Tân Sơn Nhất
Khởi hành từ Tân Sơn Nhất, tôi bay đi
Vinh rồi theo đường bộ sang Lào. Chương trình là như vậy. Chuyến máy bay
Hàng không Việt Nam đi Vinh của tôi sẽ khởi hành lúc 1:00 pm. Tôi đến
phi trường sớm hơn thường lệ chỉ vì lo vẩn vơ chuyện khó dễ giấy tờ ở
cửa khẩu. Đi sớm một chút bị cù cưa cù nhày thì cũng còn thì giờ. Ngồi ở
phòng đợi nhìn qua cửa kính phi trường, đã 12:30 pm nhưng vẫn chưa thấy
tăm hơi của chiếc máy bay. Một lúc sau mới nghe tiếng của một nhân
viên nữ thánh thót tuyên bố cho biết là vì lý do kỹ thuật máy bay đến
trễ. Đến 1:15 pm, giọng oanh vàng một lần nữa lại cất lên cho biết
chuyến đi bị hủy vì thời tiết xấu, xin thành thật cáo lỗi cùng quý
khách. Hành khách nhốn nháo, tiến về phía quày tiếp tân nhao nhao phản
đối. Cái lý do kỹ thuật và thời tiết xấu là hai chuyện hoàn toàn khác
nhau. Trước đó ba mươi phút, chuyến bay đi Vinh của hãng JetStar vừa mới
khởi hành kia mà. Dự báo thời tiết các tỉnh miền Trung là trời thỉnh
thoảng có mưa, hơi âm u. Không lẽ nào bão miền Trung bất thần ập tới
không kèn không trống! Hay là, Hàng không Việt Nam muốn thách thức trí
thông minh của hành khách? Tôi gia nhập vào đám đông hành khách, cũng
lóng ngóng phản đối cho có lệ, "Làm ăn cái kiểu gì kỳ thế!", "Chiếc
JetStar vừa bay đi Vinh 30 phút trước, bão bùng gì nhanh thế!", "Xin lỗi
quý khách, chúng tôi chỉ biết vậy, chiều nay có chuyến bay đi Huế và Hà
Nội, quý khách nào muốn đổi vé thì xin xuống tầng 1 quày bán vé số 4".
Chịu vậy. Ai cũng biết Hàng không Việt Nam bịa chuyện nhưng phải kiên
nhẫn chấp nhận, cũng như muôn ngàn chuyện thường ngày khác xảy ra trong
cuộc sống người dân. Những mánh khoé, khôn vặt xuất hiện để ứng đối với
những chuyện bịa trở thành một thói quen trên đất nước nghèo khó này.
Tôi theo thông tin trên mạng cuả dân
Tây ba-lô, rồi từ đó sắp xếp chuyện đi Lào. Từ Vinh, tôi sẽ theo xe
khách đi đến thị trấn Phonsavan tỉnh Xieng Khouang (đọc là Xiêng
Khoảng), điểm đến thứ nhất của tôi. Máy bay đi Vinh một ngày một chuyến.
Xe khách từ Vinh đến Phonsavan thì hai ngày một chuyến. Cái kiểu hủy
chuyến bay đổ lỗi cho ông trời của Hàng không Việt Nam làm tiêu ma
chương trình đi Lào của tôi. Tôi bối rối lắm không biết làm sao. Cũng
như tôi cũng đã từng bối rối nhiều lần trước những việc đột xuất mỗi khi
đi du lịch bụi. Mỗi lần đều phải tùy cơ ứng biến. Tôi tần ngần nhìn
quanh, sau cùng đi theo một anh hành khách tóc
húi cua, người phản đối mạnh nhất
trong đám hành khách bị bỏ rơi. Tôi hỏi "Anh tính sao?", anh trả lời dứt
khoát "Tôi đổi vé đi Huế anh à... Ra ngoài đó gặp bạn chơi một hôm
rồi đi Vinh. Anh phải quyết định nhanh không thì hết vé bay". Vâng, phải
quyết định nhanh, ở lại Sài Gòn hay là ra Huế rồi tìm đường đi Vinh. Một
ý nghĩ táo bạo chợt thoáng qua. Hay là ta đổi hướng, không đi Lào nữa,
ra Hà Nội, đến Lào Cai rồi đi xe lửa đến Côn Minh, tỉnh Vân Nam. Bỗng
chốc, tôi lại có quá nhiều lựa chọn. Càng thêm hoang mang. Bay ra Huế
rồi đi Lào, hay Hà Nội sang Vân Nam, Trung Quốc?
Trong lúc chen lấn, chờ đợi ở quày đổi
vé tình cờ tôi đứng cạnh một cô gái. Cô nói giọng Huế, nhỏ nhẹ hỏi tôi
đi mô. Không bỏ qua cơ hội, tôi bắt chuyện hỏi thăm tình hình gần xa và
xe cộ đi Lào ngoài ấy. Cô gái làm việc trong ngành du lịch nên cũng lắm
thông tin. "Ồ... nhiều xe đi lắm. Đến Huế rồi ra Đồng Hới theo đường số
8 đi sang Savanakhet""Không, không... tôi đi Xieng Khouang""À... Xieng
Khouang phía trên, vậy chú phải đi Vinh. Xe đi Vinh từ Huế cũng nhiều
lắm. Chú đến Huế hỏi thăm thì biết ngay". Tôi nói đùa "Vậy cô đi Huế,
tôi đi theo được không?", cô ta cười "Không, tôi đi Đà Nẵng".
Tôi đổi vé bay ra Huế, ngay chiều hôm
đó có chuyến xe đi Vinh. Tôi đến Vinh lúc 1 giờ sáng. Phía bên kia đường
nơi xe dừng là một khách sạn gần bến xe sang Lào, đúng như thông tin
trên mạng của dân Tây ba-lô quốc tế. Tôi đập cửa vừa mặc cả vừa nài nỉ
anh quản lý mở cửa cho qua đêm.

Từ Vinh đến Phonsavan
Năm giờ sáng đã phải choàng dậy. Những
tiếng kèn xe khách từ bến xe gần đó thỉnh thoảng lại vang lên một cách
vô cớ làm giấc ngủ ngắn lại càng ngắn hơn. Tôi vội ăn bát cháo nóng ở
ngõ vào bến rồi tìm chiếc xe khách "quốc tế" đi Phonsavan. Trời chưa
sáng, nhưng trong ánh đèn vàng vọt của bến chiếc xe nào cũng có chữ
"VIP" thật to. Nói theo kiểu xe khách về miền Tây Lục tỉnh là xe khách
"chất lượng cao", có nghĩa là xe đi đúng giờ, không ngừng rước khách
giữa đường, không nhồi nhét, có nhạc êm dịu thư giãn. Chiếc xe đi Lào
của tôi là của một công ty Lào, tài xế Lào, hành khách Lào thêm một cặp
Tây ba-lô trẻ người Đức.
Chiếc xe khởi hành đúng 6 giờ sáng, từ
Vinh đi theo đường số 7 hướng Tây Bắc. Vinh đến Phonsavan dài 300 km,
nhưng 2/3 trong địa phận Việt Nam. Bác tài người Lào lái cẩn thận, không
có thói chạy "bạt mạng", bóp kèn inh ỏi như dân ta. Chiếc xe đi qua
những vùng quê của tỉnh Nghệ An. Những địa danh quen thuộc như Nam Đàn
(quê hương Hồ Chí Minh), Đô Lương (cải cách ruộng đất) xuất hiện. Xa xa
là đồi núi bắc Trường Sơn, có lẽ cũng là địa điểm xuất phát của đường
mòn Hồ Chí Minh xưa kia. Trong vùng phụ cận của thị trấn Đô Lương, chiếc
xe chạy ngang nhiều xứ đạo. Những ngôi nhà thờ cổ kính, có phần hoang
phế đứng sừng sững giữa cánh đồng cằn cỗi, nổi bật giữa đám nhà dân lụp
xụp, ẩn hiện trong màn sương sớm của miền quê yên tĩnh.
Quá trưa, chiếc xe đến cửa khẩu quốc tế
Nặm Cấn, biên giới Việt Lào. Chúng tôi làm thủ tục xuất nhập cảnh. Như
một thông lệ, những người mang hộ chiếu Việt Nam và Lào phải lót tay
10.000 đồng cho nhân viên hải quan Việt Nam. Hộ chiếu Tây được miễn tiền
"mãi lộ" dường như họ e dè, nhưng phải chịu đội sổ, bị xử lý sau cùng và
người mang hộ chiếu không được ban tặng cái nhìn thân thiện. Ai không
có tiền 10.000 dùng tiền có mệnh giá cao hơn đều được thối lại sòng
phẳng. Giả dụ mỗi chuyến xe có 50 người khách, mỗi ngày xe qua lại cửa
khẩu 10 chuyến, thì thu được 5 triệu. Tôi thấy có chừng 5 nhân viên, nếu
không cống nạp cho quan trên, cùng nhau chia đều thì mỗi người có 1
triệu/ngày (lương công nhân nhà máy là 1 - 2 triệu/tháng), chưa kể tiền
linh tinh đóng góp của những xe tải chở hàng qua biên giới. Khắm khá
lắm! Ở cái cửa khẩu heo hút khỉ ho cò gáy này, chuyện "bồi dưỡng" không
còn phải thụt thò, thấp thỏm như ở thành phố mà trở nên một quy luật
công khai bất thành văn. Người nhận và người cho cùng nhau hân hoan và
thông cảm!
Sang địa phận nước Lào, cảnh quan bỗng
nhiên thay đổi. Rừng núi bắc Trường Sơn trùng điệp nhưng không hùng
vĩ. Chiếc xe leo dốc dọc theo những con đường ngoằn ngoèo đi lên vùng
cao, phía dưới là những vực sâu xanh rì cây lá. Nhà cửa lụp xụp thưa
thớt. Trong xe, những bản nhạc Việt êm dịu bây giờ được đổi sang nhạc
Lào sôi động. Cái điệu nhạc "lum vong" "chách bùm, chách bùm bùm"
giống như điệu lai giữa bolero và chachacha, vui vui quê quê là lạ, cứ
mãi đeo đuổi tôi suốt chuyến đi Lào.
Chiếc xe chạy ròng rã 9 tiếng đồng hồ
trên đoạn đường 300 km với những khúc đường đèo cực kỳ hiểm trở và cuối
cùng đến trung tâm thị xã Phonsavan lúc 3 giờ chiều.
Phonsavan là tỉnh lỵ của tỉnh Xieng
Khouang, nhỏ như cái huyện làng của ta, mới thành lập sau 75 vì tỉnh lỵ
cũ đã tan tác bởi bom Mỹ. Ở đây chỉ có hai con đường chính, một đường
ngang và một đường dọc. Những căn phố dường như được xây cất vội vàng
nổi lên giữa một cánh đồng bằng phẳng mà xa xa là những ngọn núi thấp
bao quanh. Tôi phóng mắt nhìn về phía cuối con đường hun hút nối liền
với đồi núi đằng xa. Con đường độc đạo mù bụi làm tôi chợt tưởng đến
những con phố trong phim miền Viễn Tây của Mỹ. Tôi đang đứng trên cao
nguyên Xieng Khouang mà tiết trời cũng lành lạnh như thành phố Đà lạt.
Cánh đồng Chum
Khu vực này nổi tiếng nhờ Cánh đồng Chum.
Trong chiến tranh Việt Nam, đây là căn cứ địa của quân Pathet Lào, vùng
bị bom ác liệt nhất trong cuộc "chiến tranh bí mật" của Mỹ (Secret War,
1960-1975). Những căn phố phần lớn là quán ăn hay là nhà khách. Những vỏ
bom lớn nhỏ, đủ kiểu đủ loại bây giờ trở thành những vật trang trí nơi
cửa ra vào (Hình 1). Tôi lẽo đẽo vác ba-lô theo cặp người Đức đi vào một
nhà khách phía bên kia đường mà hai người bạn đồng hành này cho biết là
nơi trú ngụ rất đáng tin cậy.

Hình 1: Những vỏ bom Mỹ trở thành vật
trang trí.
Ông chủ nhà khách trông nhỏ người, còn
trẻ khoảng 25 - 30 tuổi, nước da ngâm đen có dáng dấp một người dân
tộc, nói tiếng Anh tạm được. Sau một lúc mặc cả, tôi lấy căn phòng trên
lầu với giá 100.000 kíp/đêm (1 USD = 8.000 kíp, 1 kíp = 2 đồng VN). Ở
đây không đòi hỏi phải xem giữ hộ chiếu gì cả. Ông chủ tự giới thiệu
"Tôi tên là Moa. Ông gọi tôi là Mr. Moa. Tôi người Mong (Hmong), không
phải người Lào""Vâng, hê-lô Mít-tờ Moa", tôi cười cười trả lời. Người
Hmong có 500.000 người (8 % toàn thể dân số Lào 6,8 triệu người) sống ở
vùng cao Xieng Khouang. Tôi nói với Mít-tờ Moa muốn mua cái tour viếng
Cánh đồng Chum ngày mai. Anh ta nhanh nhẹn cho tôi xem cái sổ hóa đơn
thu tiền có một bản sao carbon với số tiền 300.000 kíp cho một cái tour
đã bán. "Ông là khách trú ngụ tại đây, tôi giảm giá 50 % còn 150.000
kíp". Tôi nghĩ cái anh Hmong vùng núi này cũng lắm trò ma giáo, mới vừa
chào hàng đã giảm nửa giá. Còn cái bản sao carbon chân giả thế nào, muốn
viết bao nhiêu thì chả được!
Trời còn sớm, tôi lững thững đi dọc
theo con phố. Cách nhà khách vài căn nhà là một văn phòng du lịch. Ông
chủ tiệm trạc tuổi trung niên, lúc nào cũng tươi cười vui vẻ. Ông nói
tiếng Anh không bằng Mít-tờ Moa hàng xóm nhưng biết đôi chút tiếng Việt
nên chúng tôi giao lưu bằng tiếng Việt Anh lẫn lộn. Ông xưng là Pao,
nhưng không bảo tôi phải gọi ông là Mít-tờ Pao. Trên chiếc áo côm-lê,
ông trân trọng cài cái nút hình Kaysone Phoumvihane, lãnh tụ Pathet Lào
và sau 75 cũng là vị thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào. Ông Phomvihane, có cha người Việt mẹ Lào và vợ Việt, đã trở
thành một anh hùng dân tộc và hình được in trên giấy bạc.
Ông Pao hiền lành bán cho tôi cái tour
đi Cánh đồng Chum với giá phải chăng 110.000 kíp. Tôi xin ông cái nút
hình vị Thủ tướng. Ông nhã nhặn từ chối vì phải mua tận Luang Prabang.
"Hồi xưa, ông là bộ đội Pathet Lào à?", tôi tò mò hỏi, "Vâng, tôi đánh
Mỹ, "bang bang" với máy bay Mỹ ở trong rừng đấy...", ông vừa nói vừa giơ
tay chỉ chỏ về phía rặng núi xa xa. "Sao ông nói tiếng Việt được?"
- "Hết
chiến tranh tôi đến Hà Nội học tập chính trị, bây giờ nghỉ việc làm du
lịch". Ông khoe "Năm rồi tôi đến Vinh tham gia cuộc họp về kinh doanh du
lịch rồi đi ra Cửa Lò tắm biển". Ông tươi cười một cách hồn nhiên, cho
tôi xem một số ảnh chụp tại Vinh và Cửa Lò với đồng nghiệp và các cô
Việt Nam xinh xinh trong chiếc áo dài tha thướt, luôn miệng bảo "quá đẹp
quá đẹp" bằng tiếng Việt. Tôi không biết ông nói bãi biển đẹp hay các cô
đẹp. Nhưng thôi, cứ cho là bãi biển đi. Lào là một nước không bờ biển,
nhìn được biển là một niềm mơ ước của nhiều người Lào. Bãi biển Cửa Lò
mà tôi đã từng viếng thăm chỉ có vẻ đẹp của một cô con gái nhan sắc
trung bình nhưng là "giai nhân" trong ánh mắt người Lào.
Sáng hôm sau tôi đi Cánh đồng Chum.
Người ta phỏng đoán có chừng 2000 cái chum đá rải rác trên 65 địa điểm
của cao nguyên Xieng Khouang. Bom chưa nổ của Mỹ vẫn còn là nỗi lo ngại
chính trong vùng này nên chính quyền địa phương chỉ mở ra ba địa điểm
được xem là an toàn cho du khách tham quan. Những cái chum có hình dạng
giống nhau và chiều cao từ 1 đến 2,5 m trở thành một đối tượng khảo cổ
học từ thời Pháp thuộc và người ta dự đoán nó có số tuổi 2000 từ 2500
năm. Chiếc xe đưa đoàn du lịch chúng tôi đến ba địa điểm này cách
Phonsavan 10 km. Đây là những vùng thảo nguyên rộng lớn, cằn cỗi, hoang
vu, xa xa là đám rừng thưa. Đây đó rải rác những lỗ bom to bằng cái ao.
Từ trên nhìn xuống là thung lũng, thấp thoáng những căn nhà dân. Những
cái chum đá to nhỏ khác nhau, đứng nằm ngổn ngang, có cái đứng trên mặt
đất nhưng phần lớn chìm một phần thân xuống đất vì sức nặng của thời
gian (Hình 2). Có cái còn nguyên vẹn, có cái đã vỡ, thủng đáy, ít có cái
nào còn nắp toàn vẹn. Có những cái chum bị cây mọc xuyên qua vỡ ra nhiều
mảnh. Nó làm tôi nhớ lại những cây rừng cổ thụ mọc qua và bấu lấy những
bức tường của thành quách Angkor trong chuyến đi Campuchia vài năm
trước. Nhưng ở đây chum vẫn là chum, không so được với kỳ quan Angkor
Wat và không tạo được cái hoang vu của một phế tích, hay cái huy hoàng
của một quá khứ khiến người xem phải xúc động bàng hoàng. Đến địa điểm
thứ hai, thứ ba thì mọi người bắt đầu ngáp dài vì đã chán nhìn chum.
Cánh đồng Chum vẫn chưa là một Di sản Thế giới, nhưng theo anh hướng dẫn
hy vọng năm 2010 sẽ được công nhận.

Hình 2: Cánh đồng Chum
Theo truyền thuyết địa phương, đây là
những bình chứa rượu khao quân của một vị vua thời cổ đại. Xem ra thì
thuyết này không đứng vững. Hai ngàn cái chum rượu chỉ làm một đoàn quân
say khướt, còn sức đâu mà đánh đấm để cùng nhau ca khúc khải hoàn! Những
nhà khảo cổ thời Pháp thuộc cho đây là nghĩa trang khổng lồ, một cái
chum là một quan tài. Một điều lạ khác của Cánh đồng Chum là không bị
bom Mỹ tàn phá, mặc dù trong chiến tranh Việt Nam, Lào là một nước bị
dội bom nhiều nhất và tỉnh Xieng Khouang là nơi có mật độ bị bom cao
nhất nước. Nghe đâu hơn 2 triệu tấn, nhiều hơn lượng bom sử dụng ở thế
chiến thứ hai. Chum nằm lẫn với bom, nhưng không một cái chum nào bị bom
làm sứt mẻ! Thần linh bảo hộ? Những điều bí ẩn, lạ lùng của Cánh đồng
Chum là một điểm hấp dẫn du khách, cho hướng dẫn viên có nhiều chất liệu
thêm thắt và để người xem phải ngẩn ngơ suy nghĩ. Cần gì phải tìm thêm
những chứng cớ khảo cổ. Hãy để yên Cánh đồng Chum, cho chúng ta cùng
tiếp tục hoang mang và cho cái phố núi Phonsavan càng phồn vinh nhờ
những đồng đô-la đi tìm bí ẩn của du khách thập phương.
Ở một góc đường của thị xã, một trung
tâm thương mãi cao 6, 7 tầng đang được xây cất do tiền đầu tư của một
công ty Việt Nam trên một mặt bằng rộng ít nhất 10.000 m2.
Gần đó là một cái nhà lồng chợ tăm tối, nhếch nhác với những quán xá đưa
ra thụt vào như cái hàm răng khểnh. Hy vọng trung tâm này sẽ thay đổi bộ
mặt của Phonsavan. Nhờ khách du lịch Tây ba-lô, những người dân tộc như
Mít-tờ Moa cũng làm ăn khá giả, một điều khó tưởng tượng khi so với các
dân tộc Mường, Dao, Tày chân chất vẫn sống cuộc đời nghèo khó ở những
bản làng Tây Bắc Việt Nam bên kia biên giới. Anh ta khoe chiếc xe Toyota
Landcruiser mới toanh, có ghế da, gắn màn hình tivi nhỏ với giá cực rẻ
40.000 đô. Hỏi ra mới biết chính phủ Lào chỉ thu 1 % thuế xe. Anh ta
mang giấc mộng du học Mỹ quốc, dành dụm tiền bạc để đi California và
đang được thân nhân bảo lãnh giấy tờ.
Tôi trở lại văn phòng ông Pao mua vé xe
đi Luang Prabang. Tôi muốn đi ngay đêm ấy để tranh thủ thời gian. Ông
Pao bảo không có xe đêm và phải đi đến 9 - 10 tiếng mặc dù Phonsavan
chỉ cách Luang Prabang 280 km đường bộ. Tôi lầm bầm xe cộ gì mà chạy
chậm như rùa ấy! Chiếc xe khách khởi hành đúng 7 giờ sáng ngày hôm sau.
Con đường đi đến Luang Prabang là con đường đèo ngoằn ngoèo xuyên qua
rừng núi trùng điệp, phía dưới là thung lũng xanh tươi hoặc là những hố
sâu thăm thẳm. Mỗi 20 - 30 m là một khúc quanh, cứ như thế kéo dài đến
Luang Prabang (Hình 3).

Hình 3: Con đường đèo hiểm trở đến
Luang Prabang.
Bây giờ tôi mới vỡ lẽ tại sao không có
chuyến xe đêm và phải cần thời gian để đi qua đoạn đường chỉ vài trăm
cây số. May là con đường bằng phẳng không bị ổ gà, ít xe và không gặp
những trận mưa dầm nhiệt đới. Thỉnh thoảng có vài chiếc xe tải chở hàng
cung cấp cho vùng cao nguyên chạy ngược chiều, ì ạch leo dốc. Địa thế
hiểm trở và cô lập của cao nguyên Xieng Khouang biến nơi đây thành thiên
đàng của du kích chiến. Trong chiến tranh, chính quyền Mỹ không thể làm
gì hơn ngoài việc dội bom và hăm he dội cho đến khi tất cả trở lại "thời
kỳ đồ đá", Trường Sơn đông lẫn Trường Sơn tây!
Chiếc xe sàng qua sàng lại theo những
khúc quanh, hàng ngàn lần. Chưa bao giờ tôi đi trên một con đường có
nhiều khúc quanh đến thế. Thật là một kỷ lục phải ghi vào trong sách
Guinness thế giới! Trong xe, thỉnh thoảng có người la lên sắp sửa nôn
oẹ, anh lơ xe đã quá quen thuộc, trong tay lúc nào cũng cầm một chồng
bao nhựa sẵn sàng tiếp cứu. Tiếng nhạc với điệu "lum vong",
"chách bùm,
chách bùm bùm" lại vang lên, đệm theo những lời ca "thủm thủm,
thon thon", càng lúc càng gay gắt. Con gà tre của một vị hành khách
nào đó ngồi phía sau thỉnh thoảng nổi hứng, lạc điệu gáy "ó ò ...".
Luang Prabang và Mekong
Bác tài phải là một tay lái xe điêu
luyện, kiên nhẫn đưa chiếc xe chầm chậm đi qua những con đèo hiểm trở,
những làng mạc thưa thớt, tiêu điều, từ độ cao 1.500 m đi đến đồng bằng
Luang Prabang. Tôi đến Luang Prabang lúc 5 giờ chiều, đúng 10 tiếng
lái. Đây là cố đô của Lào và toàn thể thành phố đã được công nhận là Di
sản Thế giới (Hình 4). Thành phố được bao bọc bởi sông Mekong hùng vĩ và
một chi lưu của Mekong, sông Nam Khan. Nhà khách nơi tôi trú ngụ nhìn ra
dòng Nam Khan trôi êm đềm, bên kia bờ là miền quê an bình lác đác hàng
dừa xen lẫn cây thốt nốt cao cao.

Hình 4: Một căn nhà cổ của người dân
Luang Prabang
Cách bờ sông Mekong một con đường là
phố Sisavangvong dài và hẹp với chợ đêm (night market) nổi tiếng. Nó
giống như phố Tây ở Đề Thám, Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn, nhưng đa dạng, trật
tự hơn và chỉ dành cho người đi bộ. Người Lào thật ngăn nắp và sạch sẽ.
Từ đầu phố đến cuối phố không một cọng rác. Đầu phố Sisavangvong là khu
ẩm thực sang trọng với những nhà hàng có kiến trúc thời thuộc địa, bán
một món ăn vài chục đô, nhưng hấp dẫn mấy ông Tây bà Đầm phong lưu luống
tuổi. Họ ăn uống chẫm rãi, nói năng từ tốn. Trên cái bàn trải khăn trắng
toát là những chai rượu vang nhập khẩu đắc tiền. Giữa phố là khu ăn uống
trung bình bán pizza, hamburger, kwei-tiu (hủ tiếu) Thái với cái đám Tây
ba-lô ồn ào, phì phèo thuốc lá. Cuối phố là những hàng quán trên đường
bày bán vải vóc làm sarong màu sắc sặc sở, những món đồ lưu niệm Lào
nhưng có dáng dấp "made in China". Tôi thấy một con voi làm bằng đồng
đen nho nhỏ xinh xinh, hỏi bao nhiêu. Chị bán hàng nhanh nhảu ra
giá "One hundred", tôi hỏi lại "Kíp?", "No, no, đô-la", chị ta nói tiếp
"very old", ý muốn nói đồ cổ. Những món đồ đồng giả cổ, mà bọn trẻ con ở
Angkor Wat chạy theo du khách nài nỉ bán năm, mười đô-la bây giờ là 100
đô tại quán hàng rong Luang Prabang. Ai bảo người Lào hiền lành, trong
buôn bán họ cũng ma-lanh không thua ai!
Rẽ vào một con đường nhỏ là một "xóm
nhà lá" bán đủ loại thức ăn bình dân Lào kể cả món hột vịt lộn Việt Nam.
Đang đi, bỗng nhiên tôi ngữi được mùi mực nước. Tôi rảo bước, nhìn dáo
dác tìm kiếm cho ra cái nguồn thơm tho này. Từ đàng xa, một thiếu phụ
gầy gầy quạt phành phạch trên cái lò than nhỏ, tỏa mùi thơm khắp muôn
phương. Cái kiểu bán mực nướng này đúng là "truyền thống" của ta. Tôi đi
tới dùng tiếng Việt hỏi cầu may "Bao nhiêu tiền đấy chị?", không ngờ
người bán cũng trả lời tiếng Việt đặc sệt giọng miền Trung, "3.000 kíp 3
con". Tôi mua 3 con, vừa nhai mực vừa hỏi chuyện "Chị sang lâu mau rồi?
Sao không ở Việt Nam, sang bên ni làm chi cực khổ quá?", "Em sang hồi
năm ngoái. Không, bên ni làm ăn dễ, dân Lào hiền lành. Ở Việt Nam cực
quá, bon chen quá, phải đi thôi"...
Ba giờ sáng tôi giật mình thức giấc.
Những tiếng nói phát ra từ cái máy phóng thanh nghe từ xa, có lẽ từ bên
kia con sông Nam Khan, lúc văng vẳng lúc lồng lộng trong màn đêm. Nửa
tỉnh nửa mơ, tôi cứ ngỡ là phòng thông tin thành phố đang tuyên bố chính
sách đúng đắn và những thắng lợi tuyệt vời của Đảng và nhà nước, nhưng
nghe kỹ lại thì là cái giọng kéo
dài lê thê, lúc trầm lúc bổng ê a tụng
kinh. Đúng là xứ Phật. Nhưng các ông sư thức quá sớm truyền giảng đạo
pháp giữa cái giờ mọi người đang an giấc thì thật là cả một điều vô lý
và phiền toái.
Sáng sớm hôm đó, tôi đi thuyền ngược
dòng Mekong vĩ đại viếng động Pak Ou cách Luang Prabang 25 km đường
sông. Những làn gió mát lạnh thổi phần phật trên sông làm cho tôi tỉnh
ngủ. Dòng sông chảy êm đềm mang phù sa đục ngầu như sông Tiền, sông Hậu
ở vùng hạ lưu, nhưng cảnh quan ở đây thật hùng vĩ và hoang sơ. Trừ những
chiếc tàu nhỏ hay ghe tam bảng chở du khách ngược xuôi, không một bóng
dáng của những chiếc ghe chài to lớn, không có tiếng còi hụ điếc tai,
tiếng động cơ bình bịch ồn ào liên tục trên vùng hạ lưu Campuchia, Việt
Nam hay những hoạt động náo nhiệt như chợ nổi vùng Hậu giang. Không gian
chìm đắm trong im lặng với trời mây sông nước… Dọc hai bên bờ lác đác
vài căn nhà sàn trên bờ cao cao, lẩn khuất trong những bụi tre già rậm
rạp và tàng cây xanh mờ mờ, hay đứng trơ trọi giữa những luống rau hình
bậc thang kéo dài đến tận bờ. Giữa dòng sông thỉnh thoảng nổi lên một
cồn cát dài hay cù lao lổm chổm những tảng đá thật to, phân chia sông
thành hai dòng chảy (Hình 5). Xa xa, loang loáng trong ánh bình minh một
chiếc thuyền con của ngư dân đang giăng câu bắt cá. "Yên ba thâm xứ
hữu ngư châu". Đâu đó bên bờ, một đám trẻ con nghịch ngợm tắm sông
nhảy đì đùng. Tôi chợt mỉm cười, nhớ lại thời thơ ấu tôi cũng là một đứa
trong đám trẻ con kia, đã từng "ôm nước vào lòng" cùng trên một dòng
sông.

Hình 5: Dòng Mekong
Pak Ou là một động thiên nhiên trong
một núi đá bên bờ sông Nam Ou, một chi lưu khác của Mekong. Pak Ou gợi
cho tôi hình ảnh của động Hương Tích chùa Hương, chỉ khác là rất nhiều
tượng Phật cổ. Ở đây có gần 4000 tượng Phật lớn nhỏ khác nhau tạc theo
điêu khắc Lào. Tiếc rằng, số lượng du khách quá nhiều làm mất đi sự tôn
nghiêm của một nơi hành hương truyền thống. Nếu không có con đường sông
Mekong hùng vĩ để chiêm ngưỡng, thì chuyến đi Pak Ou sẽ rất đơn điệu
và phí nhiều thời gian. Mekong thật sự hấp dẫn hơn Pak Ou. Tôi trở về
Luang Prabang thì đã quá trưa. Những tiếng "chách bùm, chách bùm bùm"
của điệu "lum vong" lại nổi lên từ hai cái đám cưới được tổ
chức ra đến tận giữa đường. Một người say sưa hát karaoke chúc mừng cô
dâu chú rể, những cặp nam nữ say sưa nhảy theo điệu nhạc "chách bùm"
mộc mạc. Trong cái nắng ấm của mùa đông xứ Lào, Luang Prabang cổ kính
thật giản dị và thanh bình…
Đêm hôm đó tôi đáp chuyến xe đêm đi
Vientiane, thủ đô Lào, cách cố đô Luang Prabang 430 km về phía Nam. Anh
quản lý nhà khách bán cho tôi cái vé xe VIP. Với số tiếng Anh giới hạn,
anh người Lào lanh lợi này cam đoan với tôi đây là xe "chất lượng cao",
có toilet trong xe, máy điều hòa, có ghế ngồi ngã lưng như ghế phi cơ,
nước uống và thức ăn nhẹ được cung cấp miễn phí v.v... Trong đầu tôi
tưởng tượng ra chiếc xe bus cao cao giống như những chiếc xe khách hoành
tráng, sơn phết rất đẹp mắt của Trung Quốc đến từ Côn Minh tỉnh Vân Nam,
nhẹ nhàng lướt trên đường phố Luang Prabang. Ừ! tại sao không? Tôi mừng
rỡ, vừa trả 130.000 kíp cho cái vé vừa liên tục "Kop chai! Kop chai
lai lai!" (Cám ơn! Cám ơn nhiều lắm!). Tôi đã quá mệt với chuyến xe
đường đèo Phonsavan, trả thêm vài chục ngàn kíp đi xe VIP quả là đáng
đồng tiền bát gạo! Anh ta kêu xe tuktuk (giống xe Lam trước 75) chở tôi
ra ngoài bến xe. Trong cái tranh sáng tranh tối hoàng hôn, tôi giương to
đôi mắt đi loanh quanh tìm chiếc bus "hoành tráng" có chữ VIP giữa cái
đám xe khách viết chữ Lào loằn ngoằn. Tìm không ra, tôi vội đến chỗ bán
vé, vừa chỉ vào tấm vé vừa bảo ông bán vé "VIP Vientiane. VIP
Vientiane". Ông bán vé hiểu ý, trả lời "No VIP. VIP Vientiane in the
morning!!!”. Ý ông nói là xe VIP chỉ đi buổi sáng, rồi chỉ cho tôi chiếc
xe khách tồi tàn đi Vientiane tối hôm đó. Chuyến xe cuối cùng trong
ngày. Biết đã bị phỉnh vài chục ngàn kíp (vài đô-la), tôi hơi bực mình,
nhưng ít ra vé đi Vientiane là vé thật! Anh chàng quản lý nhà khách nói
"lèo" nhưng vẫn còn lương tâm!
Vientiane
Loáng thoáng trong xe, ai đó xầm xì tiếng
Việt giọng Bắc. Gần đến Vientiane, chiếc xe nổ lốp giữa đường, chuyện
"thường ngày ở huyện". Mọi người bình an đến Vientiane lúc tờ mờ sáng.
Tôi xách cái ba-lô tìm nơi trú ngụ.
Những nơi theo lời chỉ dẫn trên internet thì đã đầy người mặc dù giá
phòng gấp đôi Phonsavan. Cuối cùng tôi tìm được nhà khách thuộc Bộ Công
Thương gì gì đó của chính phủ nhân dân Lào. Các nước "anh em" thật là
giống nhau. Ở Việt Nam, Bộ Quốc Phòng, Bộ Bưu Điện kinh doanh khách sạn
kiếm thêm tiền bỏ túi, thì nước anh em Lào cũng rập khuôn y hệt! Của
công thì giá rẻ, nhưng cái phòng ở tận lầu 4, phải đi bộ lên xuống.
Trong phòng muỗi bay vo ve...
Trước 75, người ta thường gọi Vientiane
là Vạn Tượng. Cái tên Hán Việt rất hay và phản ánh xứ Lào có hàng vạn,
hàng triệu voi rừng. Bây giờ, voi rừng hiếm hoi vì chiến tranh, vì sự
phát triển vô nguyên tắc của con người. Thủ đô Vientiane nằm trên sông
Mekong gần biên giới Thái Lan, có dáng dấp một thành phố cỡ trung bình
của Việt Nam, như thị xã Cần Thơ. Cuộc sống ở đây có vẻ nhàn nhả và thời
gian ngắn dài không phải là vấn đề. Đã 8 giờ sáng ngày thứ Hai rồi mà
thỉnh thoảng mới có một chiếc xe chạy qua. Thủ đô vẫn còn im lìm trong
giấc ngủ. Ngang nhà khách nơi tôi tạm trú, có một quán ăn nhỏ. Tôi thấy
ông chủ tiệm vừa mới bỏ con gà vào nồi súp. Tôi ra dấu tỏ vẻ muốn ăn.
Ông ta nhe răng cười, chỉ chỉ con gà rồi phủi phủi cái tay. Chưa xong!
Hàng quán thế này, ở Việt Nam người ta đã chuẩn bị từ 4 giờ sáng.
Tôi lủi thủi đi ra ngoài đầu đường tìm
thấy một quán điểm tâm Tây chuyên bán cà phê, bánh croissant, bánh mì
tây, giá phải chăng. Uống cà phê Lào cứ như là uống thuốc bắc, nhưng
uống vài lần quen miệng cảm thấy ngon ngon. Phía bên kia đường là tòa
nhà văn hóa Việt Nam cao ba tầng, đề tiếng Việt "Trung tâm Văn hóa Việt
Nam", rất bề thế. Đến 9 giờ, đường xá mới bắt đầu tấp nập. Ở đây ít xe
đạp, xe gắn máy, nhưng nhiều xe hơi, có lẽ vì thuế xe chỉ 1%. Người Lào
thích xe pick-up (ute) Toyota, 4 chỗ ngồi, với khoảng trống phía sau để
đồ đạc linh tinh. Xe nào cũng là xe đời mới với chữ Toyota mạ bạc thật
to phía sau. Thỉnh thoảng, có xe "đại gia" BMW, Mercedes hay Lexus chạy
ngang. Các cô gái Lào thủ đô dáng người nhỏ nhắn xinh xinh, dung nhan
thanh tú, bới tóc cao, hay để tóc dài, mặc sarong kín đáo dài tận gót,
nhưng lái xe gắn máy yểu điệu không kém gì phụ nữ ta.
Cầm cái bản đồ du lịch Vientiane trong
tay, tôi đi đến một góc đường chào anh lái xe tuktuk “Sabaidee bor?”
(How are you?). Anh lái xe chỉ biết "one, two, three, four, five", tiếng
Việt thì "một, hai, ba, ăn cơm, ăn phở". Đấy là vốn ngoại ngữ của anh
ta. So với đồng nghiệp Campuchia thì giới lái xe tuktuk Lào và du lịch
rất kém ngoại ngữ. Cánh lái xe ôm tại Angkor Wat (Campuchia) nói được
tiếng Anh căn bản, thậm chí vài tiếng Nhật thông thường. Tôi muốn đi
đông, tây, nam, bắc, nội thành, ngoại thành Vientiane. Chỗ xa nhất 25
km, chỗ gần nhất cách nhà khách vài trăm thước. Quơ tay, quơ chân, chỉ
chỏ vào cái bản đồ một lúc thì cả hai cùng hội ý hiểu nhau, đồng ý giá
cả. Rồi đi.
Các chùa chiền, đền tháp của Vientiane
cũng có ngàn năm lịch sử. Không may vì quá gần Thái Lan, trong quá khứ
hầu hết những di tích lịch sử quan trọng bị quân xâm lược Xiêm tàn phá.
Đền That Luang được thành lập vào thế kỷ 16, bị quân Xiêm tàn phá năm
1828 và được xây lại trong thời Pháp thuộc năm 1900 (Hình 6). Người ta
tin có một sợi tóc của Đức Phật được chôn trong đền này. Đây là một biểu
tượng của đất nước và dân tộc Lào. Các kiến trúc cổ phần lớn được trùng
tu hay phục nguyên (Hình 7).

Hình 6: Đền That Luang

Hình 7: Một kiến trúc cổ được trùng tu
với mái nhà đặc trưng Lào.
Sự yếu kém quân sự của Lào dẫn đến sự
mê tín vào sức mạnh của thần linh. Trước khí thế hung hản của quân xâm
lược Xiêm, người Lào xây đài Thap Dam với con rắn bảy đầu ở trung tâm
Vientiane với niềm hy vọng là sẽ được rắn thần bảo vệ chống quân Xiêm.
Quân Xiêm vẫn dửng dưng càn quét. Quá thất vọng, dân Lào không đếm xỉa
đến tượng đài và ngày nay chỉ là một phế tích không được trùng tu
(Hình 8).

Hình 8: Đài That Dam, cỏ mọc trông rất
thảm hại.
Chỗ xa nhất cách thành phố Vientiane 25
km là Công viên Phật với những bức tượng làm bằng xi măng cốt sắt vào
thập niên 50 của thế kỷ trước. Công viên nằm cạnh sông Mekong mà bên
kia bờ là Thái Lan. Gọi là Công viên Phật nhưng đây là một nơi hòa đồng
tôn giáo có tượng Phật ngồi, Phật nằm, Quan thế âm Bồ tát, tượng thần
rắn Hindu, thần nhiều tay v.v... Những bức tượng xi măng phơi sương nắng
lâu ngày trở nên mốc thếch, xám xám đen đen không có mỹ quan của một
công viên. Khải Hoàn Môn ở trung tâm Vientiane cũng làm từ xi măng cốt
sắt mô phỏng theo Khải Hoàn Môn Paris được làm từ 50 năm trước nhưng vẫn
còn một số công đoạn chưa hoàn thành! Những bức tượng và kiến trúc xi
măng này còn quá trẻ để trở thành một di tích, và chắc cũng không thể là
di tích trong tương lai vì xi măng không phải chất liệu tạo ra những
hiện vật khiến người xem phải trầm trồ chiêm ngưỡng.
Trên đường đi đến Công viên Phật, tôi
đi qua một khu công nghiệp nhẹ của Vientiane, với những nhá máy làm bia,
nhà máy dệt, làm quần áo, phân bón, nông phẩm, và quán xá bình dân bán
thức ăn cho công nhân viên, xen lẫn với những cánh đồng lúa của miền quê
Lào. Hãng la-ve "Con Cọp" có một nhà máy quy mô ở đây. Hãng đã có một
thời vàng son tại Việt Nam trước 75, trở lại Việt Nam vào thập niên 90
nhưng thất bại. Tại Lào, la-ve Con Cọp chiếm được cảm tình của dân Lào
và cái hình con cọp đen cố hữu xuất hiện khắp nơi với thương hiệu mới
"Beer Lao".
Cũng trên con đường này người ta thấy
cuộc chiến ngoại giao gây ảnh hưởng khu vực của các nước hiện rất rõ và
rất nghiêm chỉnh qua các hình thức viện trợ cho Lào. Chính phủ Lào xem
chừng dễ tính, theo chủ nghĩa thực dụng "mại dô, mại dô", tứ hải giai
huynh đệ, hể hả ai cho cũng nhận! Thái Lan viện trợ làm nhà máy sản xuất
nông phẩm, phân bón. Việt Nam ta cũng có một nhà máy liên quan đến thủy
lợi, lọc nước. Quy mô nhìn vào không thấy gì to, nhưng tấm bảng bên
ngoài thì rất là bắt mắt. Chính phủ Nhật hăng hái nhất, từ trung tâm
Vientiane đi ra ngoại ô thành phố nơi nào cũng thấy tấm biển kim loại
khắc quốc kỳ Nhật và Lào trang trọng gắn vào bục xi măng với hàng chữ kể
lể công trình làm bao lâu, tốn bao nhiêu tiền. Đất nước mặt trời mọc đã
từ lâu là một nhà tài trợ hàng đầu cho Lào qua các viện trợ quốc tế,
hoàn thành những công trình hạ tầng cơ sở to lớn như cầu cống, đường sá,
sân bay, có một ảnh hưởng chính trị vô song. Tôi không thấy công trình
viện trợ nào của Trung Quốc, nhưng người anh em xã hội chủ nghĩa này
chắc cũng đang loay hoay không bỏ lỡ cơ hội tìm cách chen chân.
Tình cờ chiếc tuktuk chạy dưới một gầm
cầu của cây cầu rất dài bắc ngang dòng Mekong. Anh lái xe chỉ cây cầu
rồi ngước mắt nhìn phía bên kia bờ bảo tôi "Thái, Thái... Nong Khai,
Nong Khai". Tôi hiểu ngay cây cầu hữu nghị Lào - Thái do chính phủ Úc
xây cất năm 1994. Một việc không hẹn mà gặp. Leo lên cầu phải trả lệ
phí 3000 kíp. Phía bên kia cầu là tỉnh Nong Khai thuộc Thái Lan, thấp
thoáng trong rặng cây xanh chạy dọc theo bờ Mekong là những mái chùa cao
cao với hình dạng cong cong đặc trưng Thái. Người Thái chạy xe bên trái,
người Lào bên phải. Chạy vào lãnh thổ Lào có địa điểm đổi bên. Trên cầu
có đường sắt nối liền Nong Khai và một địa điểm ở ngoại ô Vientiane. Lào
là một nước không có đường sắt và đây là đoạn đường sắt dài vài km duy
nhất của cả nước.
Về đêm con đường chạy dọc theo sông
Mekong khá ồn ào náo nhiệt với khách du lịch, và những dòng xe xuôi
ngược. Dọc theo bờ sông là hàng trăm quán ăn bình dân che bằng ván và
tôn đơn sơ, giăng đèn bóng xanh xanh đỏ đỏ, bán các loại thức ăn Lào kéo
dài chừng một cây số. Người bán thì nhiều, người ăn lại lưa thưa. Quán
nào cũng trang trí giống nhau, bán cùng loại thức ăn. Vài con cá hay vài
cái đùi gà nướng để trên cái lò than đã nguội lạnh từ lâu. Thỉnh thoảng
một con ruồi hay vài con côn trùng bay ngang đáp xuống tận hưởng trước.
Dân Tây ba-lô ăn tạp không dám bước vào, nên tôi cũng tránh xa. Cái dải
đất "water front" dọc theo bờ Mekong này quả là một nơi đất vàng có thể
phát triển thành những nhà hàng hay những căn hộ cao cấp. Nhưng người
Lào có lẽ thấm nhuần triết lý "tri túc tiện túc". Cuộc đời ngắn ngủi,
như vậy đã quá đủ rồi và không cần thiết phải làm thêm!
Lào và Thái Lan có cùng một ngôn ngữ và
văn hóa. Đất nước này đã từng bị người Xiêm tàn phá và đô hộ, nhưng ảnh
hưởng Thái rất sâu đậm trong sinh hoạt hằng ngày của người Lào. Tôi
không phân biệt được kênh truyền hình nào là Thái hay Lào. Nhạc pop Thái
được giới trẻ Lào đặc biệt yêu thích. Việt Nam cũng bành trướng thế lực
và không gian ngoại giao của mình qua sự giao lưu văn hóa, thương mãi,
di dân và chính trị. Tiếng Việt là một ngoại ngữ, đứng thứ ba sau tiếng
Anh và Pháp. Tôi thấy quyển tự điển Lào Việt dày hàng ngàn trang do một
học giả Việt tại Lào biên soạn, được bày bán trong những hàng sách tại
chợ Vientiane. Người Việt hầu như ở khắp nơi, từ cao nguyên Xieng
Khouang đến đồng bằng Vientiane và kéo dài đến Hạ Lào. Có người ở đến ba
đời, có người mới đến ba tháng. Họ hòa nhập vào cuộc sống rất tốt, linh
hoạt và vẫn còn gắn bó với quê hương. Họ tham gia vào mọi hoạt động xã
hội, thương mãi, chính trị của Lào. Họ có thể là một đại gia, nhà kinh
doanh trung lưu, người sở hữu một sạp hàng trong chợ, cho đến một người
bán chè ngọt ở ngõ hẹp Vientiane hay người bán mực nướng "chợ đêm" Luang
Prabang. Con cháu của họ có thể còn thông thạo tiếng Việt, hay chỉ nói
lơ lớ với chất giọng Lào. Cũng có thể họ lai và đã trở thành người Lào,
không biết tiếng Việt nhưng vẫn còn thân nhân xa ở Việt Nam; như một
phục vụ viên nhà hàng tôi gặp ở Luang Prabang bảo rằng còn bà ngoại ở
Điên Biên Phủ mà anh ta thỉnh thoảng đi thăm.
Sau những ngày lang thang ở Phonsavan,
Luang Prabang, Vientiane, đến đâu tôi cũng nghe loáng thoáng hay oang
oang tiếng Việt. Gặp người bản địa trong nhà khách, ngoài đường phố, địa
điểm du lịch, chợ búa, quán ăn tôi nói tiếng Việt thì cứ 10 người có 2,
3 người hiểu. Làm con tính thống kê đơn giản, tôi phỏng chừng người gốc
Việt và hiểu tiếng Việt có thể từ 500.000 đến 1 triệu người trên đất
nước này (8 – 15 % dân số). Con số rất to khi so với người Lào chỉ có 4
triệu người (55 % toàn thể dân số, còn lại là các dân tộc ít người) và
vẫn tiếp tục gia tăng. Chúng ta đang âm thầm làm cuộc "Tây tiến", hay
sang Lào chỉ đơn thuần lập nghiệp vì "làm ăn dễ và người Lào bao dung"?
Sài Gòn
Tôi đáp chuyến bay Hàng không Việt Nam từ
Vientiane, quá cảnh Phnom Penh trở lại Sài Gòn. Phi trường quốc tế
Wattay do Nhật Bản xây tặng có một kiến trúc hiện đại, hoành tráng
nhưng chỉ có 3 cổng lên xuống máy bay, có lẽ là một phi trường vắng
khách nhất thế giới. Tôi nơm nốp lo sợ ông Hàng không Việt Nam lại hủy
chuyến bay vì… thời tiết xấu. Chuyến bay không bị hủy, nhưng cũng không
cho tôi nhiều thiện cảm. Mới bước vào khoang gặp ngay một nữ tiếp viên,
tay thì phân phát giấy tờ nhập cảnh như một cánh tay robot, mắt không
nhìn và chào hành khách, miệng thì bận rộn tập tành đàm thoại Anh
văn với anh chàng phi công trẻ. Đến giờ ăn trưa, khay của tôi thiếu bánh
mì. Tôi xin, và được một nam tiếp viên trả lời "Đã nói rồi mà! Chờ một
chút có được không?". Tôi nghĩ trong tiếng Việt có nhiều từ ngữ rất lịch
sự nhưng chưa được các anh chị tiếp viên tiếp thu đúng mức. Những tiếp
viên trẻ này có lẽ xuất thân từ một giai cấp mới chưa được học tập lễ
giáo và huấn luyện chuyên nghiệp, xem hành khách như một đối tượng phải
miễn cưỡng phục vụ hơn là nguyên nhân sự phồn thịnh của một công ty.
Chiếc phi cơ bay ngang vùng Đông Bắc
Thái Lan, hạ cánh tại Phnom Penh sau 1 tiếng bay, và từ Phnom Penh về
đến Sài Gòn chỉ có 25 phút.
Cuối tháng 4, 2009
TVT