biệt với các lãnh tụ thần quyền ở Tehran,
MEK chỉ định một phụ nữ làm tư lệnh căn cứ Ashraf và
duy trì một tiểu đoàn thiết giáp gồm toàn nữ quân
nhân. Vị tư lệnh rỏ ràng chẳng chỉ huy được ai, và
các thợ máy phụ nữ có nhiệm vụ bảo quản đầu máy xe
tăng luôn bận đồng phục sạch sẻ tiêm tất.
Cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lẫn Iran đều xem MEK như một
nhóm khủng bố. Tuy nhiên, trong thực tế, chính quyền
Mỹ lại hành động trái ngược. Trong cuộc tiến chiếm
Iraq năm 2003, quân đội Hoa Kỳ có ném một quả bom
duy nhất xuống căn cứ Ashraf. Doanh trại nữ quân
nhân bị trúng bom nhưng vào một thời điểm chẳng có
quân nhân nào hiện diện trong trại. Về sau, quân xa
Mỹ ra vào căn cứ Ashraf nhưng chẳng bắt giữ một ai
và cũng chẳng ngăn cản MEK thu lượm vũ khí của Iraq.
Đã hẵn, Iran cũng biết rõ điều nầy vì sau khi Saddam
bị lật đổ, tai mắt của họ cũng có mặt ở đây. Do đó,
người Iran tin người Mỹ đang hỗ trợ nhóm khủng bố
nầy để gieo rắc bạo loạn bên trong Iran.
Trong thực tế, chận đứng chương trình nguyên tử và
thay đổi chế độ ở Iran là hai mục tiêu trái ngược.
Iran khó thể chấp nhận một giải pháp thương thảo với
Hoa Kỳ hay Âu châu trong khi Hoa Thịnh Đốn luôn tìm
cách lật đổ chính quyền của họ. Một cuộc không tập
có thể phá hủy các cơ sở nguyên tử nhưng lại giúp
cho chính quyền Iran dễ dàng củng cố hậu thuẫn trong
quần chúng Iran và đan áp các thành phần chống đối.
Từ gốc độ chiến lược an ninh quốc gia Hoa Kỳ, sự lựa
chọn khá dễ dàng. Các nhà hoạt động dân chủ tiếng
tăm ở Iran đã nhiều lần tuyên bố rõ ràng là họ không
cần đến sự hỗ trợ của Mỹ. Trong một thư ngõ gần đây
gửi Tổng thư Ký LHQ Ban Ki-moon, nhà bất đồng chính
kiến Akbar Ganji đã đồng thời chỉ trích chế độ Iran
lẫn sự giả dối của Mỹ. Ông viết: "Chẳng những
không giúp ích gì cho sự phát huy dân chủ, chính
sách của Hoa Kỳ trong hơn 50 năm qua luôn di hại cho
những ai hoạt động cho tự do dân chủ ở Iran...Về
phía Mỹ, chính quyền Bush- khi lập quỹ trợ giúp dân
chủ ở Iran, thực ra, chỉ để chi tiền cho các định
chế công và các nhóm truyền thông liên kết với chính
quyền Mỹ- đã làm dễ dàng cho chế độ Iran lên án
những thành phần chống đối như những kẻ đánh giặc
thưê cho Mỹ, và ngang nhiên đan áp họ không một chút
e dè bị trừng phạt"[5].
Mặc dù không thành công, chính quyền Bush vẫn không
chịu từ bỏ mục tiêu thay đổi chế độ. Những người cổ
súy mục tiêu nầy so sánh nỗ lực của họ với sự hỗ trợ
Hoa Kỳ đã dành cho các nhà hoạt động dân chủ bên sau
bức màn sắt mấy thập kỷ trước. Nhưng ở đây có một sự
khác biệt căn bản .Các thành phần bất đồng quan điểm
trong khối Xô Viết và Đông Âu muốn tìm kiếm sự hỗ
trợ của Hoa Kỳ, đôi khi phương hại cho cá nhân của
họ, nhưng họ vẫn đón nhận vì lý do chính trị. Điều
đó không hề khiến các người làm chính sách trong
chính quyền Bush quan tâm. Họ luôn theo đuổi những
chính sách đem lại cho họ khoái cảm thay vì những
chính sách đem lại kết quả tốt. Nếu muốn hỗ trợ phe
đối lập Iran, Quốc Hội nên cắt bỏ quỹ yểm trợ các
chương trình dân chủ ở Iran.
Hiện nay, Hoa Kỳ đang ở trong vị thế quá tệ hại. Hoa
Kỳ vừa bị đồng hóa với những thành phần xấu xa trong
phe chống đối ở Iran, mặt khác bị tránh né bởi những
phần tử chủ trương cãi cách có uy tín đối với quần
chúng Iran. Nhiều người Iran tin người Mỹ đang gây
rối trong xứ sở của họ, và điều đó khiến họ có thêm
lý do để tấn công quân đội Hoa Kỳ ở Iraq. Và Hoa Kỳ
chịu nhiều thiệt hại mà chẳng được lợi ích gì.
3. Hoa Kỳ và Chương Trình Nguyên Tử Iran:
Trong vòng 18 năm qua, Iran đã theo đuổi một chương
trình bí mật nhằm thủ đắc kỹ thuật chế tạo vũ khí
nguyên tử. A.Q. Khan, người đứng đầu chương trình
nguyên tử Pakistan, đã cung cấp máy ly tâm để làm
giàu uranium và thiết kế bom. Khi mạng luới Khan bị
tiết lộ, Iran đã phải phúc trình chương trình làm
giàu uranium cho IAEA vào tháng 10-2003, báo cáo chi
tiết các hoạt động nguyên tử, và đồng ý đinh chỉ
chương trình. Sau khi Ahmadinejad đắc cử Tổng Thống
năm 2005, Iran loan báo sẽ tái tục các hoạt động làm
giàu uranium. Trong hai năm qua, Iran đã lắp ráp một
chuổi máy ly tâm và hình như đã làm giàu một số
lượng nhỏ uranium lên mức 5 phần trăm, cần thiết cho
một vài loại lò phản ứng năng lượng nguyên tử (vũ
khí đoi hỏi phải làm giàu uranium đến mức 80 đến
90%, nhưng điều nầy về mặt kỹ thuật không khó một
khi đã nắm vững tiến trình chế biến sơ khởi).
Hoa Kỳ có hai cách đối phó với các cơ sở nguyên tử
của Iran: hoặc không kích để phá hủy hoặc thương
thảo để trung hòa hóa các cơ sở nầy. Giải pháp thứ
nhất đầy bất trắc và giải pháp thứ hai có thể không
đem lại kết quả. Cho đến nay, chính quyền Bush chẳng
theo giải pháp nào, chỉ trông chờ ở các biện pháp
chế tài của LHQ (cho đến nay chỉ mang tính tượng
trung hơn là trừng phạt) và các cuộc thương thảo của
Âu châu. Nhưng cả hai đều vô hiệu. Chừng nào Hoa Kỳ
còn là mối lo chính của Iran, con đường thương nghị
của Âu châu khó lòng đạt được thỏa hiệp.
Một chiến dịch không tập liên tục có thể chận đứng
chương trình nguyên tử Iran. Trong khi một vài cơ sở
có thể được dấu kín, và một số khác được bảo toàn
sâu duới lòng đất, người ta đã biết rõ vị trí những
cơ sở lớn. Ngay cả khi không thể phá hủy toàn bộ các
cơ sở , các khoa học gia, kỹ thuật gia, kỹ su, nhân
viên Iran, khó thể tiếp tục đến làm việc ở các cơ sở
mục tiêu của các cuộc không kích.
Tuy nhiên, chiến dịch không tập sẽ gặp nhiều bất
trắc khó tiên liệu. Nhiều mục tiêu nằm trong những
khu đông dân cu, đe dọa sinh mạng dân thường không
những với bom roi sai mục tiêu mà còn với các vật
liệu phóng xạ tung tóe ra bên ngoài. Di nhiên, công
luận thế giới sẽ lên án, nhất là phản ứng chống Mỹ
trong thế giới Hồi giáo thật khó lường. Để trả đủa,
Iran có thể ngung xuất khẩu dầu khí, và hành động
quân sự nhằm đóng cửa những tuyến đường chuyên chở
dầu trong Vịnh Ba Tư.
Bất trắc lớn nhất đối với Hoa Kỳ là ở Iraq. Nếu phải
lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Iran, rất có thể chính quyền
Iraq sẽ không đứng về phía Mỹ. Ngay cả trong trường
hợp chính phủ Iraq không công khai hợp tác với Iran,
các thành phần thân Iran trong quân đội và cảnh sát
(do Hoa Kỳ trang bị) hầu như chắc chắn sẽ giúp phe
dân quân Iraq thân Iran hay lực lượng quân sự Iran
thâm nhập qua nhiều kẻ hở dọc theo biên giới, dễ
dàng tấn công quân Mỹ. Ngay sau bài nói chuyện của
Bush ngày 28-8-2007, Rahim Yahya Safavi, một tuớng
lãnh Iran, đã nhấn mạnh khả năng trả đủa của Iran
khi nói về quân đội Mỹ trong vùng: "Chúng tôi
đã
định vị đúng đắn các noi đóng quân của họ"[6].
Trừ phi hành động mà không quan tâm đến sự an
nguy của quân Mỹ ở Iraq, T T Bush chắc phải từ bỏ
biện pháp quân sự như một giải pháp cho chương trình
nguyên tử của Iran.
Một giải pháp ngoại giao cho cuộc khủng hoảng nguyên
tử Iran rõ rệt tốt hơn, nhưng cũng không nhất thiết
có thể hữu hiệu. Nói chung, nhiều xứ muốn có vũ khí
nguyên tử vì hai lý do: an ninh và uy tín. Duới thời
Shah Pahlavi, Iran đã từng có một chương trình
nguyên tử. Sau cách mạng, lãnh tụ tối cao Khomeini
giải thể với lý do vũ khí nguyên tử trái với đạo
Hồi. Khi chương trình được bí mật tái tục giữa thập
kỷ 1980s, Iraq là mối lo hàng đầu cho an ninh Iran.
Vào thời điểm đó, Iraq cũng sở hữu một chương trình
nguyên tử bí mật. Hơn nữa, Iraq cũng đã từng đe dọa
tấn công các thành phố Iran với vũ khí hóa học.
Vũ
khí nguyên tử của Iran có thể được dùng để ngăn ngừa
vũ khí hóa học và nguyên tử của Iraq.
Với sự thất trận của Iraq trong cuộc chiến Vùng Vịnh
thứ nhất (1991), mối đe dọa Iraq đã giảm đi nhiều.
Mối đe dọa giờ đây không còn nữa, sau khi đồng minh
của chính Iran đã nắm được chính quyền, tiếp theo
sau ngày quân Mỹ tiến chiếm Iraq vào đầu năm 2003.
Ngày nay, Iran xem Hoa Kỳ là đe dọa chính cho an
ninh của họ. Quân đội Mỹ vây quanh Iran - ở
Afghanistan, Iraq, Trung Á, và ngay trên Vịnh Ba Tư.
T T Bush và các phụ tá hàng đầu nhiều lần lên tiếng
giúp dân Iran chống lại chính quyền của họ trong khi
Hoa Kỳ yểm trợ nhiều chương trình nhằm lật đổ chính
quyền Iran. Báo chí Hoa Kỳ và thế giới nói nhiều về
việc Phó T T Cheney luôn thúc đẩy T T Bush tấn công
Iran trước khi mãn nhiệm kỳ. Từ gốc độ Iran, duới
lớp khói dày đặc đó, ngọn lửa chắc vẫn còn tiếp tục
được nhen nhúm.
Trong năm 2003, như đã được Trita Parsi ghi lại
trong cuốn "Đồng Minh Bội Bạc" (Treacherous
Alliance), đã có nhiều dấu hiệu thuận lợi cho
một giải pháp thương nghị. Tháng 5-2003, qua trung
gian của đại sứ Thụy Si ở Tehran, Tim Guldimann,
chính quyền Iran gửi đi một gói đề nghị theo đó Iran
sẵn sàng đóng băng chương trình nguyên tử để đổi lấy
sự từ bỏ thù nghịch về phía Mỹ. Đề nghị của Iran bao
gồm "hoàn toàn minh bạch để bảo đảm Iran không theo
đuổi khai triển hoặc chấp hữu vũ khí tiêu diệt hàng
loạt (WMD) và hợp tác đầy đủ với IAEA trên cơ sở
Iran chấp nhận mọi phương cách thanh tra thích ứng.
Người Iran cũng thỏa thuận hỗ trợ các định chế dân
chủ và một chính quyền thế tục (non-religious
government) ở Iraq; hợp tác đầy đủ trong việc chống
khủng bố, nhất là al-Qaeda; chấm dứt hỗ trợ lực
lượng Hamas ở Palestine. Đổi lại, Iran đoi hỏi Hoa
Kỳ phải rút tên Iran khỏi danh sách các tổ chức
khủng bố hay một thành viên trong "trục ma quỷ"(axis
of evil); chấm dứt mọi chế tài; sự yểm trợ của Hoa
Kỳ trong việc Iran đoi bồi thường chiến tranh trong
cuộc chiến Iran-Iraq như một phần trong việc giải
quyết nợ Iraq; Iran có quyền tiếp cận các kỹ thuật
nguyên tử hòa bình; và Hoa Kỳ phải trừng trị các tổ
chức khủng bố chống Iran, nhất là MEK. Các thành
viên của MEK phải được trả về Iran.
Choáng ngợp bởi hào quang "Sứ Mệnh Hoàn
Thành"(Mission Accomplished) ở Iraq, chính quyền
Bush bác bỏ đề nghị của Iran và chỉ trích đại sứ
Guldimann đã hoài công chuyển đạt. Vài năm sau, khi
hiểu rõ việc bác bỏ một cách phủ phàng đề nghị của
Iran là một sai lầm lớn, Bush tìm cách dìm tắt câu
chuyện. Flynt Leverett, phụ trách Iran vụ trong NSC,
tìm cách viết về sự kiện nầy trong báo The New york
Times. NSC, được yêu cầu minh xác, đã thẳng tay kiểm
duyệt. Tuy nhiên, trước đó Guldimann đã chuyển cho
Bob Ney, dân biểu Cộng hòa bang Ohio (Chủ tịch Tiểu
ban Hành chánh Hạ Viện, hiện đang bị tù về tội biển
thủ và cũng là người đã đổi tên "khoai chiên Pháp"
thành "khoai chiên tự do") một bản đề nghị của Iran.
Ney đã từng sống ở Iran trước cách mạng, nói được
tiếng Farsi, và mong muốn một quan hệ tốt giữa Iran
và Mỹ. Trita Parsi, lúc đó (2003) làm việc cho văn
phòng Bob Ney, đã mô tả một cách lý thú đầy đủ chi
tiết đề nghị của Iran và sự bác bỏ trịch thượng của
chính quyền Bush trong cuốn "Đồng Minh Bội Bạc:
Những chuyện Đi Đem Giữa Do Thái, Iran, và Hoa Kỳ"[7].
Năm năm sau, Iran đã hùng mạnh hơn trong khi những
sai lầm trong việc tiến chiếm Iraq đã khiến vị thế
của Hoa Kỳ suy yếu đi nhiều. Trong khi lập trường
thương thuyết 2003 chắc chắn đã được đề nghị với sự
đồng tình của hàng giáo phẩm- những người thật sự là
chủ nhân ông đất nước Iran-, Tổng Thống Iran hiện
nay, Mahmoud Ahmadinejad, đã xem việc làm giàu
uranium là mục tiêu chính yếu của nhà nước và biểu
hiện tinh thần quốc gia Iran. Mặc dù Ahmadinejad
không phải là người toàn quyền quyết định chương
trình nguyên tử (và sử dụng bom nếu có), trên bình
diện chính trị, ông cũng đã đặt các giáo si vào địa
vị khó có thể trở lại lập trường thương nghị 2003.
Tuy nhiên, đề xuất 2003 của Iran vẫn có thể dùng làm
khởi điểm cho một giải pháp thương nghị giữa Iran và
Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, nhiều đề xuất đã
xuất hiện nhằm đáp ứng lập trường kiên định của Iran
là họ có quyền tiếp cận kỹ thuật nguyên tử, và ý
muốn của cộng đồng quốc tế phải có những bảo đảm
chắc chắn là Iran sẽ không chuyển huớng kỹ thuật qua
chế taọ vũ khí. Đó là đề nghị của Liên Bang Nga:
Iran làm giàu uranium trên lãnh thổ Nga; và đề xuất
của Mỹ và các chuyên viên Iran: việc làm giàu
uranium ở Iran phải do một tập đoàn Âu châu đảm
trách duới sự giám sát quốc tế. Iran đã bác bỏ đề
xuất của Nga, nhưng nếu sự thù nghịch giữa Iran và
Hoa Kỳ giảm bớt, đề xuất của Nga vẫn có thể vực dậy
trở lại. (Đề xuất dùng tập đoan Âu châu hiện không
có chỗ đứng). Mặc dù có đủ lý do để nghi ngờ chương
trình của Iran hoàn toàn mang tính hòa bình, Iran
hiện vẫn còn là thành viên của thỏa ước cấm phổ biến
nguyên tử và các cấp lãnh đạo Iran, kể cả
Ahmadinejad, luôn quả quyết Iran không có ý định chế
tạo vũ khí nguyên tử. Chừng nào lập trường đó không
thay đổi, Iran vẫn có thể đạt được thỏa hiệp hạn chế
chương trình nguyên tử mà vẫn giữ được thể diện.
Từ ngày bắt đầu chương trình nguyên tử duới thời
Shah Reza Pahlavi, uy tín và ý muốn được chuẩn nhận
luôn là động lực thúc đẩy. Người Iran muốn thế giới,
nhất là người Mỹ, phải nhìn họ như chính họ thấy họ
- như một xứ đông dân, hùng mạnh, có trách nhiệm,
thừa kế một đế quốc vi đại, với một nền văn minh
trên 2.500 năm. Trong nhản quan người Iran, Hoa kỳ
luôn có lối ứng xử kiêu căng, khinh thường xứ sở họ.
Nhiều người Iran vẫn còn sục sôi hờn giận về việc
người Mỹ đã nhúng tay vào việc lật đổ chính quyền
dân cử của Thủ Tuớng Mohammad Mossadegh năm 1953 và
tái lập chế độ Shah Reza Pahlavi. Bị xem như một
nhà nước khủng bố và thành viên của "trục ma
quỹ"là một điều si nhục đối với người Iran. Trên
nhiều phương diện, cuộc khủng hoảng con tin
1979-1981 và chương trình nguyên tử của Iran là
những chiến lược khác nhau nhằm buộc người Mỹ phải
tôn trọng họ. Một cử chỉ mở cửa ngoại giao đối với
Iran cần phải bao gồm những phương cách tỏ rõ sự tôn
trọng nền văn minh của Iran, và một lời xin lỗi công
khai về vai trò của Hoa Kỳ trong vụ đảo chính năm
1953, một lỗi lầm tai hại cho quyền lợi của người
Mỹ.
Trong khi T T Bush nhấn mạnh thời gian không thuận
lợi cho phía Hoa Kỳ, tiến trình thương thuyết - ngay
cả một thỏa ước tạm thời - cũng có thể đem lại cho
các thành phần Iran ôn hòa thời gian cần thiết để tự
khẳng định. Trong chừng mức an ninh đoi hỏi, sở hữu
vũ khí nguyên tử là một việc làm tiêu cực nhiều hơn
là tích cực. Tầm vóc và khả năng đề kháng mạnh mẻ
của Iran cũng đủ ngăn ngừa bất cứ ý định xâm lăng
nào của Mỹ - một việc mà Hoa Kỳ, ngay cả trong thời
điểm hậu Saddam lạc quan nhất, cũng chưa hề xem xét
một cách nghiêm túc. Khai triển vũ khí nguyên tử
chẳng những không đem lại một tác dụng ngăn ngừa phụ
trội nào, mà chỉ có thể tạo thêm lý do cho cơ nguy
bị tấn công.
Nếu al-Qaeda hay một tổ chức khủng bố nào đó thành
công cho nổ bom nguyên tử trong một thành phố Hoa
Kỳ, bất cứ ai làm T T Mỹ cũng sẽ tìm cách trả đủa xứ
nào đã cung cấp vũ khí. Nếu không xác định được
nguồn cung cấp, một Iran với vũ khí nguyên tử - một
nhà nước có tên trong danh sách các xứ bảo trợ khủng
bố- rất dễ trở thành mục tiêu trả đủa, mặc dù Iran
khó thể là xuất xứ, vì lẽ al-Qaeda là một tổ chức
Sunni cực đoan.
Với đồng minh của mình đang kiểm soát chính quyền ở
Baghdad, Iran đâu còn cần đến vũ khí nguyên tử để đề
phòng một Iraq thù nghịch như trước đây.
Ngoài ra, một Iran sở hữu vũ khí nguyên tử rất dễ xô
đẩy Saudi Arabia đi vào con đường nguyên tử, như
vậy, cũng sẽ làm trung hòa lợi thế nhân lực lớn lao
của Iran đối với đối thủ Vùng Vịnh của mình. Những
lãnh tụ thực tế hơn, như nguyên Tổng Thống Akbar
Hashemi Rafsanjani, hiểu rất rõ điều đó. Rafsanjani,
thất cử Tổng Thống trước Ahmadinejad năm 2005, đang
dần dà lấy lại ảnh hưởng, đã đánh bại đối thủ cứng
rắn để trở thành chủ tịch Hội Đồng Chuyên Viên
Lãnh Đạo (Assembly of Experts for the Leadership --
Majles-e Khobrgran Rahbari), cơ quan nắm quyền
chỉ định hay bải chức Lãnh Tụ Tối Cao.
Đến thời điểm nầy, hình như cả Hoa Kỳ lẫn Iran chưa sẵn sàng nói chuyện
trực tiếp về những vấn đề song phương, ngoại trừ vấn
đề Iraq. Ngay cả khi hai bên trực tiếp hội đam, cũng
chưa có dấu hiệu gì cho thấy có thể đạt được thỏa
hiệp. Và nếu đạt được thỏa hiệp thì chắc chắn cũng
chẳng mấy thuận lợi cho phía Mỹ. Nhưng thử thách của
một hội đam Hoa Kỳ-Iran không phải là liệu có đạt
được một sự giàn xếp lý tưởng hay không, mà là có
tốt hơn những giải pháp thay thế như không tạc Iran hay chẳng làm gì hết.
4.Thay Lời Kết Luận:
Tin tức tình báo trước cuộc chiến 2003 ở Iraq đã có
quá nhiều sai phạm nghiêm trọng liên quan đến vấn đề
then chốt - Iraq với WMDs, và TT Bush đã cố tình làm
ngo trước những tin tức tình báo trái ngược để xác
quyết một cách sai lầm mối liên hệ khả di giữa
Saddam Hussein và biến cố 11-9. Chỉ riêng điều nầy
cũng là lý do đủ cho mọi người nghi ngờ về những lời
tuyên bố của Bush về Iran.
Một vài lời buộc tội Iran của chính quyền Bush rõ
rệt vô nghĩa. Trong bài nói chuyện ở Reno, T T Bush
lên án Iran đã cung cấp vũ khí cho cả hai phe dân
quân Sunni và Shiite ở Iraq. Phe Taliban là nhóm
thánh chiến Salifi (Salifi jihadis), và phe Sunni
cực đoan, luôn xem phe ly khai Shiite đáng tội chết.
Khi cầm quyền , Taliban đã từng đan áp dã man phe
Shiite ở Afghanistan và suýt gây chiến với Iran khi
phe Taliban ám sát các nhà ngoại giao Iran bên trong
lãnh sự quán Iran ở Mazar-i-Sharif, một thị trấn
miền Bắc Afghanistan. Phe dân quân Sunni Iraq, hoặc
thuộc tổ chức Salafi jihadis hoặc thuộc đảng
Baathist, là đảng chính trị khởi xuớng cuộc chiến
Iran-Iraq trong thập kỷ 1980s.
Rất có thể chính quyền Iran xem sự kiện quân đội Hoa
Kỳ bị sa lầy ở Iraq như một quà tặng bất ngờ nằm
trong quyền lợi chiến lược của mình, vì điều nầy,
theo cách nhìn của họ, khiến cho một cuộc tấn công
vào Iran khó thể xẩy ra. Những cuộc đụng độ giữa
quân đội Mỹ và quân Mahdi gây rắc rối thêm cho nỗ
lực quân sự Hoa Kỳ ở Iraq. Chính vì lẽ đó, Iran có
thể cung cấp vũ khí, kể cả mìn chống chiến xa IEDs,
cho quân Mahdi và các nhóm ly khai. Tuy nhiên, nói
chung, Iran chẳng lợi lộc gì nếu để cho quân Mahdi
thành công ở Iraq. Moqtada al-Sadr lấy chủ nghĩa
quốc gia Iraq làm chương trình hành động: Ông ta đã
tấn công tổ chức SIIC vì nhóm nầy thân Iran, và đã
thách thức lãnh tụ tối cao Sistani, một công dân
Iran. Được hỏi về lời tố cáo Iran đã tổ chức quân
nổi dậy ở Iraq, Phó Ngoại Trưởng Iran, Abbas
Araghchi, đã trả lời báo Financial Times ngày
10-5-2007: "Ý tưởng đó hoàn toàn bất hợp lý. Tại
sao chúng tôi lại phải làm như vậy? Tại sao chúng
tôi phải làm suy yếu một chính phủ Iraq mà chúng tôi
ủng hộ hơn bất cứ ai?"[8]
Ngày nay, Hoa Kỳ không thể đảo ngược quà tặng chiến
lược do TT Bush dành cho Iran. Nhưng điều quan trọng
hơn là đảng chính trị Shiite thân Iran nhất cũng là
đảng ít thù nghịch với Hoa Kỳ nhất. Trong trận tuyến
hiện nay giữa SIIC và Moqtada al-Sadr nhằm kiểm soát
miền Nam Iraq và chính quyền trung ương ở Baghdad,
Hoa Kỳ và Iran đều có quyền lợi để cùng đứng chung
một phía. Hoa Kỳ có đủ lý do để lo ngại về các hoạt
động của Iran ở Iraq. Nhưng trái với những lời tố
cáo của chính quyền Bush - được sự ủng hộ của tuớng
David Petraeus và đại sứ Ryan Crocker trong cuộc
điều trần gần đây trước Quốc Hội - Iran không chống
đối trật tự mới ở Iraq. Trong thực tế, Iran là nước
thủ lợi nhiều nhất trong những đổi thay do Hoa Kỳ
đem lại ở Iraq từ năm 2003.
Khi xua quân xâm chiếm Iraq tháng 3-2003, chính
quyền Bush ôm ấp một tham vọng lớn lao: đem lại cho
Iraq một chế độ dân chủ, và từ đó, mở đường cho một
Trung Đông thay đổi thuận lợi cho quyền lợi chiến
lược dài lâu của Hoa Kỳ. Nhưng thực tế lại quá phủ
phàng và cay nghiệt.
Sau khi ra lệnh xâm chiếm Iraq tháng 3-2003, chính
quyền Bush không những đã loại bỏ Saddam Hussein, mà
còn đập nát và giải thể toàn bộ các định chế nhờ đó
hệ phái Sunni thiểu số trước đây đã nắm được quyền
lãnh đạo một quốc gia Iraq thống nhất: quân đội, lực
lượng an ninh, và đảng Baath.
Với sự tan rã của các định chế quốc gia khó lòng
thay thế nầy, cơ sở của guồng máy quốc gia Iraq đã
hoàn toàn tan biến. Bên cạnh những toan tính quá chủ
quan, nông nổi, trong chiến lược, và những sai lầm
trong giai đoạn chiếm đóng, chính quyền Bush còn tỏ
ra thiếu hiểu biết về văn hóa và không ý thức được
cường độ của sự phân hóa, của những dị biệt chủng
tộc và giáo phái ở Iraq. Tình trạng trở nên ngày một
phức tạp bi đát hơn, với những sách lược rời rạc,
bất nhất về quản trị trong các chương trình đầu tư
tái thiết, trong nỗ lực xây dựng quân đội và lực
lượng an ninh quốc gia, trong việc trao quyền quản
lý điều hành cho những đảng viên Cộng hòa trung tín
thay vì các chuyên gia đầy đủ khả năng.
Kết quả là giờ đây Iraq đã vỡ làm ba mảnh rời rạc,
khó lòng hàn gắn hòa giải, nói gì đến dân chủ tự do:
một Kurdistan thân Tây Phương ở phía Bắc, một tập
thể Iraqi-Shiite chịu ảnh hưởng Iran ở phía Nam, và
khối Sunni gốc Arập hỗn độn ở ngay chính giữa. Các
lực lượng chống đối nổi dậy khắp noi; và Iraq đang ở
trong cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn- giai
đoạn đầu của một cuộc nội chiến thảm khốc.
Trong tình huống hiện tại, như Peter W. Galbraith đã
gợi ý trong cuốn The End of Iraq: How American
Incompetence Created A War Without End (Chung Điểm
của Iraq: Bằng Cách Nào Sự Bất Cập của Hoa Kỳ Đã Tạo
Ra Một Cuộc Chiến Không có Dứt Điểm), Hoa Kỳ
phải chú tâm không phải vào việc duy trì hay tái tạo
một Iraq thống nhất, mà vào việc tránh né một cuộc
nội chiến ngày một lan tràn, nguy hiểm, và tàn khốc.
Người Mỹ phải chấp nhận một sự thật là Iraq đã tan
vỡ, và phải hợp tác với người Kurds, người Shiites,
người Sunni gốc Arập trong nỗ lực củng cố ba vùng
lãnh thổ ít nhiều đang tự trị. Được vậy, cả ba vùng
may ra có thể vãn hồi được an ninh trật tự, mặc dù
có thể không phải cả ba đều dân chủ.
Theo Galbraith, không thể có một con đường rút khỏi
Iraq một cách dễ dàng cho người Mỹ. Hoa Kỳ phải từ
bỏ chiến lược sai lầm hiện nay- tìm cách xây dựng
những định chế quốc gia trong khi một nước Iraq
thống nhất trong thực tế không còn tồn tại. Chiến
lược hiện nay chắc chắn thất bại, và chỉ đua Hoa Kỳ
lún sâu vào một cuộc chiến không có dứt điểm trong
những trạng huống hổn loạn thóat khỏi khả năng kiểm
soát của Hoa Kỳ.
Trong viễn tượng đó, sự hợp tác của Iran trong nỗ
lực tìm một lối thoát cho cuộc chiến Iraq là một
điều tối thiết đối với Hoa Kỳ. Và một giải pháp
ngoại giao- thay vì một cuộc phiêu luu quân sự mới
đầy bất trắc- cho vấn đề Iran rõ ràng hợp lý và có
lợi hơn cho người Mỹ.
Trái với sự mô tả của chính quyền Bush thường xem
Iran như một chế độ độc tài (a dictatorship) và
một tiền đồn chuyên chế (An outpost of tyranny),
áp lực của cử tri vẫn luôn giữ một vai trò quan
trọng trong sinh hoạt chính trị của Cộng Hòa Hồi
Giáo nầy. Lịch sinh hoạt chính trị của Iran đầy dẩy
những cuộc bầu cử: các Hội Đồng Địa Phương, Quốc
Hội, Tổng Thống, và Hội Đồng Chuyên Viên (Assembly
of Experts). Vì vậy, giành và duy trì được sự ủng hộ
của cử tri vẫn luôn là mục đích các chính trị gia
Iran theo đuổi. Chính các cử tri - ôn hòa và quá
khích, bảo thủ và cấp tiến, thực tiển và giáo điều -
là lực lượng chính chi phối đời sống chính trị Iran.
Trong guồng máy chính quyền, những xung đột giữa Bộ
Ngoại Giao luôn nặng về thương nghị và Bộ Quốc Phòng
luôn nghiêng về biện pháp quân sự, là điều dễ hiểu.
Suốt nhiệm kỳ đầu của TT George W. Bush, sự va chạm
thường xuyên giữa Colin Powell và Donald Rumsfeld là
một "bí mật lộ liểu"(open secret). Duới thời T T
Ronald Reagan, quan hệ giữa Bộ trưởng Ngoại giao
George Shultz và Bộ trưởng Quốc phòng Caspar
Weinberger cũng đầy sóng gió.
Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi lập trường
các quan chức ngoại giao Iran và các tư lệnh Vệ Binh
Cách Mạng Hồi Giáo (Islamic Revolutionary Guard
Corps -IRGC) có trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ quốc
gia, có nhiều dị biệt.
Vụ khủng hoảng Anh-Iran tháng 3-2007 là một ví dụ
điển hình. Lúc đầu, các nhân viên ngoại giao giữ
một vai trò không đáng kể. Việc bắt giữ 15 thủy thủ
công dân Anh xẩy ra trong thời điểm các cơ quan
chính quyền Iran đóng cửa nghỉ "Tết" (Tân Niên) 10
ngày, kể từ 21 tháng 3. Ngược lại, Vệ Binh Cách
Mạng- IRGC- vẫn luôn túc trực. Vì vậy, lúc đó chính
sách cứng rắn đã thắng thế.
Nhà cầm quyền Iran lúc đầu đã cho phát hình và lời
nhắn của các thủy thủ Anh bị bắt, qua hệ thống vệ
tinh Al Alam Iran. Với động thái đó, họ muốn chuyển
tải đến người dân Iraq và các xứ Arập Trung Đông
thông điệp : quân lực Iran đã tự bảo vệ một cách cẩn
mật và thành công biên giới của mình trong khi nhà
cầm quyền các xứ Arập đã khoán trắng trách nhiệm bảo
vệ xứ sở cho người Mỹ và người Anh bằng cách cho Hoa
Kỳ và Anh Quốc thiết lập các căn cứ quân sự bên
trong lãnh thổ của họ.
Lập trường cứng rắn ban đầu của Iran cũng nhằm đáp
lại những lời lẽ đe dọa của Tony Blair và việc Blair
tìm cách quốc tế hóa vấn đề bằng cách đua nội vụ ra
Hội Đồng Bảo An LHQ.
Điều đáng ghi nhận ở đây, là sau khi trao đổi với Bộ
trưởng Ngoại giao Margaret Beckett, Blair đã tỉnh
ngộ và hiểu rằng những động thái đe dọa từ các thế
lực bên ngoài chỉ giúp củng cố lập trường cứng rắn
của các lãnh tụ tinh-thần-ý-thức-hệ Iran (Lãnh đạo
Iran luôn có khuynh huớng lấy đá chọi đá, nhưng vẫn
tỏ ra ôn hòa với những đối tác mềm dẻo) . Và Tony
Blair đã thay đổi phương thức đối phó.
Tony Blair từ chối các đề nghị của Ngũ
giác Đài- từ
cho chiến đấu cơ xâm phạm không phận Iran đến phát
động các phi vụ tuần tra trên các căn cứ Quân Phòng
Vệ Cách Mạng IRGC; Blair còn yêu cầu Tòa Bạch Ốc
đứng ra ngoài vụ tranh chấp và giảm thiểu các cuộc
tập trận trong vùng Vịnh.
Kết cục, sau 40 phút thương nghị qua điện đam giữa
Sir Nigel Sheinwald, cố vấn ngoại giao của Tony
Blair, và tổng thu ký Hội Đồng An Ninh Tối Cao Iran
Ali Larijani, ngày 3-4-2007, tình trạng căng thẳng
đã dịu lại và ánh sáng đã lấp ló ở cuối đường hầm.
Suốt quá trình cuộc khủng hoảng, chính quyền Iraq-
do lãnh hải của mình là gốc rễ của vụ xung đột- đã
cẩn trọng giữ im lặng. Khi lên tiếng vào ngày
3-4-2007, Hoshyar Zebari, ngoại trưởng Iraq gốc
Kurd, đã giải thích, bên sau hậu trường, ông đã tích
cực vận động trả tự do cho năm viên chức Iran- được
biết như vụ Irbil-5- bị quân Mỹ bắt giữ vào trung
tuần tháng 01-2007 ở Irbil- thủ phủ của Iraqi
Kurdistan.
Mặc dù đây là vụ việc quan trọng đối với Iran, khi
thương nghị với Anh Quốc, người Iran đã khôn khéo
không liên kết Irbil-5 với vụ thủy thủ Anh đang bị
Iran giam giữ. Nhờ đó, hai chính phủ Anh và Hoa Kỳ
đã có thể tuyên bố không hề có sự trao đổi khi giải
quyết hai vụ việc.
Trong khi đó, Rassoul Movahedian, đại sứ Iran ở Luân
Đôn, đã tuyên bố: "Nếu họ [người Anh] muốn giúp
và dùng ảnh hưởng của họ [với Hoa Thịnh Đốn], chúng
tôi sẽ hoan nghênh"[9].
Mavahedian còn nói thêm:" Nói chung, chúng
tôi sẽ hoan nghênh bất cứ động thái nào làm dịu bớt
tình hình căng thẳng trong vùng [Vịnh]"[10].
Đã hẳn, tìm giải pháp làm dịu bớt tình hình ngày một
căng thẳng do việc Iran làm giàu Uranium là một việc
làm phức tạp, khó khăn hơn nhiều so với việc tìm
giải pháp cho vụ Iran giam giữ các thủy thủ người
Anh. Tuy nhiên, các yếu tố như lòng tự hào dân tộc,
các tính toán chính trị quốc nội, và phản ứng của
nước ngoài liên hệ đến việc giải quyết các cuộc
khủng hoảng con tin, trong bản chất, cũng chẳng mấy
khác khi tìm cách giải quyết vấn đề nguyên tử Iran.
Yếu tố cốt lỏi ở đây là liệu Tehran và Washington có
rút tỉa được bài học đúng đắn từ kinh nghiệm giải
quyết vụ khủng hoảng con tin vừa kể , và tìm kiếm
những phương cách mới mẻ và sáng tạo nhằm thành đạt
một giải pháp qua trực tiếp thương nghị !
Nguyễn Trường
Irvine, California
23-3-2008
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Treacherous Alliance: The Secret Dealings of
Israel, Iran, and The United States, Trita
Parsi, Yale University Press, 2007.
2. The End of Iraq: How American Incompetence
Created a War Without End, Peter W. GAlbraith,
Simon and Schuster, 2007.
3. Peaceful Resolution of the Iran-UK Crisis:
Could It Be a Precedent? The latest Iranian hostage
crisis offers a key lesson in diplomacy, Dilip
Hiro, Yale Global, 9-4-2007.
[1]
There are
ways to live with a nuclear Iran... Let's
face it, we lived with a nuclear Soviet
Union, we've lived with a nuclear China, and
we're living with [other] nuclear powers as
well, Centcom commander John Abizaid.
[2]
Today the
Americans are around our country but this
does not mean that they are encircling us.
They are encircled themselves and are within
our range, Iranian Revolutionary Guard
Commander General Mohammed Hassan
Koussechi.
[3]
A clear
message to Iran... that its continued
efforts to acquire nuclear weapons are not
going to go unanswered, ex-UN American
Ambassador John Bolton.
[4]
For those
who ask whether the fight in Iraq is worth
it, imagine an Iraq where militia groups
backed by Iran control large parts of the
country, President Bush's speech at the
annual convention of the American Legion,
Reno, Nevada, 8-28-2007.
[5]
Far from
helping the development of democracy, U.S.
policy over the past 50 years has
consistently been to the detriment of the
proponents of freedom and democracy in
Iran... The Bush administration, for its
part, by approving a fund for democracy
assistance in Iran, which is in fact being
largely spent on official institutions and
media affiliated with the U.S. government,
has made it easy for the Iranian regime to
describe its opponents as mercenaries of the
U. S. and to crush them with impunity,
Iranian dissident Akbar Ganji.
[6]
We have
accurately identified all their camps.
[7]
Treacherous
Alliance: The Secret Dealings of Israel,
Iran, and the United States, Trita Parsi,
Yale University Press, 2003.
[8]
The whole
idea is unreasonable. Why should we do that?
Why should we undermine a government in Iraq
that we support more than anybody else?,
Iran's Deputy Foreign Minister Abbas
Araghchi, Financial Times, 5-10-2007.
[9]
If they [the
British] want to be helpful and use their
influence [with Washington], we will welcome
that, Rassoul Movahedian, Iranian ambassador
to Britain, 3-4-2007
[10]
We will
welcome, in general, any steps that could
defuse tensions in the region, Rassoul
Movahedian, Iranian ambassador to Britain,
3-4-2007.
|
©
http://vietsciences.org và
http://vietsciences.free.fr- Nguyễn Trường |