Áo choàng hay không áo choàng?

Vietsciences- Trần thị Vĩnh-Tường           11/10/2009

 

Những bài cùng tác giả

Ngay sau vụ 9-11, một bài viết trên tuần báo Time nêu lên cùng một câu hỏi của hai thanh niên 17 tuổi, một Mỹ và một Middle East. Câu hỏi đầy ngạc nhiên và sợ hãi “Tại sao họ ghét chúng ta”, ”Why they hate us?” Sau đó, người Mỹ đổ xô tìm hiểu về miền Middle East, nơi họ tin vừa gửi đến cho họ một quà tặng đẫm máu: vụ 9-11-2001. 

Tiếng Việt dùng chung chữ “Hồi” cho nhiều ý niệm: Hồi giáo/Islam, người Hồi/Muslim hay Hồi quốc/Pakistan. Theo tiếng Trung Hoa, ý niệm Hồi Hột, Hồi Hồi ám chỉ mạn bắc của Trung Hoa từ năm 616 đến 840, lúc bước chân người Hoa chưa ra khỏi Ngọc Môn Quan và Nhạn Môn Quan. Về sau, ám chỉ luôn cả người và khu vực Trung Á/Central Asia. Do đó, Hồi Hồi này không là “Hồi Hồi” ở miền Trung Đông/Middle East. 

Middle East là một vùng đất khác, cực kỳ đa dạng về ngôn ngữ, sắc tộc, niềm tin, văn hoá, mỹ thuật… Không phải người ở vùng Middle East đều theo Islam, hoặc người Pakistan đều là Muslim, hoặc tất cả người Muslim đều là.… khủng bố. Theo tiếng Arabic, “Islam”để chỉ tôn giáo, “Muslim”để chỉ người theo Islam.  Trước 1975 ở Saigon có một thánh đường Islam ở khu Chợ Cũ. Từ Phan Rang đến Châu Đốc đều có cộng đồng người Chăm Muslim.

Theo cựu tổng thống Jimmy Carter/Nobel Hòa Bình 2002, lịch sử chứng minh những thế lực đối chọi ở Trung Đông luôn cần đến trung gian, Hoa Kỳ chính là thế lực này. Mới đây, ngày 22 tháng sáu, tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã khơi dậy sự bực tức và tò mò nơi thế giới Islam và không-Islam bằng lời phát biểu của ông đọc trước quốc hội Pháp. Ông không chấp nhận tấm khăn choàng burqa của phụ nữ Muslim, coi đó như giam cầm trói buộc họ.

Cả hai suy nghĩ trên rập theo thói quen của người da trắng quen định đoạt số mệnh của người khác dù có hay không đuợc yêu cầu.  Ông Sarkozy quên rằng chính người Anh/Pháp phải chịu trách nhiêm trực tiếp băm vằm miền Middle East theo quyền lợi chia chác của họ sau Thế Chiến I. Sự sát nhập/thành lập một số miền - Iraq, Kuwait, Palestine, Israel- bất kể sự khác biệt sâu xa cả ngàn năm về tôn giáo, sắc tộc, văn hoá và lịch sử, gây bao đau thuơng và là mầm mống cho sự giận dữ gây nên bất ổn cho toàn vùng mãi đến bây giờ.

Lãnh đạo quốc gia, ông Sarkozy có thể không chấp nhận tấm burqa về phương diện an ninh, nhưng không đuợc quyền quyết định một điều chỉ người phụ nữ Muslim mới có: “khăn choàng có giam cầm trói buộc phụ nữ Muslim” không. Không ai có thể trả lời thay cho họ vì mỗi sắc dân có những tư duy văn hoá riêng. Ví dụ  những bức ảnh trên người không một manh vải cuả phu nhân tổng thống Sarkozy, khi còn là một người mẫu đang chạy tứ tung trên internet không hề gây khó chịu nơi người Pháp, tuy điều này chắc chắn không thể chấp nhận ở nước Mỹ. Trong cuốn The Middle East, tạp chí Time ấn hành năm 2006, phụ nữ Muslim cho rằng chính niềm tin tôn giáo đã giải phóng họ. Tấm áo choàng che kín mặt mũi họ chính là biểu tượng của tự do, che chở họ khỏi dục vọng của đàn ông, và là niềm hãnh diện Islam.

Tổng thống Sarkozy cũng có thể từ chối người Muslim nhập cảnh. Nhưng nếu nhận sự có mặt và phần đóng góp của họ vào nước Pháp, tại sao kỳ thị y phục của họ?  Bộ áo không làm nên thầy tu, bộ áo cũng không làm nên khủng bố. Cấm burqa không có nghĩa là tiêu diệt hết nguyên nhân sâu xa của khủng bố, bất ổn. Câu trả lời nằm trong câu hỏi của Hugo Grotius, cha đẻ môn Luật Quốc Tế “Không biết loài người nằm trong tay khoảng một trăm người, hay một trăm người này thuộc về loài người”. Ông nghiêng về ý kiến thứ nhất: loài người như những bầy thú vật đựơc một ông chủ cao quí chăn dắt, ngả thịt khi cần.

Một thoáng lịch sử

Tấm khăn choàng không phải chỉ độc quyền nơi người Muslim. Phụ nữ Hy Lạp thời cổ đều đội khăn. Ở châu Âu, mãi đến năm 1175, phụ nữ có gia đình đều đội khăn che kín tóc và cổ.  Mãi đến thời Tudor (1485-1603) mới chế ra mũ, gọi là hood, chùm đầu và cổ. Cô dâu thời La Mã đội khăn màu cam, màu của lửa che chở cô dâu khỏi ma quỉ. Ngày xưa các trinh nữ châu Âu để tóc dài. Cô nào kém tóc, thay thế bằng tấm khăn dài đến lưng. Chú rể là người mở khăn cô dâu, như chứng nhận sự trinh tuyền và hứa hẹn trước mặt gia đình sẽ yêu thuơng và bảo bọc cô đến trọn đời.

Đám cưới Queen Victoria với Prince Albert ngày 10/02/1840 . Tranh của Sir Georges Hayter

Nữ Hoàng Victoria (1837-1901) mặc áo cưới trắng, choàng khăn trắng làm cả châu Âu bắt chước “white wedding”.  Sau khi hoàng tế Albert mất, nữ hoàng Victoria không trang điểm.  Khi cần phải xuất hiện, bà đội một chiếc mũ vải khiêm nhường. Đó là chiếc bonnet, khai sinh ra nhũng chiếc mũ vải xinh xắn sau này.

Bà Ngô Đình NhuỞ Spain, cô dâu choàng mantilla ren trắng từ đầu đến chân không khác burqa của Muslim. Phụ nữ đi nhà thờ phải choàng mantilla  đen. Tờ Life lưu giữ ảnh Bà Ngô Đình Nhu đang đọc kinh, đẹp quí phái dưới tấm mantilla đen dài đến lưng. Khắp thế giới,  khăn voan trắng hay voan đen đều bắt nguồn từ ý niệm Islam. Ngay cả mảnh áo dài hững hờ may bằng hàng mousseline mỏng như giọt mưa một thời bay lượn phố phường Saigon, cũng từ Islam.

Mosul, thành phố lớn thứ nhì sau Baghdad, nổi tiếng về nghệ thuật dệt những chiếc khăn lụa mỏng che mặt cho giói quí tộc Muslim. Khăn lụa Mosul nổi tiếng trong thế giới Ả Rập với truyện Ngàn Lẻ Một Đêm. Mỗi đêm, người đẹp dở khăn lụa Mosul viền vàng, hai mắt to đen hình trái olive, môi ngọt như trái chà là kể cho vua nghe một câu chuyện huyền bí theo phong cách Ả Rập sâu sắc, ly kỳ, mà tới giờ vẫn không chuyện cổ tích nào có thể thay thế đuợc.

Từ 1600, Âu châu du nhập khăn Musol. Tiếng Pháp: mousseline, tiếng Ý: mussolino, tiếng Tây Ban Nha: muselina, đều có gốc từ chữ Mosul. Mosul ở Âu châu dệt bằng bông vải, về sau rayon mỏng hơn nhưng không bao giờ đạt đuợc vẻ mềm mại bóng bẩy của khăn lụa Mosul. Mosul bây giờ chỉ còn là đống gạch vụn thê thảm đầy bom đạn, kể từ năm 2003 khi tổng thống Bush thừa lệnh phó tổng thống Dick Cheney mang quân chiếm Irak tìm “vũ khí tàn sát tập thể”.

Hoàng hậu Marie Antoinette (1755-1793)

Thế kỷ 18, ở Pháp, khăn choàng và mũ không còn ý nghĩa che chắn hay bảo vệ nữa. Madame de Pompadour (1721-1764), người tình của vua Louis XV, chỉ quấn một khăn hoa cùng màu với bộ váy.  Hoàng hậu Marie Antoinette (1755-1793) gắn trên đầu những chiếc mũ diêm dúa cắm đầy đăng ten hoa lá lông chim đuôi chồn trông như một sở thú nho nhỏ. Kinh thành Paris rộn ràng vui dưới lớp váy xoè sột soạt và mũ đủ mầu đủ kiểu.

Ở châu Phi, cuộc sống du mục ruổi rong qua sa mạc đầy gió cát, đàn ông đàn bà đều khoác áo choàng rộng phủ từ đầu đến chân.  Một phim tài liệu chiếu cảnh nhà gái đưa dâu trên lưng ngựa băng ngang qua cồn cát. Ai nấy phủ kín mít giống nhau đề phòng cô dâu bị phục kích bắt cóc giữa đàng. Ngày nay, tổng thống Obama tuy di chuyển trên trời, nhưng cũng áp dụng chiến thuật này: cả hai chiếc Air Force I và Air Force II đều bay một lượt.

Phụ nữ miền Central Asia có nơi  không choàng khăn, nhưng quấn nhiều tấm vải đủ mầu với nhau trên đầu như một turban.

Ở Việt Nam, mỗi sắc tộc đều có khăn đội đầu. Đơn sơ nhất là khăn  mỏ quạ của dân tộc Kinh đồng bằng: khăn vuông gấp chéo, màu đen nhuộm bằng bùn.  Đẹp nhất là khăn Piêu của sắc tộc Thái miền núi. Các noọng dệt Piêu, thêu chỉ đỏ chỉ hồng cho ngày hội tung còn.  Ở miền Trung, hình như các bà các cô ít đội khăn, ngoại trừ trời lạnh. Đàn ông đàn bà người Chăm đều đội khăn. Ở trong Nam, các bà phong lưu khoác khăn lụa có in bông lớn gấp chéo choàng sau lưng thắt nút trước ngực trông rất sang.  Người bình dân dùng khăn rằn che nắng, kéo chùi quết trầu hay xuống sông tắm quấn ngang ngực đặng tôm cá khỏi giựt mình.

Theo Cựu ước của Do Thái, Rebekah, cháu gái của Abraham - ông tổ chung của ba tôn giáo Do Thái/Muslim/Ki Tô -  đi gặp vị hôn phu Isaac, nàng không che mặt. Lúc Isaac lại gần nàng kéo khăn che kín. Sau khi đuợc tu sĩ chúc phúc, Isaac mới mở  khăn ra. Tấm khăn như một khoảng cách cần thiết bảo vệ cô gái cho đến khi thuộc hẳn về chồng.

Cựu ước cũng ghi Jacob gặp Rachael đang chăn cừu liền xin cưới nàng.  Ông bố Labab ra điều kiện Jacob phải làm việc cho ông 7 năm. Ngày cưới, ông Labab đánh tráo cô chị Leah, lớn tuổi hơn cô em Rachael. Leah chùm khăn kín mít nên Jacob không hay. Sau đó, ông nhạc Labah rủ rê nếu Jacob chịu làm không công thêm 7 năm nữa, ông sẽ gả nốt Rachael.  Jacob đồng ý, nhưng lần này cẩn thận giở khăn che mặt, kẻo không có thể lại bị ông già xí gạt uổng đời trai chăn cừu thêm 7 năm nữa không chừng. Từ đó mới có tục chú rể mở khăn che mặt. Có lẽ người Do Thái buôn bán khôn ngoan và giỏi chính trị nhờ kinh nghiệm bố vợ truyền từ Cựu Ứơc. Ai bảo chăn cừu là  khổ?

 

Riêng tại Middle East

Tấm khăn choàng là truyền thống, không phải định chế tôn giáo. Với người Muslim, đàn ông phải có râu đàn bà phải có khăn. Khăn choàng đã có từ thời Assryria với nền văn minh Lưỡng Hà. Tương truyền, vì hoàng hậu quá đẹp nên trước khi ra trận, vua buộc bà và nguyên một dàn cung nữ phải đội khăn che kín mặt. Từ đó, chỉ hoàng gia mới đuợc che mặt. Về sau, dân dã mới bắt chước. Ngoài những lý do khác, phụ nữ Muslim lưu giữ tấm khăn choàng có thể vì hãnh diện với huyền thoại này. Theo một huyền thoại khác, thời tiền-Islam, trước khi chiến binh ra trận, phụ nữ khuyến khích họ bằng cách để ngực trần. Sau Islam, hệ thống tâm linh thay đổi, phụ nữ choàng khăn kín đáo. Duy có nơi vẫn để ngực trần, như một số bộ tộc ở châu Phi.

Khăn chứng tỏ vưong quyền nhất là khăn của những vị vua Ai Cập đã có từ nhiều ngàn năm trước Công Nguyên. Khăn kết bằng đá quí, vàng bạc tỏ sự giàu sang hay quyền uy chói lọi, trên trán có hai con rắn tuợng trưng cho lửa. Khăn của Cleopatre, nữ hoàng Ai Cập cuối cùng (69- 30 BC), đính đầy đá quí emerald. Elizabeth Taylor đóng vai Cleopatre, là nguòi Do Thái 100%.

Trước khi có Islam, giá trị phụ nữ Middle East còn kém gia súc. Vào thế kỷ thứ bẩy, kể từ khi thiên sứ Muhammed rao giảng Islam, thân phận phụ nữ thay đổi sâu xa.  Islam đình chỉ việc coi họ là món hàng của dục tình, cho phụ nữ đuợc quyền thừa kế, cấm không đuợc chôn sống bé gái và coi nền giáo dục cho các em gái là một điều thiêng liêng. Theo tác giả Từ Công Nhượng, người Muslim dâng tặng ông là “thiên sứ Muhammed”, tiếng Việt trước đây gọi ông là “thánh Muhammed” hay “tiên tri Muhammed” không hợp với vai trò của ông, vốn là sứ giả của thượng đế, đấng Allah.

Hijab tiếng Arabic có nghĩa tấm màn, che chắn, trú ẩn. Theo nghĩa Muslim có nghĩa “khăn che đầu và áo phụ nữ.”  Hijab là khăn vuông đủ mầu, che tóc và cổ, cho cả nam lẫn nữ.  Kinh Qur’an không hề qui định phải choàng khăn. Duy có lần thánh Gabriel mặc khải với thiên sứ Mahammed “Vợ ngươi cần phải y phục đoan trang”. Cũng cần nói thiên sứ Muhammad có năm vợ từ nhiều bộ tộc nên y phục có thể khác nhau. Sự nhắc nhở trên có thể chỉ nhằm riêng cho vợ của Mohammed vì bà phải làm gương trước.

Theo giáo sư Sushila Singh/Banaras Hindu University ở Varanasi, Ấn Độ, Hijab là phẩm giá cao trọng cuả phụ nữ, tấm khăn Purdah che chở phẩm giá ấy. Phụ nữ Ấn đuợc chọn lựa có choàng hay không, choàng khăn trên đâù hay chỉ khoác hững hờ qua vai

Khăn niqab che kín đầu cổ và mặt, chỉ hở mắt, ông Jack Straw, Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp nước Anh không muốn phụ nữ Muslim dùng khăn này. Khăn burka là loại kín mít che từ đầu đến chân, chỉ để hở một mạng lưới nhỏ ở mắt, thường thấy ở vùng Bắc Afghanistan.

Loại thông dụng nhất là al-amira gồm 1 mũ và một khăn quấn cổ, Khăn shayla là một miếng vải dài hinh chữ nhật quấn quanh đầu và chung quanh vai. Phụ nữ vùng Vịnh thích loại này

Khăn khimar gồm một khăn dài che tóc, cổ và vai, để lộ mặt; và áo rộng dài tới chân.  Người phụ nữ Middle East nổi tiếng phủ khimar chính là Đức Mẹ Maria. Áo dòng của Ki Tô giáo thuộc cả hai giáo hội Phương Đông (Hy Lạp) và Phương Tây (La Mã) từa tụa như khimar, màu đen, trắng, nâu, xanh da trời.

Khăn chador phủ toàn thể thân hình, phụ nữ Iran thường khoác khi đi ra  ngoài.  Những bức tuợng Iran xưa hàng ngàn năm cho thấy có người đội khăn có người không.  

Sau cuôc biểu tình đẫm máu ở Iran hai tuần trước, Neda ngã xuống, cổ họng phun máu con mắt mở lớn kinh hoàng. “Họ đã giết Neda, nhưng không diệt đuợc tiếng nói của cô, Neda là chị em, là con gái của mọi người, là tiếng nói khát vọng của tự do”.

Ngày 22-6 “Reza Pahlavi, hoàng thái tử của triều đại Iran cuối cùng, nói với phóng viên AFP ở Washington “Neda sẽ là con gái tôi. Neda sẽ luôn ở cùng chúng tôi”.  Trong ví tay, ông giữ tấm ảnh Neda choàng khăn trong cùng ngăn với hình ảnh vợ con ông.

70 năm trứơc, phụ nữ Muslim tranh đấu để bỏ tấm khăn choàng. Ngày nay, khi Islam ngày càng quay lại với truyền thống ngàn xưa, liệu phụ nữ Muslim sẽ vùng vẫy như phụ nữ phương Tây, hay sẽ vĩnh viễn dấu mình dưới tấm khăn choàng ấy?  Ước vọng Muslim năm 2009 sẽ đơn thuần chỉ là việc giữ lại hay bãi bỏ tấm khăn choàng? Hay khát vọng cháy bỏng đòi hỏi quyền được làm người tự do “sẽ cất cánh vượt lên tận cõi thiêng liêng vươn xa hơn cả tấm mạng che phủ đất trời”(2) ?

 

trần thị vĩnh tường, 25 tháng Sáu, 2009

-----------------------------------------------------

(1)   Âm Duơng Trong Islam - Từ Công Nhuợng-  Tủ Sách Tìm Hiểu Islam/California 2004

(2) The Veil - Farid al-Din 'Attar (1142-1221), thầy thuốc, lý thuyết gia, nhà thần học, thi sĩ lớn nhất của xứ Iran. Khi người Mông Cổ xâm lăng Iran, ông bị họ chặt đầu vì nhạo báng họ. Ông đuợc chôn trong ngôi nhà mồ tuyệt đẹp cẩn đá turquoise ở Nishapur, Iran

 

 

            ©  http://vietsciences.free.frr  và http://vietsciences.org    Trần thị Vĩnh-Tường