Thời nhà Nguyên, học giả Trung Hoa phiên âm Uyghur
thành Wéiwú'ěr, viết 回回,đọc Huihui, Hủi Hử, rút ngắn là Hui hay Hủi. Chữ này
có nguồn từ chữ HuiE 回纥 hay 回鶻, đọc Hủi I, có nghĩa chim ưng, khi người
Uyghur tự ví nhanh như chim ưng vồ mồi.
“Sắc tộc Uyghur”, Quan Thoại víết 回族, đọc Huê Chù hay Hủi Yù; Quảng Đông đọc
Wùi Truc.
“Tôn giáo của người Uyghur”, Quan Thoại viết 回教, đọc Huê Cháo hay Huỉ Chào;
Quảng Đông đọc Wùi Cao. Hiện nay người Trung Hoa không dùng Huê Cháo/Huỉ
Chào nữa, mà dùng Yīsīlán jiào: tôn giáo Islam.
Cũng xin nói thêm, những phát âm Hui/Hủi Hử/Hủi I - Huê Chù/Hủi Yù/Wùi Truc
- Huê Cháo/Hủi Chào/Wùi Cao hoàn toàn do một người bạn Trung Hoa cung cấp.
Theo chị, ngay phát âm Trung Hoa cũng thay đổi tuỳ miền. Khi người viết ghi
lại bằng tiếng Việt, cũng không thể hiện trung thực 100% những âm tiếng Việt
không có.
Hồi nào tới giờ người Việt nhìn thế giới qua lăng kính Trung Hoa. Người Hoa
gọi thế nào, người mình gọi theo thế ấy. Tiếng Hoa phiên âm Uyghur thành
Wéiwú'ěr, có lẽ từ đó người Việt đọc thành Duy Ngô Nhĩ. Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư ghi Hồi Ngột, có lẽ từ chữ Huihui. Truyền thông Việt vẫn đang dùng một
chữ rất ngộ nghĩnh: Hồi Hột.
Cũng theo người bạn Trung Hoa, chữ Huihui ban đầu mô tả vương quốc và người
Uyghur ở Tân Cương. Từ thời nhà Đường (618-907) đến thời nhà Nguyên
(1271-1368), chỉ các thương nhân Islam đến từ Trung Đông. Ngày nay người Hoa
không còn dùng Huihui nữa.
Như vậy, bản tin tiếng Việt, ví dụ “chính phủ Hồi giáo ở Islamabad”, hiểu
“đúng” sẽ lùi đến … bẩy thế kỷ: thính giả/độc giả đang ở vào thời nhà
Nguyên, người Hui ở nội địa Trung Hoa đang lãnh đạo chính phủ Pakistan. Điều
hơi kẹt: Pakistan mới đuợc thành lập năm 1947; chỉ là một trong số quốc gia
nhận Islam làm quốc giáo: Afghanistan, Iran, Mauritania, Saudi Arabia và
Yemen.
Bài này, vì vậy sẽ dùng Islam và Muslim thay vì “Hồi giáo, người Hồi, Hồi
Hột”, vì ba lý do: (a) ngay cả người Hoa không còn dùng Huihui, Huỉ Chào,
(b) nằm ngoài ý muốn của cộng đồng người Việt-Chămpa Muslim, (c) không giúp
truy cập thông tin trên internet.
Địa bàn vùng Turkestan
Địa bàn Turkestan gồm hàng ngàn bộ lạc Turkic trải từ Âu sang Á, thảo
nguyên/sa mạc/ núi non từ Nam Siberi, tây Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương đến
Cam Túc. Xương của người Neandertal ở Samarkand có tuổi 150,000 năm và tiệt
chủng khoảng 35,000 trước. Đây là một miền đất phức tạp, không ngớt binh
đao, một mặt những đế quốc huy hoàng dựng lên rồi tàn lụi, một mặt cư dân có
những tiến bộ lẫy lừng về khoa học kỹ thuật, mỹ thuật kiến trúc, kinh tế
thưong mại. Len lỏi giữa thảo ngưyên xanh mướt và sa mạc nóng bỏng, Con
Đường Tơ Lụa ẩn hiện như giải lụa mềm nuôi sống, giữ gìn và thăng hoa những
cây trái ngon ngọt nhất của tri thức loài người thuở ấy.
Người Turk, Turkic và Turkish
Không phải chỉ Uighur/Uygur/Uigur và Huihu/Huihe/Hồi, những tên có chữ
“Turk” cũng có ý nghĩa riêng tuỳ khu vực địa lý.
Turkic là ý niệm về toàn thể khối 165 triệu người Turks, không phân biệt
quốc tịch.
Turkish là tên của 74 triệu công dân mang quốc tịch của nước Cộng
Hoà Turkey, nhưng không phải tất cả công dân của Turkey đều là người Turk.
Dễ hiểu hơn, có thể nói dân tộc Turkish là một phần tử nhỏ nằm trong lòng
sắc tộc Turkic lớn. Tương tự, một phần tử dân Việt thuộc Bai Yue/Bách Vịêt,
nhưng không chứa toàn thể Bách Việt có tới hàng ngàn bộ lạc. Vì phủ một vùng
quá rộng lớn, khối Turkic hiện nay chỉ có nghĩa cùng tôn giáo/ngôn ngữ hơn
là quốc tịch/văn hoá. Chính vì vậy, biến cố ở thủ phủ Urumchi tháng bẩy
2009, Trung Quốc đàn áp ngừời Uyghur, khối Muslim Ả Rập làm thinh, cho rằng
không cùng sắc tộc. Liên bang Nga và Trung Quốc đang ủng hộ Iran chống lại
sự cấm vận của Hoa Kỳ, nên Iran cũng song ca bản làm thinh. Chính trường có
vẻ ít tàn nhẫn hơn chiến trường nhờ tấm màn che phủ sự thật. Nhưng có khi
đựơc vén lên thì định mệnh của cả một dân tộc đã tiêu tùng, và những nhân
vật được tô tuợng hay tặng giải Nobel hoà bình, không chừng là sát nhân giết
người hàng loạt.
Theo Orkhon Inscription -chữ víết cổ nhất của người Turkic- hàng ngàn sắc
tộc Turkic bắt nguồn từ rặng Altay di chuyển dần về phía Tây theo nguồn nước
và cỏ, tuy nhiên không rõ thời điểm nào họ rời Altay.
Hai nhóm Turk lớn nhất, niềm hãnh diện của người Turk: đế quốc
Göktürk/Kokturk và đế quốc Uyghur, mặc dù trong quá khứ, hai đế quốc có lúc
đoàn kết hay kình chống nhau kịch liệt, lúc theo Hung Nô lúc theo Trung Hoa.
Cổ thư đầu tiên nhắc đến tên Turk là lá thư của hoàng đế Trung Hoa, năm 585
SCN, xưng tụng Đại Khả Hãn Göktürks là Ishbara.
Đế quốc Göktürks khởi đầu ở
vùng phía Tây Nam dãy Altai.
Göktürks, tiếng Việt là Đột Quyết (突厥), hãn
quốc đầu tiên có tên “Turks”.
Gök: màu xanh, thưọng đế hay thiên đàng.
Göktürks: bầu trời của người Turk, thượng đế của người Turk, thiên đàng cuả
người Turk.
Xứ Perse chọn màu xanh của đá Turquoise làm mầu quốc gia. Loại
đá quí này rất hiếm, cân carat như kim cương nên, trong quá khứ chỉ được
dùng cho nữ trang hoàng gia, như vương miện trên của Napoléon. Những mosque
của Muslim đa số dùng màu này tượng trưng bầu trời thiêng liêng của người
Turk.
Năm 162 TCN, khi bị Hung Nô lấn đất, người Yuezhi bỏ vùng East Turkestan,
vượt rặng Thiên San di cư qua West Turkestan. Số người ở lại hợp vớí người
Hung Nô làm thành một nhóm sắc tộc rất đa dạng tự xưng Oguz. Năm 745, người
Oguz thành lập đế quốc Uyghur Empire ở thung lũng Orkhon Valle, cách thủ đô
Ulaanbaatar 360 kilometers. Đế quốc này sụp đổ năm 840. Người Uyghur chạy
đến vùng Lòng Chảo Tarim, hoà huyết với người bản địa làm thành nhóm Uyghur
hiện nay.
Chữ viết của người Turkic : Orhon inscriptions

Năm 735, người Göktürks chế ra chữ viết Orhon inscriptions gồm 38 chữ cái.
Chữ viết này về sau được cả người Hung Nô và Mãn Châu dùng. Những cột đá có
khắc chữ cổ Orhon, vẫn còn tìm thấy ở Mông Cổ, gần bờ sông Orhun. Văn tự
Orhon viết từ phải qua trái, được nhà ngôn ngữ học Đan Mạch Vilhelm Thomsen
giải mã năm 1893. Bản văn này được coi như văn tự đầu tiên của ngôn ngữ
Altaic. Không hiểu hơn 1200 năm truớc, người Göktürks dùng dụng cụ nào để
khắc chữ lên đá. Năm 126 TCN, Zhang Qian/張騫/Trương Khiên ghi nhận dân cư từ
vùng Fergana (thủ đô Uzbekistan) tới Parthia (Bắc Iran) tuy gồm nhiều sắc
tộc, bộ lạc khác nhau, nói nhiều thứ tiếng khác nhau, nhưng họ vẫn hiểu
nhau. Ghi chú quan trọng này khiến Trương Khiên xứng đáng là lữ hành vĩ đại,
trước cả Marco Polo. Văn học Việt Nam xuất hiện khá muộn loại ghi chép này,
mãi tận Lê Quí Đôn và Trương Vĩnh Ký. Người Uyghur dùng chữ Orhon trong suốt
800 năm. Họ in sách hàng trăm năm truớc khi
Gutenberg sáng chế máy in năm
1450. Chỉ đến thế kỷ 11, người Uyghur mới chấp nhận mẫu tự Arabic sau khi
cải sang Islam.
Ba khu vực Turkic hiện nay
Tất cả chữ có –istan, -estan, -stan, có nghĩa “đất của”, ví dụ Uyghurstan
“đất của người Uyghur”.
Khối Turkic chia làm 3 vùng địa lý:
- Vùng Uyghurstan hay East Turkestan, “đất của người Turk miền Đông”. Hai
vùng East và West Turkestan có biên giới thiên nhiên là rặng Tiansan/Thiên
Sơn. Sắc tộc da trắng/da vàng đan chen nhau, chung tình trạng du mục. Tên
hiện nay là Xinjiang/Tân Cương, hoàn toàn ngoài ý muốn của người Uyghur.
- Vùng West Turkestan, “đất của người Turk miền Tây” -tên Hy Lạp là
Sogdiana- thuộc Liên Sô cũ. Sau khi Liên Sô tan rã, các quốc gia Kazakhstan,
Kyrgyzstan, Tajikistan, Turmenistan, Uzbekistan tuyên bố độc lập. Thế giới
của họ khép kín với nhiều nền văn minh, chỉ riêng khoản cổ vật nữ trang
không thôi, là một xa hoa và tài hoa không bao giờ có nữa.

Mustafa Kemal Atatürk
- Với 74 triệu công dân Turkish, Cộng Hoà Turkey là quốc gia non trẻ nhất và
xa nhất về phía Tây của khối người Turkic. Năm 1299 người Turkic lập lên đế
quốc Ottoman lẫy lừng suốt 600 năm. Sau Thế Chiến I, đế quốc này thua trận.
Nhờ nỗ lực kinh hồn của người hùng Mustafa Kemal Atatürk, đế quốc phục hồi
dưới tên Cộng Hòa Turkey, (trong tên ông có chữ Turk). Bài hát Mustafa nghe
ở Saigon những năm 1960, ca tụng người hùng này. Tiếng Việt gọi Turkey là
Thổ Nhĩ Kỳ, có thể do các sư phụ Hán-Việt phiên âm từ chữ
Tokharian/Tocharian, tiếng Hy Lạp cổ để chỉ người Yuezhi, tổ tiên của người
Uyghur. Turkey là quốc gia Muslim đầu tiên tổng thống Obama thăm viếng hồi
tháng 4/2009, cho thấy vai trò quan trọng cuả quốc gia thế quyền này trong
chính sách mới của Mỹ
Người Yuezhi/Nguyệt Chi/Nhục Chi là ai?
Phía nam rặng Altay, khu vực giữa hai rặng Tianshan/Thiên San và Kun-Lun/Côn
Luân, là địa bàn của đám Yuezhi da trắng, cao lớn, tóc đỏ hay vàng nhạt có
dợn sóng, ngôn ngữ thuộc hệ tiền Ấn Âu/Proto-Indo European, nhóm xa nhất về
phía đông.
Năm 162 TCN, dưói sức ép của Hung Nô, người Yuezhi di chuyển dần đến vùng
Sogdiana (Kazakhstan và Uzbekistan, bấy giờ thuộc ảnh huởng văn minh Hy Lạp)
lập ra vương triều Kushan/Quế Sương lẫy lừng. Dân cư của đế quốc Kushan, còn
có tên Indo-Scythian, gồm ba sắc tộc da trắng (1) người Saka (bộ tộc của
Phật cũng thuộc nhóm này), (2) người Parthian (Ba tư cổ) và (3) người
Yuezhi. Văn minh Kushan nổi tiếng ngang với ba nền văn minh lúc đó là La Mã,
Hán, và Parthia. Phụ nữ Bắc Ấn Độ đẹp nổi tiếng, cao lớn, da trắng, mũi
cao, môi đầy, mắt to, có thể là hậu duệ của đám Kushan này.

Bản đồ châu Á thế kỷ thứ hai Sau Công Nguyên
Trong vòng 3 thế kỷ, triều đại Kushan rực rỡ đã thay đổi cả giòng lịch sử
của các nước trong quĩ đạo như Bactria, Persia và Ấn Độ sau này. Bốn điểm
chói sáng của Kushan là chấp nhận sụ khác biệt sắc tộc/tôn giáo, chia đều
phúc lợi cho cư dân bằng thương mại; khuyến khích vũ/nhạc/hoạ/điêu khắc/nữ
trang/lễ nghi; quan trọng nhất bảo trợ và giao giảng Phật giáo, một vương
triều như thiên đàng. Trương Khiên ở Kushan một năm. Ông quan sát có khoảng
một triệu người sống trong thành có tường bao quanh. Ông tả họ cuỡi ngựa bắn
cung giỏi, chạm khắc ngọc cực khéo, rất kinh sợ chiến tranh, trong buôn bán
mặc cả khít khao, rất nghe lời vợ (khôn ngoan quá), đã đúc tiền vàng. Trẻ em
10 tuổi cũng biết phân biệt ngọc thật hay đá cuội. Đàn ông có mắt sâu, râu
dài và ria uốn cong, hết sức bảo trợ cho nghệ thuật và tôn giáo.
Trong tám trăm năm, người Trung Á hết lòng mang đạo Phật vào Trung Hoa và
Nam Á. Nhiệt thành nhất là người Yuezhi, họ hiểu đạo Phật không chỉ như một
tôn giáo, mà sáng tác theo cả một giòng nghệ thuật, gồm điêu khắc, kinh
sách, nghi lễ và tranh vẽ trên tường. Hai người Yuezhi đầu tiên dịch sách
Phật sang tiếng Hoa là Lokaksema và Dharmaraksa. Lokaksema (137-189) sanh
tại Khusan, đến Lạc Dưong dịch kinh Đại thừa. Dharmaraksa sanh tại Đôn Hoàng
năm 230, đến Lạc Dưong năm 266 dịch kinh Liên Hoa. Những công trình đầu tiên
này đã biến Lạc Dương thành một trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Trung Hoa.
Đã quen vói tuợng Phật kiểu Ấn Độ hay Trung Hoa, độc giả thử chiêm ngưỡng
tượng Phật có nét mặt, tóc, khăn áo và dép chịu ảnh hưỏng Hy Lạp và La Mã.
Ngó Phật đẹp trai và rất thể thao. Bức tuợng có chiều cao 163.8cm bằng người
thật, tìm thấy ở Pakistan, đuợc đúc duới thời vua Kanishka (127 - 151), một
vị vua Kushan bảo trợ Phật giáo nhiệt thành nhất. Hai tượng Phật lớn nhất
thế giới ở Bamian/Afghanistan cũng được coi như tác phẩm của người Kushan
vào thế kỷ thứ sáu, mới bị Taliban phá huỷ năm 2001
Đế quốc Gupta thay thế đế quốc Kushan năm 375 SCN. Lãnh đạo Kushan bị tiêu
diệt nhưng dân Indo-Scythians vẫn còn y nguyên đó, ngọai trừ một số quí tộc
di tản tứ tán: lớp trở lại vùng đất mẹ là Khotan-đất-ngọc, lớp chạy xuống
phía Nam. Có thể đền đài Angkor Wat ở Campuchia, hết sức nguy nga và huyền
bí không để lại dấu tích của chủ nhân, cũng từ đám Sogdian hay đám Kushan
này?
Nhắc Nguyệt Chi/Nhục Chi hơi dài một chút để nhớ tới tác giả Bình-nguyên
Lộc, người to tiếng với các học giả đương thời về nguồn gốc phía Nam của dân
tộc Việt. Ông chứng minh người Việt Nam KHÔNG phải là người Tàu tràn xuống,
khiến dấy lên một phong trào nơi đám sinh viên khoảng 1971-1975 ở Saigon tìm
đọc về cổ sử Việt. Môn sử địa là một môn khó nhá, thường chỉ là một dãy niên
đại tên vua chúa, chữ nghĩa đặc nghẹt, không có chút xíu bản đồ hình ảnh. Cổ
sử là độc quyền của một số rất hiếm các giáo sư, thầy dạy tới đâu trò hay
tới đó, không ý kiến hay tài liệu đọc thêm. Cho đến khi BNLộc mở ra cánh cửa
khác. Ông là người đầu tiên nhắc đến “dân tộc Nhục Chi có một số phận ngoại
hạng” và “Họ là người khai hóa Chàm và Cao Miên, Nam Dương chớ không phải
bọn Ấn Độ như những quyển sử Tây tiền chiến đã viết sai.” Bình-nguyên Lộc có
thể đã tìm tòi tới điều này. Ông đã cố gắng mang toàn thể bản thảo sang Hoa
Kỳ, nhưng giấc mộng cuối đời in tất cả nhũng gì đã viết, không thực hiện
đuợc. Mong đựoc đọc những nghiên cứu mới về nhận xét trên của BNL, hầu tìm
hiểu những nền văn minh ở phía Nam đã góp phần vào việc hình thành nền văn
hoá Việt Nam, trong đó có Phù Nam, Nam Dương, Chămpa và Cao Miên, xuyên qua
“rợ” Hồ Trung Á và Ấn Độ.
Rặng Altay, nơi xuất phát người Turkic
Tiếng Anh là Altai, tiếng Nga: Алтай Altay, tiếng Turkic: Alytau hay Altay,
tiếng Mông cổ: Алтайн нуруу Altain nuruu. Tiếng Turkic và Mông cổ đều có
nghĩa, “núi Vàng". Chỉ một địa điểm, đựoc viết duới nhiều dạng khác nhau,
cho thấy từ nguyên là một vấn đề khó đạt đựơc sự đồng thuận.
Quần sơn Altay vời vợi, nơi Nga Sô-Trung Quốc-Mông Cổ-Kazakhstan gặp nhau.
Altay đuợc xem như cái nôi hàng ngàn bộ tộc và 66 ngôn ngữ. Khối Turkic là
pha trộn hai đại chủng da vàng và da trắng sống đời du mục trên lưng ngựa
tìm đồng cỏ cho trừu, dê, ngựa... Bé con dù trai gái 5 tuổi đã cuỡi ngựa một
mình. Nhóm Turkic ban đầu chiếm ba địa bàn sát nhau: rặng Altay, bắc Mông Cổ
và thảo nguyên Trung Á. Nhân dáng họ thay đổi: càng về phía Đông càng nhiều
nét da vàng, càng về phía Tây, càng nhiều nét da trắng. Mắt từ nhỏ, xếch đến
sâu, to tròn; mầu mắt từ đen, hạt dẻ, xanh da trời, xanh lá cây nhạt. Tóc có
thể xám,vàng, đỏ, nâu hay đen.
Thành phố Urumchi “thảo nguyên xinh đẹp”
Thành phố có tên Ürümqi, ئۈرۈمچی, Ürümchi, Urumçi,
Wūlǔmùqí. Đài phát thanh
BBC gọi Ürümchi; đài RFI gọi Địch Hoá nhưng đổi là Ürümchi từ ngày 23 tháng
9. 1200 năm trước là đô thị sầm uất của Uyghur Khanate/vương quốc Uyghur nằm
trên Con Đường Tơ Lụa. Suốt một dọc lịch sử Trung Quốc, mãi đến đời nhà
Thanh, vùng này vẫn là nơi đi đầy. Thời nhà Đường, Urumchi có tên là Luân
Đài. Từ Bắc Kinh đến Luân Đài rong ruổi mất vài tháng. Thơ Sầm Tham, đàn Hồ
cùng tỳ bà với sáo Khương tấu lên môt lượt, “Luân Đài tiễn anh ra khỏi cửa.
Đường núi Thiên Sơn tuyết chan chứa”(1). Hôm qua tuyết còn rơi đọng trĩu
quân kỳ, sáng nay hoa lê đã nở trắng dẫy Thiên San, hoá ra ngàn hoa đã vào
xuân rồi đấy ư ...
Urümqi nằm dựa rặng Thiên San/Tianshan, cách 10km. Người mình biết Ürümqi
qua tiễn khúc Hòn Vọng Phu: “Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn. Vui ca
lên rồi đi tiễn binh ngoài ngàn…” lời và nhạc rồn rập như vó ngựa và bi phẫn
như nỗi buồn chinh phụ. Theo Phạm Duy, nhạc sĩ Lê Thương sáng tác Hòn Vọng
Phu cảm hứng từ bài thơ Trăng Quan San của Lý Bạch, “Trăng sáng ló Thiên
san, Mênh mang mây núi ngàn, Gió lùa bao vạn dặm, Tới ải Ngọc Môn Quan”.
Ngọc Môn Quan cách Đôn Hoàng 90 km, nơi bạch ngọc nephrite của Núi Ngọc
Qurum chào đất mẹ Kustana/Khotan lần cuối trước khi vượt Ngọc Môn Quan vào
đất Trung Hoa (3). Lý Bạch có lẽ là thi sĩ đầu tiên có hai giòng máu
Hồ-Hán, sanh đẻ ở Gansu/Cam Túc, cha người Hán, mẹ người Hồ, không rõ Hồ
Yuezhi, Hồ Xiongnu hay Hồ Persian? Tranh chân dung vẽ ông có mắt hí và xếch,
có thể chỉ là tưởng tượng.
Những con số theo trang mạng wikipedia cho thấy Ürümqi là một địa bàn đa sắc
tộc. Những nhóm nhỏ gồm người Manchu, Mongol, Xibe, Russian,Tujia, Kyrgyz,
Uzbek, Zhuang, Tatar, Tibetan, Dongxiang, Miao, Korean, dù chỉ là những mảnh
vụn lưu lạc ở Ürümqi, nhưng tổ tiên họ đều có quá khứ lẫy lừng hàng ngàn năm
trên thảo nguyên mênh mông tại địa bàn East Turkestan. Hình bìa cuốn Người
HMông (2), cô em Hmông có khuôn mặt dài, màu mắt nâu nhạt trong vắt, ngó rất
giống bà Rebiya Kadeer, lãnh đạo lưu vong hiện nay của người Uyghur. Người
HMông-Miao vẫn ghi nhớ tổ tiên họ xuất phát ở vùng một năm có “sáu tháng có
cát trắng”, tức là tuyết, có thể họ cũng phát xuất từ dãy Altay?
Bốn nhóm chính là Hán, Uyghur, Hui và Kazakhs.
1.567.562 Người Hán, chiếm 75,3%
Người Hoa Bắc có thể giống như người Uyghur, cùng là sản phẩm Turkic: lai da
vàng Mông Cổ và da trắng Yuezhi. Có thuyết ghi nhận nhóm lai này rời địa bàn
du mục qua hàng lang Cam Túc vào nội địa Trung quốc khoảng 5000 năm trước.
Họ nhận bắc Hoàng Hà làm địa bàn và đứt đoạn với nguồn gốc ngoài Cam Túc. Ba
ngàn năm sau, người Hoa không còn nhận ra nơi phát xuất ban đầu, nên gọi tổ
tiên là Yuezhi, “rợ” Di.
(Nếu đúng như vậy, người Trung Hoa không độc quyền khinh người. Không nên
nói oan cho họ khoản này. Trào nào cũng vậy, của thì lấy, người thì khinh.
In hệt người Việt Kinh thản nhiên gọi người Việt Thượng là… mọi, ăn hiếp họ
đáo để, tài liệu triều Nguyễn gọi họ là “Mọi vách đá”. Người Tây Nguyên là
chủ nhân của vùng đất trước khị bị người Chămpa lấn chiếm. Nhân vụ bauxite
đang nóng hổi, dư luận Việt hết sức lưu ý đến vị trí chiến lược và kinh tế
của vùng này, nhưng mấy ai để ý đến nguồn gốc và định mệnh mong manh của các
sắc tộc Tây Nguyên?)
Ý niệm về “người Hán” khá mơ hồ. Hán, không phải tên một sắc tộc, chỉ là tên
văn hoá. Đời Hán dài hơn 400 năm, 206 TCN–220, ý đồ bành trướng đã vươn phía
Tây Bắc tới East Turkestan, phía Nam tới Mê Linh vùng Hai Bà Trưng. Người
Hoa rất hãnh diện với trào đại Hán, nên dùng “Hán” cho nhiều ý niệm: sắc
tộc, ngôn ngữ, chữ viết, văn hoá và niềm kiêu hãnh “Đại Hán”. Họ gọi nhóm
không-Hán ở miền Nam là rợ Man. Dù người sáng lập ra “nhà Hán”, Lưu Bang,
một nông dân đi phất phơ làm nghề coi tù. Lưu Bang quê ở đất Bái, thuộc nước
Sở, nay là Giang Tô, mé biển, thuộc địa bàn Man. Sông Hán, phụ lưu của sông
Dương Tử, nơi Lưu Bang đuợc phong Hán Vương, cũng thuộc địa bàn của dân Man.
Trong thực tế, người Trung Hoa là tổng hợp hàng ngàn bộ lạc lớn nhỏ, đến nỗi
chỉ cách chừng 10 cây số, đã không hiểu nhau nói gì, khi cần phải viết thành
chữ. Hàng ngàn bộ lạc ở phía Nam sông Dương Tử, chính là khối Bách Việt/Bai
Yue, người Trung Hoa gọi là Rợ Man. Mẹ của Hai Bà Trưng, sách ghi tên Man
nương, chỉ có nghĩa “một phụ nữ người Man”. Chính thức, nhà nước Trung quốc
công nhận 5 sắc tộc lớn: Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Bai Yue/Bách Việt biến
đi đâu? Trả lời: ngoài số bị tàn sát hay di cư, số còn lại bị sát nhập vào
khối Hán. Chính “người Hán” bây giờ cũng phải công nhận thành phần Bách Việt
ấy. Sử Ký Tư Mã Thiên có ghi: "Có tám ngọn núi nổi tiếng trong đế chế. Ba
ngọn thuộc về các rợ Man và Di. Năm ngọn nằm ở Trung Quốc".
Năm 1876, khi tướng Tả Tôn Đường mang quân đi “bình định” miền East
Turkestan, ông giáo dục binh sĩ “miền đất này từ đời Hán đã thuộc về Trung
Quốc, còn đám bản địa chỉ là dị tộc. Cuộc chiến tranh này để thu hồi biên
cương cho tổ quốc…” Lời giáo dục trên bất chấp lịch sử, và khá mâu thuẫn:
tên mới của miền “đất cũ” lại là Tân Cương, Xịnjiang, có nghĩa địa phận mới.
Mai mốt đây, khi cần nuốt trọng châu Phi, Trung quốc sẽ không ngần ngại giáo
dục quân dân “người Phi và người Hoa cùng chủng, chỉ tại họ dang nắng quá,
nên có hơi đen.” Da đen, da trắng hay da vàng, chơi với thiên triều, nếu
muốn sống còn đều phải đề phòng bàì học một sáng thức dậy biến thành … dị
tộc trên đất nước của mình.
266.342 Người Uyghur chiếm 12,79%
Miền East Turkestan, một trong cái nôi ban đầu của khối Turkic, trải dài
2000km từ Đông sang Tây và 1650 km từ Bắc xuống Nam là địa bàn chính của
hàng trăm bộ lạc người Uyghur.

Người Uyghur cũng là kết quả pha trộn in hệt người Hoa: da vàng Hung Nô và
da trắng Yuezhi nhưng nằm trên Con Đường Tơ Lụa nên pha huyết thêm lần nữa
với các tộc người da trắng Ả Rập, La Mã, Hy Lạp, Ba Tư trong suốt một ngàn
năm. Người Uyghur vì vậy có hình dạng khác nhau, và
cũng khác với người Hung Nô và người Hán: có người thấp, da hơi vàng, tóc
đen, mắt nhỏ; có người cao lớn, da trắng, mắt vàng hay xanh nhạt, mũi thẳng
cao, râu tóc hung vàng hay nâu. Xác Ướp Tarim- khoảng thế kỷ 3 TCN- hiện
trưng bày tại viện bảo tàng Urumchi, có tóc hung vàng hoặc nâu đỏ. Từ thời
Đường đến nhà Nguyên, ảnh hưởng Uyghur mạnh mẽ trên trào đình Trung Hoa,
từ.văn học và sân khấu, âm nhạc và vũ điệu, hội hoạ và kiến trúc, giáo đường
và điêu khắc, lầu đài và vườn hoa đến dược thảo và cách trị liệu. Chỉ riêng
âm nhạc, người Uyghur có tới 62 nhạc cụ khác nhau. Ngay cả màn châm cứu bằng
kim cả thế giới tưởng của người Hoa, cũng xuất xứ từ Uyghur. Thượng đế tặng
cho họ bàn tay như có phép mầu, khéo léo vô song từ dệt thảm đến nữ trang;
từ bình hoa, bình trà tỉ mỉ đến giáo đường nguy nga.
167.148 Người Hui, chiếm 8,03%
Khu vực có đông người Hui gần Tân Cương nhất, là Khu Tự Trị Dân Tộc Hồi Ninh
Hạ, một trong năm khu tự trị. Cùng với Tây Tạng, đây là vùng nghèo nhất
Trung quốc. Ngày xưa, người Hui Tây Hạ cũng có nhiều sản phẩm giàu có như
người Uyghur, có thể cũng là động lực khiến Trung Hoa phải ăn gỏi đám “rợ”
này. Họ có nước da đậm, mắt nhạt màu.
Tuy cùng sắc tộc, phong tục người Hui Ninh Hạ rất khác người Uyghur. Tiểu
thuyết kiếm hiệp của Kim Dung lấy Tây Hạ làm khung cảnh với những nhân vật
đáng yêu: các công chúa Tây Hạ (có tên Trung Hoa): công chúa Ngân Xuyên,
Công chúa Văn Nghi, công chúa Mộng Cô. Quốc vương Tây Hạ xuống chiếu bằng
tiếng Tây Hạ cho quần hùng quần tà hay các công chúa kén chồng. Có thể tục
công chúa kén chồng Trung Hoa phát xuất từ Tây Hạ. Kim Dung còn cho quái
kiệt Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt cóc Hư Trúc đem qua Tây Hạ giấu trong hầm nước
đá, ép Hư Trúc phải ăn mặn và chung giựờng với công chúa xuân tình, khiến
sau đó tiểu hoà thượng chớ phở thấy làm người phàm hấp dẫn hơn nhiều. Độc
giả khoan khoan xuống tóc làm tiểu hoà thượng, làm gì còn công chúa Tây Hạ
nào cho độc giả cầu thân!
48.772 Người Kazakhs, chiếm 2,34%
Người Kazakhs là bộ tộc Turk thuộc vùng Wusun, phía Bắc rặng Tianshan/Thiên
San, rất hùng mạnh vào thế kỷ thứ nhất TCN, liên kết với Trương Khiên khi
ông này vâng lệnh vua Hán đi tìm đồng minh diệt Hung Nô.
Người Kazakhs giỏi võ nghệ, có môn săn bắn bằng chim ưng rất độc đáo. Có lẽ
tên Huihe, 回鶻, đọc là Hủi I, có nghĩa Hui Chim Ưng xuất phát từ họ. Đa số
người Kazakhs chăn nuôi trừu và dê. Chỉ một số nhỏ trồng trọt hay buôn bán.
Con Đường Tơ Lụa biến miền đất của họ thành trù phú. Họ sống trong lều
yurts, có thể nhanh chóng ráp nối bằng cọc, da thuộc và thảm dệt thêu rực
rỡ. Vào mùa đông giá, họ mới chịu ở trong lều, uống trà sữa dê và ca hát.


Họ ăn thịt, uống sữa trừu, bò và lạc đà. Cũng như người HMong, tuy du mục,
nữ trang Kazakhs rất tinh xảo và có phong cách riêng. Họ mặc quần áo bằng da
trừu, da nai, da chó sói. Khi Khotan có bông vải, họ tự dệt vải nhuộm màu
với những motif rất lạ mắt. Đàn ông mặc áo khoác thêu tay đẹp hơn áo của nhà
Christian Dior. Áo Jacket và áo gilet là từ người Kazakhs. Các cô mặc váy
xếp nếp, áo tay dài thêu công phu. Người già vui với truyện kể không bao giờ
hết về nuôi dậy chim ưng, đánh nhau với chó sói; người trẻ say mê âm nhạc ca
tụng tình yêu và gíó tuyết. Chỉ cần một chuỗi thanh âm ríu rít từ đàn
Dongbula, thanh niên thiếu nữ ngưng công việc và cuốn hút ngay vào điệu nhảy
nhí nhảnh. Mũ hoa mới thêu, mùi thịt trừu nướng lẫn trong mùi cỏ, đeo vòng
bạc cho chú dê mới sanh…cuộc sống thảo nguyên hoá thân vào tiếng đàn điệu
múa, chan hoà một giòng sông văn hoá Kazakhs mà du lịch Trung Hoa ngày nay
trình diễn trên sân khấu khá vụng về, quảng cáo om xòm “Chinese culture”,
nhưng khách du lịch dễ tính tin sống tin chết.
Văn minh Tây Vực vào Trung Hoa qua ngả Tân Cương
Hai ngàn năm trước, người Hoa gọi vùng mênh mông từ Tân Cương, Trung Á, Tây
Á là Tây Vực. Dân cư gồm người Xiongnu/Hung Nô, Yuezhi/Nguyệt Chi,
Greco-Bactrian/Hy Lạp, Persian/Ba Tư, Turkic, Indian/Ấn Độ. Mỗi đế quốc lại
đặt tên đánh dấu ảnh hưởng của họ, nhưng dân cư thì vẫn chỉ thuộc hai đại
chủng da vàng và da trắng. Mỗi chủng lại có nhiều chi chủng. Người Hoa gọi
tuốt luốt là “rợ Hồ”.
Tràng An đời Đường, dân không-Hán lên đến một triệu người, đủ thứ “rợ”.
Đông nhất là “rợ” Hồ, tăng lữ, nhạc sư, hoạ sĩ, vũ sư, học giả, quan văn
võ, nhất là thương nhân. Trung tâm buôn bán của Trường An là của người Hồ.
Trường An có nhiều Hồ điếm (cửa hàng), Hồ đề (khách sạn). Trường An đầy văn
hoá Hồ: bạch ngọc Hồ, tôn giáo Hồ, sáo Hồ, múa Hồ, y phục Hồ, ăn uống kiểu
Hồ, bánh trái Hồ, rượu nho Hồ rót trong chén dạ quang Hồ. Ngựa Hồ đáng giá
hơn cả mạng người. Xứ Trung Hoa có mía, nhưng phải đợi đến người Hồ mới biết
làm đường. Lý Bạch tả các cô gái Hồ nơi quán ruợư “Đẹp như hoa không biết ở
đâu lạc đến thế này?”
Người Hồ Ả Rập vào Trung Hoa mang theo hương liệu, ngà voi. Người Hồ Ấn độ
mang đá quí, ngọc trai, trầm hương. Nhóm ảnh hưởng nhất tới Trung Hoa là Hồ
Ba Tư nhờ địa bàn sát bên: vương triều Saka ở Khotan, cung cấp bạch ngọc
nephrite và thợ khéo. Tại Trường An, người Ba Tư mở nhà hàng nấu món ăn
Trung Á. Họ giới thiệu với giới văn nhân, học giả môn cỡi ngựa đánh cầu,
thảm quí, nước hoa, đồ dùng bằng vàng bạc. Họ mang đến trào đình thú lạ,
chim quí, cây kiểng, thuốc men, đồ thêu, tranh vẽ, âm nhạc, nữ trang, đồ
sành sứ, đồ thuỷ tinh…Họ là người đánh giá các món nữ trang bằng vàng bằng
ngọc bằng mắt thường. Nữ trang của họ vẽ riêng cho trào đình, thợ Trung Hoa
(hồi đó hay bây giờ) không làm nổi, phải mời “rợ” Hồ qua với đãi ngộ đặc
biệt, không tù đầy giam lỏng hay đe doạ chặt đầu như với đám thợ người Hoa.
Đồ cổ ngoạn bằng ngọc tinh xảo mỏng chừng 3mm của hoàng gia, chắc chắn do
tay nghệ sĩ “rợ” Hồ Yuezhi. Nhà Đường (618-907), mà ông vua chuộng mỹ thuật,
ham chơi là Đường Minh Hoàng nhất nhất bắt chước rợ Hồ, kể cả sủng ái tướng
An Lộc Sơn -người Đột Quyết-. cho đến khi mất ngôi.
Người mình quen gọi “Ba Tư” cho cả đế quốc Persia và quốc gia Iran. Iran
ngày nay chỉ rộng 1,648,195km2, chỉ là một cái đuôi sao chổi của đế quốc
Persia. Đế quốc này là một chuỗi những triều đại khởi đi từ cao nguyên Iran
trong hơn 6000 năm. Huy hoàng nhất, dưới trào Darius đại đế (522 - 485 TCN),
Persia trải từ Tây Á châu, Trung Á, vùng Caucasus, đến cả Bắc Phi, phủ một
diện tích 7.500.000 km², với nhiều chủng tộc, triều đại…Nhưng sắc dân độc
giả thoáng thấy trong bài này như Parthia, Sogdiana, Yuezhi, Saka, Scythia,
Khotan, được các học giả phương Tây xếp vào tộc da trắng Indo-Aryan, lý do
vì họ dưới sự cai trị của người Perse, không có nghĩa là họ cùng sắc tộc/văn
hoá/tôn giáo với người Perse. Năm 1935, Vua Reza yêu cầu cộng đồng thế giới
gọi Persia là Iran. Các học giả phản đối cho rằng việc đổi tên sẽ làm mất đi
quá khứ huy hoàng. Vì vậy năm 1959, vua Mohammad Reza kế vị, cho lệnh dùng
cả hai tên. Ngày nay, tên Iran dùng trong chính trị ngoại giao, còn tên
Persia dùng cho văn hoá và lịch sử.
Nói chung, giữa Tây Vực và Trung Hoa, sự giao lưu kinh tế và văn hoá đã biến
đổi toàn vùng thành một nơi muôn màu muôn vẻ. Người Hoa cũng xuất cảng sản
phẩm sang Tây Vực, giấy, la bàn, trà, thuốc súng, kỹ thuật in ấn, đào giếng,
và nhất là tơ lụa. Triều đình Trung Hoa nào cũng chuộng hàng hoá rợ Hồ. Duy
nhất, chỉ Từ Hy Thái Hậu bài ngoại mù quáng, cái gì cũng cho là quỉ sứ,
ngoại trừ bạch ngọc nephrite giữ khư khư. Đời GiangThanh mù quáng không kém,
đến nỗi có lúc bao nhiêu vườn nho ở Tân Cương phải đào xới vứt đi.
Thời điểm người Tây Vực vào Trung hoa
Thống kê năm 1990, số Muslim ở Trung Hoa 17.6 triệu: gồm 8.6 triệu Hui; 7.2
triệu Uighur; 1.1 triệu Kazakhs; 375,000 Kyrghyz; 33,500 Tajik và 14,500
Uzbeks. Người Tây Vực đến Trung Hoa vào nhiều thời điểm, cả đường bộ lẫn
đường biển.
Phía Tây Bắc Trung Hoa, sau khi Con Đường Tơ Lụa hình thành thế kỷ thứ ba
TCN, người Ả Rập, Ba Tư, Trung Á và Mông Cổ đổ vào đất Trung Hoa như nhũng
con bướm say ánh đèn đêm. Họ băng sa mạc, vượt núi non trên lưng những con
lạc đà chất đầy hàng hoá. Mỗi chuyến đi về có thể từ 2 đến 8 năm. Vì vậy,
dần dần có những người định cư ở Tràng An.
Phía Đông Nam Trung Hoa, thế kỷ thứ 7 đời nhà Đường, một số thương nhân
Arabia/Ả Rập và Persian/Ba Tư tới Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tô, Hàng Châu
bằng đường biển. Quảng Châu từ đó đụơc xem là “Con Đường Tơ Lụa” trên biển
nối với Con Đường Gia Vị đã có từ 3000 năm TCN bởi những thương nhân từ bán
đảo Ấn độ đến Ả Rập, La Mã, Ai Cập. Những thứ như quế, hồi, đậu khấu, gừng
nghệ, muối …3000 năm trứơc đồng nghĩa với lối sống xa hoa và những chuyện
thần kỳ kiểu Ngàn Lẻ Một Đêm. Giữa mùi hành tiêu tỏi ớt cay nồng thấp thoáng
bóng giai nhân uốn mềm như rắn thơm như trầm hương mát như sữa dê khiến quỉ
thần trên thiên giới hân hoan xếp hàng đợi bị đầy xuống trần gian.
Năm 758, vua Đường Túc Tông, kế vị Đường Minh Hoàng, cầu cứu vua Abbasid ở
Baghdad gửi 20,000 quân dẹp loạn An Lộc Sơn. Sau đó, đám 20,000 này ở lại
Cam Túc và Ninh Hạ.
Năm 801, người Tây Tạng tuyển 20,000 lính đánh thuê người Arab và Sogdian
giúp họ đánh nhau với đế quốc Nam Chiếu/Nanzhao ở Vân Nam. Người Tây Tạng bị
thua, nhưng đám quân nhân này vẫn ở lại Tây Tạng. Từ đó, người Tây Tạng trở
thành đồng minh duy nhất của người Hui. Năm 1652, vị Đat Lai Lạt Ma Thứ Năm
đến thăm Ngân Xuyên, thủ đô của Ninh Hạ/Ningxia.
Khoảng 1070-1080, vua Tống Thần Tông mời 15,000 quân Ả Rập đến làm vùng đệm giữa
Trung Hoa và đế quốc Liêu của người Khiết Đan. Độc giả có thể nhẩn nha đọc
lại đoạn sử này đựơc tiểu thuyết hoá trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung,
với bi kịch muôn đời tình nưóc/tình riêng, Tiêu Phong tráng sĩ bồng xác A
Châu ngơ ngác giữa Nhạn Môn Quan không biết về đâu.
Đại hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt (1215-1294) sáng lập nhà Nguyên mang 3 triệu
người Trung Á vào Trung Hoa giúp phù tá triều đại của ông. Họ là quân nhân
trung thành, thương nhân thành công và là thợ khéo. Duới thời nhà Đường đến
nhà Nguyên, tiếng Trung Hoa gọi người Muslim ở East Turkestan là Uyghur, gọi
người Muslin ở Ninh Hạ và trong nội địa là Hui. Người Hui gần gũi với người
Hán về ngôn ngữ, chữ viết, văn hoá, phong tục. Người Uyghur, nguợc lại,
không hề chia sẻ với người Hán điều gì. Câu nói phổ thông cho thấy tình
trạng giữa hai khối trong/ngoài quan ải:
Người Uyghur ghét người Hui vì họ là người Hán.
Người Hán ghét người
Hui vì họ theo Islam.
Thâm cung bí sử cho Chu Nguyên Chương (1328-1398) gốc gác xa gần là người
Hui. Vì vậy đám Minh giáo (gồm Hoả giáo và Mani giáo, thờ lửa) hết lòng phò
tá ông. Để trả ơn, Chu đặt tên triều đại của ông là “Minh triều”. Triều Minh
che chở người Hui khỏi sự nguợc đãi của người Hán, cho họ nhiều đặc quyền về
tôn giáo, chính trị. Họ là những sử gia, nhà toán học, thiên văn, học giả,
thầy giáo, thông dịch, cận thần tin cậy, sứ thần ở Roma, Bagdad và Istanbul.
Họ đã đủ đông làm một cộng đồng Huihe giầu có và vững mạnh. Họ không chỉ nắm
thương trường, nghệ thuật mà còn can thiệp vào cả chính trường Trung Hoa.
Tuy vậy, Chu ra lệnh bắt họ phải kết hôn với người Hoa, nói tiếng Hoa và y
phục kiểu Hoa. Từ đó, người Hui mất dần căn tính Hui. Gần cuối đời, Chu
Nguyên Chương, tức Minh Thái Tổ chợt sợ rằng chính đám Minh giáo này có thể
đe doạ ngai vàng của ông, nên đang từ Minh giáo sáng chói, ông đàn áp họ,
cho họ là Ma giáo, khiến đám Nho gia hết sức hả hê. Tiểu thuyết gia Kim Dung
hình như không đồng ý với điều này, nên đã xây dựng nhiều nhân vật Minh giáo
xuất sắc trong bộ Cô Gái Đồ Long, trong đó Trương Vô Kỵ xả thân cứu Minh
giáo. Giòng văn chương/văn học Việt Nam còn thiếu một ngòi bút như Kim Dung
nói lên những bề khuất đầy rẫy trong của sử Việt.
Ngươi Huihui nội địa là hậu duệ của cả hai ngả di dân đường biển và đường bộ
nói trên. Họ có những dây liên hệ kinh tế và văn hoá với người Hán và người
Mông Cổ. Họ ở rải rác khắp nứơc Trung Hoa quây quần xung quanh thánh đường
Islam. Khi lập gia đình với các sắc tộc khác, họ cải tên Muslim cho ngắn
bót:
Sai cho Said;
Sha cho Shah;
Ha cho Hasan;
Hu cho Hussein;
Zheng cho Shams;
Chuah cho Osman;
Koay cho Kamaruddin;
Ma, Mu, Han cho Muhammad;
Người Hui nổi tiếng nhất là thái giám Hajji Mahmud Shams,
حجّي محمود شمس ,
tên Trung Hoa: Zheng He, tên Việt: Trịnh Hoà (1371–1433), nhà hàng hải kiêm
ngoại giao Muslim nổi tiếng. Ông là hậu duệ đời thứ 6 của Sayyid Ajjal
Shams al-Din Omar, một viên quan ở Vân Nam, có gốc gác từ thủ đô Bukhara của
nứơc Sogdiana - Uzbekistan hiện nay. Sinh tại Vân Nam, năm 11 tuổi Zheng He
bị tuyển làm thái giám cho triều Minh. Ông mất khi ghé một hải cảng ở Ấn Độ.
Zheng He được thuỷ táng, mộ phần trống rỗng ở Vân Nam quạnh quẽ. Ông không
may mắn như những thái giám chết già khác: không được nhận lại phần thưởng
cuối cùng từ lệnh thiên tử: bộ phận sinh dục đã héo khô chứa trong một cái
chai khằng kín.
Chiến dịch “biển Đông” được trào đình nhà Minh tài trợ, cho thấy Trung Hoa
đã sắp xếp một trật tự mới để từ vùng biển phía Nam hướng ra thế giới. Bẩy
chuyến hải hành trong 30 năm, mang về quà cáp biếu xén, uy danh và liên hệ
kinh tế cho trào đình. Tuy vậy gây phản ứng ngược nơi đám Nho gia, là đám có
nỗi sợ hãi kinh niên “sợ thay đổi”, có thể làm vị trí của họ lung lay. Dưói
áp lực ấy trào đình nhà Minh chỉ coi thành công của Trịnh Hoà như “duyên
dáng Minh trào”. Thái độ vừa sợ hãi vừa kênh kiệu ấy Thanh triều về sau sao
cóp y chang. Cái giá phải trả là hoàng thành bị bọn “quỉ đỏ” Tây Dương đốt
phá, triều đại sụp đổ. Tương tự hoàn cảnh ông Nguyễn Trường Tộ duới trào vua
Tự Đức và định mệnh của trào Nguyễn Việt Nam.
Sang đến nhà Thanh (1644 - 1912) thời kỳ đen tối của người Hui thật sự bắt
đầu. Dân Hán và triều đình ngày càng kỳ thị người Hui. Từ 1648 đến 1878, ở
East Turkistan 12 triệu người Hui và Uyghur bị giết trong mười lần nổi dậy.
Năm 1845, ở Tây Bắc Vân Nam quân đội và người Hán tàn sát người Hui trong 3
ngày. Biến cố đẫm máu này tạo nên cuộc khởi nghĩa Panthay (1856–1873) ở Vân
Nam, người Hui chủ trương ly khai. Kết quả 1 triệu người chết, cả người Hui
lẫn người Hán, một số người Hui đào thoát sang Miến Điện, hiện nay trở thành
một quyền lực lớn ở khu Golden Triangle/Tam Giác Vàng, nắm giữ nhiều mối lợi
lớn về thuốc phiện, vàng, ruby và Burmese Jade. Ở Thiểm Tây (1862-1877), một
cuộc nổi dậy khác khiến dân số người Hui từ 1,700,000 chỉ còn 150,000 người.
Điểm chung duy nhất: Islam ?
Truớc khi theo Islam, người Turkestan theo các tôn giáo/hệ thống tư tưởng
khác như Shaman, Ki Tô, Do Thái, Phật, Mani và Zoroastrianism/Hoả giáo,
Nestorian (Ki Tô Giáo phương Đông).
Thế kỷ thứ 8, Islam bắt đầu nở rộ ở Medina/Arab Seoudite. Từ thế kỷ thứ 10,
Islam thay thế đạo Phật ở khu vực Trung Á và East Turkestan. Theo tiếng
Arabic, “Islam” để chỉ tôn giáo, “Muslim”để chỉ tín đồ Islam. Phật giáo và
Ki-Tô giáo được đặt theo tên của giáo chủ sáng lập, còn Islam và Muslim là
tên đuợc mặc khải, có ghi chép trong kinh Qur’an, không phải do tín đồ tự
đặt.
Tính đến tháng tư 2009, có 1.4 đến 1.6 tỷ tín đồ Islam khắp thế giới. Cứ 5
người có 1 người theo Islam. Theo thống kê của CIA Online World Factbook,
bốn quốc gia có đông người Muslim nhất: Indonesia 204 triệu, Pakistan 164
triệu, India 154 triệu, Bangladesh 128 triệu. Đa số người Turks theo phái
Sunni Muslims. Thiên sứ Mohammed qua đời, không chỉ định người kế vị. Sunni
chấp nhận cả bốn Caliphs (hoàng đế) kế vị thiên sứ Mohammed là chính thống.
Trái lại, Shiites cho rằng chỉ một mình Ali, anh em họ và cũng là con rể cuả
thiên sứ Mohammed, mới là chân truyền.
Ngày 13-7-2009, bài viết của Moisés Naím tựa đề “Mute Muslims/ Sự Im Lặng
của Người Muslims” (4) nêu lên câu hỏi cho toàn khối Muslim. Bài báo nhắc
biến cố 17/9/2005, một tờ báo Đan Mạch đăng hý hoạ nội dung kém kính trọng
thiên sứ Muhammed, đã gặp phản ứng giận dữ của cả khối Hồi giáo. Toà lãnh sự
Đan Mạch ở Beirut bị đốt. Ở Afghanistan, Pakistan và Somalia, xô xát đến tử
vong. Ở Damacus, đám đông phẫn nộ đốt hai toà đại sứ Na Uy-Đan Mạch. Ở
Tehran, tổng thống Ahmadinejad cho đăng hý họa nhạo báng thói đạo đức giả
của Tây Phương trong vụ Holocaust tàn sát người Do Thái. Ông Naím đặt câu
hỏi “Vậy tại sao năm 2009 khối Muslim yên lặng trước hành vi đàn áp tàn bạo
của chính quyền Trung Hoa với người Urghuy ngày 6-7-2009?” Những đàn áp này
có từ những năm 1990. Phụ nữ bị đoạn sản. Tiếng Uyghur không đựoc dậy ở
trường học. Công chức không đựoc để râu và quàng khăn. Không được cầu nguyện
hay ăn chay trong giờ làm việc. Công việc bị người Hán lấn chiếm. Nhà cửa
tốt chỉ dành cho người Hán. Thanh niên Uyghur bụộc phải làm xa thành phố,
nhường chỗ cho người Hán di cư đến. Tất cả những mầm mống chống cự đều bị
coi là khủng bố, lãnh tụ bị bắt giam. Nhũng siêu thị ngạo nghễ cạnh thánh
đường Islam hàng ngàn năm tuổi. Năm 2004, môt đoàn vũ công Uyghur trình diễn
tại Canada đã xin tỵ nạn chính trị, vì sau khi trình diễn, họ bị nhân viên
Trung Hoa ép phải uống rưọư và khiêu vũ, trái với đạo đức người Uyghur.
Câu hỏi của Moisés Naím rơi vào yên lặng không kém.
Uyghur trong quĩ đạo Trung Quốc
Người Mãn Châu thành lập đế quốc Thanh năm 1644 đã sáp nhập Mông Cổ, Tân
Cương, và Tây Tạng năm 1759. Nhà Thanh chỉ bị lui bước ở Miến Điện và Đại
Việt với chiến thắng của vua Quang Trung ở trận Đống Đa. Bức tranh dưới đây
mô tả trận chiến giữa quân Thanh và người Uyghur thời gian này.

Sau những
năm chiến tranh đẫm máu, tháng 11/1884, East Turkestan bị sát nhập vào Trung
quốc vói tên mới Xinjiang/Tân Cương. Từ đó, uy danh, văn hoá của East
Turkestan ở bên bờ vực thẳm. Sau khi lực lượng Trung Hoa Quốc Gia lật đổ nhà
Mãn Thanh năm 1911, người Uyghur khởi nghĩa nhiều lần. Họ chống nhà Thanh,
chống người Anh, chống chính phủ bù nhìn do người Anh dựng lên. Họ đánh bật
quân đội Nga Sô ra khỏi khu vực Ili. Tất cả những chiến đấu gian khổ đó rốt
cuộc vẫn không dành đựoc độc lập. Tháng 10 năm 1955, họ đựoc “chỉ định” là
một khu tự trị của Trung quốc. Năm 1949, người Hán chỉ chiếm 6%, hiện nay là
40% với 7.5 triệu người.
Bức ảnh duới đây chụp tình cờ, nói lên đựơc nỗi lòng người Uyghur? Ông râu
trắng xoá kề cận bên mái tóc cháu còn xanh. Giống nhau chăng là sự bất an,
cái nhìn của người ông chịu đựng đầy nghi ngại và bé gái tí teo đã bậm môi
đẫm căm hờn.

Một thi sĩ người Uyghur, Abduhalik Uyghur , ئابدۇخالىق ئۇيغۇر, hấp thụ cả
năm nền học vấn: Islam, Trung Hoa, Ả Rập, Ba Tư và Liên Sô. Abduhalik làm
nhiều thơ nhằm đánh thức người Uyghur trước nguy cơ bị Trung Hoa tiêu diệt.
Bài thơ Oyghan (Wake Up, Hãy Thức Dậy) sáng tác năm 20 tuổi. Thơ của
Abduhalik không gục mặt xin xỏ lặt vặt “xin cho tôi một thoáng rượu cay” hay
thở dài than ngắn “một ngàn năm nô lệ giặc Tầu”. Abduhalik bị người Trung
Hoa hành hình vào tuổi 32. Bạn đọc nào muốn dịch bài Wake Up/Oyghan sang
tiếng Việt và lưu lại trên net, cứ tự nhiên vào web (5)
Xin dịch thoát 8 câu:
Này người Uyghur khốn khổ, thức dậy đi từ cơn ngủ đã dài
Người còn gì đâu ngoài mạng sống mỏng manh
Nếu không tự cứu khỏi cái chết
Phút tàn sinh sẽ chẳng còn bao lâu nữa
Hãy mở to mắt nhìn quanh,
Tương lai sẽ ra sao
Nếu lỡ dịp may này vuột khỏi tầm tay
Mai này sẽ chỉ là một nỗi ăn năn vô tận
Người Việt sính làm thơ. Việt Nam thời anh hùng thơ khác bây giờ. Năm 1284,
từ vua đến dân cùng nức lòng thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát” -diệt
quân Nguyên. Thượng tướng Trần Quang Khải vừa đánh giặc vừa làm thơ
“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử diệt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu”
Để trả lời doạ nạt, dụ dỗ của tướng Nguyên, danh tướng Trần Bình Trọng đanh
thép trả lời: Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta
đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thôi”. Câu nói bật
ra lúc đao kiếm đang kề vào o cổ chứng tỏ ý chí tự chủ và tinh thần “vô uý”
của Phật giáo triều Trần thấm rất sâu. Câu nói này là dấu ấn của một triều
đại đặc biệt trong sử Việt: là dân di cư từ vùng biển Phúc Kiến, thuộc Bai
Yue/Bách Việt, đến duyên hải Đại Việt mới hơn 100 năm, triều Trần là triều
đại chống cự Bắc phương dữ dội nhất: chống quân Mông cổ năm 1257, và chống
quân Nguyên hai lần năm 1284, 1287. Ông hoàng trẻ hy sinh tháng 2 (âm lịch)
năm 1285, vừa 26 tuổi. Hình như không có một ngày giỗ tầm cỡ quốc gia tưởng
nhớ đến ông?
Vị trí cuả Tân Cương đối với Trung quốc
Trong cuốn Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt, ông Bình-nguyên Lộc cho rằng
một trong nguyên nhân nhà Hán chiếm Chămpa, khai thác mỏ đơn sa dùng làm vị
thuốc, người Hoa gọi là thần sa, châu sa, mỏ ấy ở tại Cù Lao Chàm, người
Chàm khai thác đến đời Tống thì cạn. Giấc mơ Đại Hán không chỉ đơn giản có
thế. Nguợc lại, tầm nhìn gấp trăm lần nhằm thực hiện chủ nghĩa bành trướng
và đế quốc: làm chủ toàn vùng, cả trên bộ lẫn trên biển.
Suốt 2000 năm, từ thế kỷ 5 TCN cho đến thế kỷ 16, không bao giờ Trung quốc
thoát khỏi ám ảnh bị người ngoài tấn công. Vạn Lý Trường Thành là bằng chứng
lịch sử cho sợ hãi đó. Chiếm đựơc vùng làm trái độn là vấn đề sinh tử với họ
khiến ngay từ năm 126 TCN, nhà Tây Hán phái Trương Khiên thám hiểm phía cực
Tây tìm đồng minh. Sau khi Con Đường Tơ Lụa hình thành ở phía Bắc, có thể
nhà Hán căn cứ vào sự giầu có của xứ Chămpa, mơ màng kết nối Trung Hoa với
Con Đường Gia Vị có từ 2000 năm truớc. “He who controls the spice, controls
the universe/Ai nắm gia vị, sẽ nắm đựơc thế giới”. Alfred Mahan, sử gia và
chiến lược gia của quân đội Mỹ cũng nói câu xanh rờn như vậy “Ai làm chủ mặt
biển, làm chủ cả thế giới”. Nước Việt may mắn có muối, gừng, tỏi, hành, quế,
hạt tiêu, trầm hưong…Có cả biển, nhưng không gian của giới Nho gia lãnh đạo,
vui với “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” có chút xíu xìu xiu sóng biếc theo
làn hơi gợn tí tẹo tèo teo. Vì vậy không có thương thuyền, hạm đội, mậu dịch
hàng hải??
Chỉ cần nhìn trên bản đồ Silk Road (mầu đỏ) và Spice Road (màu xanh), có thể
hiểu tại sao người Hoa Bắc phải chiếm Đại Việt và Chămpa ngay từ thời Đông
Hán.

Ngày nay, Trung quốc phải chiếm và giữ East Turkestan cho bằng được. Trung
quốc là một lục địa cổ, cũng giống như châu Âu, khai thác đã cạn, nên phụ
thuộc nuớc ngoài về cả tiêu thụ lẫn khai thác nhiên liệu. Hoặc chưa cạn,
nhưng cũng giống như Hoa Kỳ, khai thác thiên hạ truớc. Trung Quốc vì vậy cần
đến những thuộc địa kinh tế.
Trong khi châu Phi xa xôi và khó lòng đồng hoá bằng văn hoá, ngôn ngữ hay
hôn nhân mà Trung quốc còn thò tay tới, nói chi Tân Cưong cùng biên giới.
East Turkestan/Tân Cương rộng 1.6 triệu km² , gấp bốn lần tiểu bang
California, bằng Iran, bằng cả phía Tây châu Âu, và chiếm 1/6 diện tích toàn
thể Trung quốc. East Turkestan là một vùng địa lý đa dạng, có sa mạc, núi,
sông, hồ, đồng cỏ, rừng rậm. Đây là một vùng giầu có, ngoài chăn nuôi, còn
có than đá, dầu lửa, quặng sắt. Đường ống dẫn hơi đốt từ Khazakhstan tới
Trung quốc xuyên qua Tân Cương.
Trung quốc đã thiết lập một số trung tâm nguyên tử lực ở Tân Cương. Có cả
thẩy 45 lần thử nghiệm bom nguyên tử ở vùng hồ Lop Nur, đông bắc Tân Cương.
Lần đầu tiên ngày 16 tháng 10, 1964. Từ đó, tỷ lệ ung thư nơi cư dân tăng từ
30 đến 35% so với địa phương khác. Xin mở dấu ngoặc: Hoa Kỳ cũng thử bom
nguyên tử ở tiểu bang Nevada từ 1951 đến 1992. Người Da Đỏ, chủ nhân đầu
tiên của châu Mỹ, đựợc thuê mướn để đào chất Uranium dưói đất mà không hề
đựơc thông báo về sự nguy hiểm chết người của chất này. Mãi đến tháng
2/2007, quốc hội tiểu bang Nevada mới biểu quyết cấm việc tiếp tục thử
nghiệm bom nguyên tử ở Nevada. Rốt cuộc quốc hội cũng tỉnh cơn ngủ gật dài
hơn 50 năm, chơi đẹp một cú dọn đường lên thiên đàng. Đóng dấu ngoặc.
Hai ngàn năm truớc, người Trung Hoa không bao giờ mơ màng đến việc đánh Ấn
Độ. Nhưng ngó trên bản đồ ngày nay, Trung Hoa đang ở trên đầu Ấn Độ.
Năm 1962, Trung quốc chặt đẹp Ấn Độ một cú thình lình. Lúc đó, thủ tướng Ấn
Độ là Nehru. Phía Trung Hoa có thủ tướng Chu Ân Lai. Nguyên nhân tranh chấp
là tiểu bang Arunachal Pradesh, có mỏ dầu lửa rất lớn; hồi nào tới giờ thuộc
Ấn Độ, dân chúng Ấn Độ, nói tiếng Ấn Độ. Đàn anh Trung Quốc ngang xương đặt
tên mới là Nam Tây Tạng, và tuyên bố “chủ quyền không thể chối cãi”. Nghe
rất quen. Cuộc chiến kéo dài 41 ngày. Tổn thất về phía Ấn Độ: 3,128 chết,
3,123 bị bắt, 1,047 bị thương, phía Trung quốc 722 chết, 2 bị bắt và 1,697
bị thương.
Trung quốc tuyên bố thắng trận,“dậy cho Ấn độ” một bài học. Ấn Độ mất hai
vùng đất thuộc bang Arunachal Pradesh. Vừa có của vừa ráp ranh với Trung
quốc, người Ấn Độ lại vừa thiền vừa mơ ngủ theo chính sách “bất bạo động”của
Ghandhi! Thủ tướng Nehru thú nhận “Chúng tôi sống trong thiên đàng hão
huyền/We were living in fool`s paradise”. Sống đời này lại cứ vun xới thiên
đàng ở đời sau! Nghe cũng rất quen! Bài học này không chỉ riêng cho Ấn Độ.
Uigur và Việt Nam: có chung nỗi ăn năn vô tận?
Lúc này, cần nhớ đến Bình-nguyên Lộc với lòng kính trọng. Ông là người đầu
tiên chứng minh nguồn gốc phương Nam của dân Việt khi đối diện với giả thiết
của các học giả đương thời chủ trương “người VN là từ Trung Hoa tràn xuống”.
Ông cay đắng “Ta vừa hợp máu với họ lại làm thầy của họ thì xí xoá hằm bà
làng, thế nào xong thì thôi, đảo Hoàng Sa của ta hay của họ cũng chẳng có gì
quan trọng mà phải tranh chấp” (6).
Việt Nam giống/khác Uyghur nhiều điểm:
Người Uyghur có chữ viết, có ngựa quí, có thương mại, có nghệ thuật nhưng
vẫn bị Trung Hoa sát nhập.
Uyghur và Việt Nam cùng bị Mông Cổ xâm lăng.
Việt Nam, bền bỉ giữ vững độc lập kể từ chiến công của Ngô Quyền (898-944)
đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt 1000 năm Bắc thưộc.
Việt Nam, tiếp thu văn hoá Hán, nhưng không bị Hán hoá, trái lại đồng hoá
những lớp người Hán di tản đến Việt Nam
Việt Nam không có cộng đồng tôn giáo thế giới hậu thuẫn sau lưng.
Người Uyghur, người Mông Cổ một thời lừng danh đế quốc. Ngày nay, tên Uyghur
không còn trên bản đồ. Thế giới, kể cả Đại Hán, đã quằn mình dưói gót ngựa
Mông Cổ, từ Âu sang Á. Tên Mongoloid từng đuợc đặt cho một trong bốn chủng
lớn của nhân loại. Ngày nay Mông Cổ chỉ còn chừng 4 triệu dân, âu sầu gậm
nhấm hào quang cũ.
Người Uyghur sống chết với thảo nguyên, nơi linh hồn bay trên ngọn bạch
dương và râu tóc lẫn trong cát mịn. Năm 2009, người Việt sống chết với điều
chi?
----------------------------------------------------
©
trần thị vĩnh tường (tháng chín 2009)
Chú thích
(1) Bạch tuyết ca tống Vũ Phán quan quy kinh - Sầm Tham
http://www.hoasontrang.us/tangpoems/duongthi.php?loi=210
Web rất đẹp. Bản dịch của Nguyễn Bích Ngô
và Tương Như (Nam Trân)
(2) Người HMông - Chu Tháí Sơn và Trần Thị Thu Thuỷ, NXB Trẻ 2005
(3) http://vietsciences.org/timhieu/tramhoa/moiduyenxua.htm
(4) http://www.foreignpolicy.com/articles/2009/07/13/mute_muslims
(5) http://bizuyghur.com/oyghan/oyghan_en.html.
(6) Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt – Bình-nguyên Lộc- Saigon 1971, có thể
đọc trên mạng http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10965&rb=08