Óc
eo, Kiên Giang, Rạch Giá, núi Ba Thê, Long Xuyên,
những địa danh mà tôi nhớ mãi sau khi mới bước vào
trung học năm 1967 và lần đầu tiên làm bài tập lịch
sử. Thầy tôi bảo chúng tôi phải đến viện bảo tàng
Saigon trong thảo cầm viên để tìm hiểu về văn hóa và
văn minh Phù Nam mà di vật khảo cổ đã được tìm thấy
ở Óc Eo. Ở viện bảo tàng, tôi tìm tòi học hỏi sau đó
viết và nộp bản báo cáo về các di vật của nền văn
minh này. Trong đó có những đồng tiền cổ trên mặt
khắc hình hoàng đế Antonious Pious của La Mã, chứng
tỏ nền văn minh Óc Eo có liên hệ thương mãi hàng hải
xa xôi với các nền văn minh Cận Đông và phương Tây.
Đây là sự tiếp cận đầu tiên với một nền vãn hóa mới
lạ và khác biệt với vãn hóa của môi trường mà tôi
sinh trưởng. Phù Nam, Chân Lạp, Angkor là những xã
hội bị ảnh hưởng Ấn độ sớm ở Đông Nam Á. Di sản văn
hóa Angkor đã truyền lại ở đất nước Cambodia và ảnh
hưởng đến các nước lân cận, Thái Lan và Lào. Sau này
qua nhiều nãm sau, tôi được đọc một số tác phẩm của
nhà văn Lê Hương về lịch sử và văn hóa Khmer và ảnh
hưởng vào đặc thù văn hóa Nam bộ, làm gợi thêm trí
tò mò học hỏi của tôi. Khăn quàng, canh chua là
những thí dụ đặc thù mà người dân Nam bộ mang vào từ
văn hóa đời sống người Khmer khi tiếp cận và sinh
sống chung với họ. Dấu ấn ảnh hưởng Khmer còn lưu
lại khắp đồng bằng sông Cửu Long. Ngay cả ở
Sài Gòn, Biên Hòa vẫn còn dấu tích xưa. Hiện
nay ở Châu Đốc, Long Xuyên, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà
Vinh vẫn còn cộng đồng người Khmer cư ngụ ở các sóc,
làng riêng biệt hay sống chung với người Việt.
Ngôn ngữ Khmer


Ngôn
ngữ Khmer là ngôn ngữ cổ lâu đời nhất trên lục địa
Đông Nam Á, thuộc hệ Môn-Khmer. Tiếng Việt ngày nay
có nhiều vết tích Môn-Khmer cho thấy cơ bản là dựa
trên tầng cổ xưa này. Các nhà ngôn ngữ học trước kia
cũng đã từng xếp tiếng Việt là thuộc hệ ngôn ngữ
Môn-Khmer. Ngôn ngữ Môn-Khmer trãi rộng từ Miến Điện
qua Thái Lan đến Cambodia, cao nguyên Việt Nam. Nền
văn minh Môn Dvaravati đã để lại nhiều dấu ấn từ
Miến Điện đến Thái Lan. Ở một số nơi trên Ấn-Độ còn
có các sắc dân thiểu số nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ
Môn-Khmer. Các cư dân cổ nhất là những bộ lạc còn
sót lại trên đảo Nicobar và Aldaman ở Ấn Độ dương
cũng cùng thuộc hệ ngôn ngữ. Có thể nói Môn-Khmer là
ngôn ngữ của dân cổ nhất Đông Nam Á. Một vài thí dụ
về gốc liên hệ các từ cơ bản nhất trong tiếng Việt
và các từ của các ngôn ngữ thuộc hệ Môn-Khmer như:
ăn, con, đất, mà, muỗi, mắt, ngà, ruột, rương, sá
(đường sá), sông, tắm.
Bẳng
qua một thời gian lâu, đến nãm 1982, tôi bắt đầu tìm
hiểu về triết lý Phật giáo nhân dịp viếng thăm Thái
Lan, ở trong chùa trong một làng gần thành phố
Singburi. Chúng tôi ở nhà một người bạn Thái trong
vài ngày, anh bạn Thái vẫn còn trẻ của chúng tôi là
một thầy tu. Sự tiếp đón ân cần của gia đình anh bạn
làm tôi rất cảm động. Đời sống của họ ở thôn quê
cũng không khác chi đời sống ở các làng mạc Việt
Nam. Thái Lan cũng như Cambodia đều chịu ảnh hưởng
của Phật giáo tăng già nguyên thủy (Theravada). Văn
hóa Thái Lan từ kiến trúc, thần thoại, chữ viết ..
là do sự tiếp nhận từ di sản của người Môn và Khmer
đã từng cư ngụ ở vùng này lâu đời trước khi người
Thái di dân xuống từ Vân Nam sau khi
Mông Cổ đi
chinh phục các tỉnh phía nam Trung quốc. Từ thành
phố Singburi, tôi đến Ayuthaya, một kinh đô cổ của
Thái Lan nay đã bị đổ nát, với một người bạn phật tử
Úc vừa mới qui y đi cùng với gia đình người bạn
Thái. Ở Ayuthaya, tôi nhận thấy người Thái từ khi đi
từ Vân Nam xuống sau sự chinh phục của Mông Cổ đã
hấp thụ văn hóa Môn-Khmer, từ kiến trúc, tôn giáo,
chữ viết, một cách nhanh chóng và phát triển rực rỡ
với đặc thù riêng biệt. Điều gì đã làm một dân tộc
đi chinh phục hấp thụ văn hóa cu/a dân tộc khác bị
bại trận đã biến mất ?. Một câu hỏi khó trả lời nếu
không tìm hiểu sâu sa nền văn minh Khmer.
Tôi
một mình tự tìm đường và phương tiện đến Phimai, nơi
có di tích của một đền Khmer nổi tiếng, có kiến trúc
cùng thời như ở Angkor. Đền đã đổ nát nằm giữa thành
phố, gần chợ. Vào đền đi dạo giữa cảnh đổ nát của
nền văn minh xưa cổ, tôi rất bồi hồi. Hôm đó tôi là
du khách duy nhất, ngồi nói chuyện với anh bảo quản
đền, anh còn rất trẻ làm cho Bộ Văn hóa Nghệ Thuật
Hoàng gia Thái. Trong khoảng thời gian này và kéo
dài mãi đến lúc cuối thập niên 1980, Angkor bị biệt
lập chìm trong hoang vu do chiến tranh và hoàn cảnh
chính trị thế giới lúc đó không cho phép kiến trúc
và nền văn minh này được tiếp cận với thế giới bên
ngoài. Vì không đến được Angkor, nên khi tạm đến một
nơi có kiến trúc tương tự của một Angkor thu nhỏ
cũng là một niềm an ủi cho tôi rồi.
Bước
sang thế kỷ 21, Cambodia đã thay đổi rất nhiều so
với những năm đen tối khi Khmer Rouge vẫn còn là một
cản trở cho bước tiến của dân tộc và đất nước
Cambodia. Angkor đã trở thành nơi du lịch văn hóa
thu hút du khách nước ngoài nhiều nhất ở đất nước
này. Phi trường Siem Reap được Pháp giúp đỡ và tân
trang trở thành một phi cảng quốc tế hiện đại, cửa
ngỏ tới quần thể Angkor cách Siem Reap vài cây số.
Từ
Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi ngày dều có chuyến bay và
xe đi Phnom Penh hoặc Siem Reap. Ngoài ra theo
đường
tàu thủy, du khách có thể đi từ Cần Thơ hay Châu Đốc
đến Phnom Penh rồi sau đó đi Siem Reap. Các dịch vụ
du lịch ở nhiều nơi trong thành phố đều có chương
trình đi qua Cambodia. Tôi đăng ký chuyến xe đi
Phnom Penh ở Sinh Cafe trong khu vực đường Phạm Ngũ
Lão. Sáng sớm 7 giờ xe khởi hành, trên xe có vài
người Khmer làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh trở về
Cambodia và rất nhiều du khách “Tây ba lô” đi trên
chuyến xe. Đến Mộc Bài, cửa khẩu biên giới, mọi
người đều xuống xe đến hải quan làm thủ tục xuất
cảnh, sau đó đi bộ qua một khoảng ngắn qua biên giới
đến cổng lớn nơi có hải quan Cambodia để làm thủ tục
nhập cảnh. Thị thực (visa) có thể được lấy liền tại
chỗ cho các du khách. Trước khi về Việt Nam du khách
có hộ chiếu nước ngoài nên xin thị thực nhiều lần
(multiple entry visa) vì khi qua Cambodia là thị
thực nhập hết hiệu lực khi rời Việt Nạm Tôi chỉ có
thị thực vào Việt Nam một lần nên được dịch vụ ở
Sinh Cafe chỉ bảo là phải đến Saigon Tourist nằm ở
trung tâm Saigon trên đường Lê Thánh Tông. Tại đây
có dịch vụ xin thành phố cấp thị thực ngay tại phi
trường Tân Sơn Nhất khi trở về. Dịch vụ của Saigon
Tourist là 25$ đô Mỹ để điền đơn, xin chính quyền
thành phố cho giấy quyết định được thị thực nhập
cảnh vào Việt Nam tại phi trường khi trở về và 30$
đô la cho chi phí thị thực. Nên nhớ thị thực này chỉ
có hiệu lực 30 ngày ở Việt Nam chứ không phải 3
tháng như khi được cấp ở nước sở tại.
Sau
khi qua cửa khẩu xuất cảnh phía bên Việt Nam, khách
phải đi bộ một đoạn đường qua cửa khẩu để đến cổng
biên giới phía Cambodia. Với số hành lý nhẹ mang
theo, chúng tôi không vất vả bao nhiêu, nhưng cũng
dùng một anh khuân đồ giúp. Một dịch vụ ăn khách
mà rất nhiều người phải nhờ vào.
Vào Cambodia, xe
khách phía Cambodia của công ty Capitol Tours (có
liên hệ trước với dịch vụ ở Sinh Cafe) đã chờ để
tiếp tục đi Phnom Penh. Đường đi từ Mộc Bài đến
Phnom Penh, khác với đường từ Saigon, rất xấu, ghồ
ghề và vì thế ngồi trên xe phải chịu “sóc” trên cả
đoạn đường này. Dọc đường đi qua nhiều làng mạc, tôi
đều thấy mỗi nơi đều có trụ sở với biểu ngữ và cờ
của 3 đảng chính trên chính trường Cambodia: Đảng
Nhân dân của Hun Sen, Funcipec của ông hoàng
Ranarridh và đảng Sam Rainsy của chính ông Sam
Rainsy. Thế mới biết mực độ cạnh tranh chính trị ở
Cambodia để giành lá phiếu của người dân rất là gay
gắt và cam go.
Ở
một trạm nghỉ trong một quán dọc đường, ngồi uống
nước với khung cảnh không khác chi trên nhiều nẻo
đường ở Việt Nam, ngoại trừ hình ảnh các cây thốt
nốt và người dân Khmer. Tôi đặc biệt chú ý đến một
cô bé bán rong đi lại bán hàng cho chúng tôi. Khi
nhìn thấy hàng bày bán, tôi mới giật mình vì hàng là
các con nhện và bò cạp chiên để ăn. Dĩ nhiên vì
không quen tôi không dám thử. Khoảng 3 giờ chiều thì
đến ngoại ô Phnom Penh, qua khỏi cầu Monivong là vào
trung tâm thành phố Phnom Penh, xe đậu ở nhà khách
của công ty xe khách Capitol Tours. Nhắc lại ngày
xưa năm 1940 ông Vương Hồng Sển trong bút ký của
ông (2) nói về chuyến đi thăm quan Angkor bằng xe du
lịch từ Saigon, xe phải chạy liên tục gần 1 ngày mới
đến Siemrep. Chuyến đi chưa đầy nửa ngày của tôi như
vậy là tốt lắm rồi. Chúng tôi đăng ký nghỉ tại nhà
khách Nice Guesthouse, bên cạnh nhà khách Capitol
Tours, trên đường 107, gần toà đại sứ Đức trên đại
lộ chính Monivong. Khu vực này là tụ điểm du lịch
giống như khu Phạm Ngũ Lão ở Saigon.
Phnom Penh
Phnom Penh sầm uất, cũng giống Saigon là xe gắn máy
rất nhiều. Ngay tối hôm đó (17/1/2004), tôi và người bạn đi xích lô đến bờ
sông Tonle Sap ngay trung tâm thành phố. Lúc thương
lượng gíá xe với anh xích lô mới biết anh là người
Việt. Ở Phnom Penh còn có rất nhiều người Việt sinh
sống. Dọc bờ sông Tonle Sap, trên con đường gọi là
Sisowat Quay, quang cảnh rất thơ mộng. Bây giờ là
tháng giêng nên lượng nước sông Tonle Sap ít đi
nhiều, mực nước xuống thấp và hướng nước chảy là từ
biển hồ Tonle Sap chảy về sông Cửu Long xuống biển
đông ở miền nam Việt Nam. Lúc nước lớn, hướng nước
từ sông Cửu Long, Bassac chảy ngược về biển hồ.
Thành phố Phnom Penh nằm ở giao điểm của 3 con sông
Tonle Sap, sông Bassac và sông Cửu Long. Tương
truyền thành phố được thành lập do một bà tên Penh
xây một chùa trên một đồi nhỏ (phnom) thờ 4 tượng
phật vàng vì bà đã tìm thấy lúc mùa nước dâng ngập
từ sông trôi vào một cây gỗ bên trong có chứa 4
tượng trên, Hiện nay chùa Wat Phnom vần còn, và là
địa điểm nhiều du khách và dân đến thăm viếng và
cúng bái để được may mắn và làm ăn phát đạt. Trong
Wat Phnom có tượng thần tài Preah Chau mà nhiều
người Việt và Hoa rất chuộng để thờ cúng.
Chiều tối dân thành phố ra phố Sisowat Quay dọc bờ
sông đi dạo và thưởng thức rất nhiều. Trên đại lộ
Sisowat Quay, dọc sông là các cung điện, viện bảo
tàng, các khách sạn, cửa hàng và nhà hàng rất lịch
sự và sang trọng. Toà nhà Câu Lạc bộ Ký giả nước
ngoài (Foreign Correspondents Club) nổi tiếng, mô tả
trong phim “Cánh đồng chết” (The killing field),
cũng nằm trên con đường này. Cảnh trí giống như
đường Đồng Khởi và Nguyễn Huệ ở Saigon, nhưng rộng
lớn và thanh lịch hơn. Gió mát với cảnh trí thanh
bình không như những ngày biến động đen tối đã qua
trong quá khứ.
Trong các quán ăn, nhà hàng có rất nhiều du khách từ
nhiều nước, chủ yếu là từ các nước phương Tây. Buổi
ăn tối của chúng tôi hôm ấy rất thưởng lãm, ông chủ
là người Khmer sống ở Marseilles (Pháp) từ nhiều
năm, nay trở về làm ăn sinh sống ở quê hương mình.
Ông nói từ vài năm qua Cambodia đã thay đổi rất
nhiều và tương lai rất sáng sủa. Với vị trí tốt của
nhà hàng của ông nằm trên dãy phố sang trọng dọc bờ
sông, và số lượng du khách đến Cambodia càng nhiều,
tôi không thể nào không đồng ý với ông.
Gần
đến khuya, chúng tôi đón xe xích lô trở về khách
sạn, anh xích lô người Việt đợi chúng tôi tại địa
điểm nhà hàng mà trước đó anh đã thả chúng tôi
xuống. Ban đêm, gió mát từ sông, trong phong cảnh
phố xá vắng lặng đi qua các đường dưới hàng cây, với
ánh đèn neon yếu ớt từ các nhà dân và các toà nhà
của các cơ quan hắt xuống đường đã vắng xe, tôi có
cảm tưởng mình trở lại quá khứ thời thơ ấu xa xưa
những năm của thập niên ở Saigon trước chiến tranh
lúc thành phố còn ít người, ít xe cộ, và không xô bồ
như thời buổi hiện nay.
Siem Reap
Sau
khi ở lại Phnom Penh một đêm, sáng hôm sau tôi đăng
ký vé đi Siem Reap bằng đường thủy. Từ Phnom Penh đi
Siem Rep có ba phương tiện chính: đường bộ bằng xe
khách, tàu thủy và phi cơ. Có thể đi Siem Rep bằng
xe lửa nhưng phương tiện này không bảo đảm đúng giờ
và an toàn. Đi bằng tàu thủy nhanh và thoải mái hơn
đi đường bộ bằng xe khách. Không may là sáng hôm đó,
vé đi tàu đã bán hết và không còn chỗ nào, buộc lòng
tôi phải đi xe tour đăng ký từ các nhà khách để đi
Siem Reap. Tỉnh Siem Reap hiện được đảng Funcipec
nắm quyền. Đây là tỉnh giàu nhất Cambodia với nền
kinh tế chính là dựa vào là du lịch : trọng điểm là
quần thể di sản thế giới Angkor. Siem Reap có phi
trường rất hiện đại và có các đường bay quốc tế đến
thẳng trực tiếp từ nhiều năm trước đây. Vì thế đã có
lần chính phủ trung ương ở Phnom Penh do đảng Nhân
Dân nắm quyền muốn các đường bay chở du khách phải
đến Phnom Penh truớc rồi mới được đến Siem Reap để
kiếm thêm lợi nhuận du lịch. Nhưng điều này đã không
thực hiện được. Đối với người dân Khmer thì Angkor
là tượng trưng cho nền văn minh rực rỡ của họ, cái
tinh tuý nhất của dân tộc họ. Họ rất tự hào là dân
tộc họ đã tạo lập ra Angkor. Năm 2003, có tin trên
báo (không đúng vì dưa theo tin đồn) là một ca sĩ
Thái rất được chuộng ở Cambodia ra điều kiện để cô
đến viếng Cambodia là Cambodia phải trả Angkor lại
cho Thái Lan. Tin này đã gây ra một cuộc nổi loạn và
biểu tình lớn kéo dài nhiều ngày chống Thái Lan ở
Phnom Penh.Toà đại sứ Thái bị bao vây và đập phá.
Kiều dân Thái đã phải di tản trở về Thái để tránh
bạo động. Ngoại giao giữa hai nước xuống rất thấp và
rất căng thẳng. Chính phủ Thái Lan đã yêu cầu chính
phủ Cambodia phải xin lổi về biến cố bài Thái này.
Đường đi Siem Reap cũng gồ ghề và gây cấn như đường
từ Mộc Bài đến Phnom Penh. Trên chuyến xe này, tôi
được ngồi cạnh 2 du khách Pháp, một trẻ một già,
cũng đi thăm quan Angkor. Ông Pháp già không nói
được tiếng Anh. Tôi dùng tiếng Pháp ngày xưa đã học
để nói chuyện. Người Pháp vẫn coi Cambodia là nước
mà họ có nhiều ảnh hưởng, có những quyền lợi và liên
hệ lịch sử đặc biệt. Người Khmer cũng vậy, chịu ảnh
hưởng và ưa chuộng văn hóa Pháp. Nói chung nhiều
người Khmer nói được tiếng Pháp rành rõi hơn người
Việt. Ông Pháp già có kể tôi rầng ông
André
Malraux, văn sĩ Pháp và sau này là tổng trưởng văn
hóa trong chính phủ De Gaulle lúc còn trẻ đã có qua
Angkor và đã bị bắt vì lấy đi một số hiện vật ở
Angkor.
Chiều thì xe mới đến Siem Reap, xe đậu tại “nhà
khách Ta Som”, mọi người xuống xe và được chủ nhà
khách mời ở lại nhà khách. Nơi đây giá rất phải
chăng (khoảng 10 đô Mỹ một đêm với phòng lớn không
có máy lạnh cho 2 người), một số khách Tây ba lô ở
lại nhà khách, còn lại đa số đã biết chỗ khác nên
tự động đi dùng phương tiện riêng. Chúng tôi muốn có
phòng có nước nóng và máy điều hòa không khí, nhưng
đã hết chỗ. Ông “chủ nhà khách Ta Som” điện thoại
đến một nơi khác còn có chỗ cùng giá với chỗ của ông
và nhờ nhân viên của ông đưa chúng tôi đến nhà khách
gần đó. Chúng tôi ở một nhà khách gần chợ. Người bạn
đi cùng rất lanh lợi và nhiều hiểu biết của tôi nói
là ông chủ nhà khách Ta Som và nhà khách chúng tôi ở
có quan hệ và chia hoa hồng khi giới thiệu khách cho
nhau. Sau khi tắm rửa, tôi đi dạo quanh gần nhà
khách. Thành phố Siem Reap rất nhỏ, nhưng hiện nay
đang nở rộ mọc ra các khách sạn lớn, nhỏ đủ loại,
các nhà khách (guest houses), các nhà hàng và các tụ
điểm Internet cafe rất hiện đại. Du khách đến rất
nhiều nhất là các du khách trẻ Tây ba lô
(backpackers). Chiều hôm đó tôi đăng ký đi thăm quan
vài ngày đến quần thể Angkor. Sau khi tắm
rửa, nghỉ
ngơi, chúng tôi có dịp đi dạo phố, vòng chợ ở Siem
Reap, ăn uống những món ăn Khmer ở các nhà hàng dọc
đường trong khu vực gần các nhà trọ mà du khách Tây
ba lô thường trú ngụ. Ở Siem Reap có những địa điểm
vật lý trị liệu mà nhân viên là những người khuyến
tật (mù), các địa điểm này hầu như là nơi duy nhất
giúp đỡ họ có công ăn việc làm. Giá rất phải chăng
và rất nhiều du khách đến để thư giãn như chúng tôi
sau khi ăn tối.
Sáng
hôm sau, chúng tôi đi đến trụ sở dịch vụ Tour Angkor
để đi thăm quan quần thể Angkor. Quần thể Angkor rất
lớn rộng khoảng 420 km2, trong đó có
nhiều đền, cung điện. Vì thế cần phải thuê bao xe
cho nguyên ngày để thăm quan. Một số khá đông du
khách Tây ba lô mướn xe gắn máy hay dùng dịch vụ “xe
ôm” để đi thăm quan. Xe chúng tôi giống như xe lam
ở Saigon chở chúng tôi và anh hướng dẫn viên vừa mới
ra trường hướng đẫn du lịch. Anh còn trẻ, nói năng
nhỏ nhẹ và lịch sử. Theo anh thì muốn được làm hướng
dẫn viên Angkor phải học một khóa học do chính phủ
tổ chức và được bằng hành nghề, khóa học gồm lịch
sử, văn hóa, nghệ thuật Khmer quan tâm nhất là thời
kỳ Angkor và phải biết một trong những ngoại ngữ
Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn.

Angkor là di sản thế giới nên việc trùng tu quần thể
Angkor được nhà nước Cambodia, Liên Hiệp quốc và
nhiều nước rất quan tâm. Số lượng du khách vào
Angkor vì thế phải được quản lý. Trước khi vào
Angkor du khách phải đăng ký ở cửa vào, với thẻ và
hình ảnh trên thẻ được chụp tai phòng đợi ở cửa vào
quần thể. Lệ phí vào là 20$ US mỗi ngày. Lệ phí thâu
vào một phần được dùng để trùng tu đền và cơ sở hạ
tầng trong quần thể. Chúng tôi lấy thẻ vào cho 3
ngày, chỉ trả 40$ US. Nếu muốn xem hết các kiến trúc
đền, điện trong quần thể Angkor, 3 ngày là tối thiểu
để có thể thực hiện được ước vọng đó. Nhiều chính
phủ và tổ chức của nhiều nước trên thế giới đã và
đang tài trợ giúp đỡ trùng tu nhiều đền trong quần
thể Angkor như Nhật, Pháp, Đức, Mỹ, Ấn độ, Trung
quốc.
Angkor Wat
Chúng tôi trước tiên đến thăm đền nổi tiếng và lớn
nhất trong quần thể Angkor: Angkor Wat.
Angkor là từ đọc trại từ
chữ nokor nghĩa là thành phố (bắt nguồn từ chữ
Sanskrit nagara).Tôi rất
xúc động khi nhìn thấy đến từ đàng xa trên đường xe
đến cửa đền hình ảnh quen thuộc từ xa với các cây
thốt nốt thường thấy trong sách. Angkor huyền bí và
mầu nhiệm mà bao lâu nay tôi đã mường tượng và ước
ao có dịp được thăm viếng và chiêm ngưỡng nay đã
trong tầm tay và chỉ trong vài phút nữa sẽ được toại
nguyện. Cách đây không lâu khoảng gần 150 năm, vào
năm 1858, nhà thực vật học và
thám hiểm Pháp
Henri
Mouhot đã khám phá ra Angkor hoang vắng chìm đắm
trong rừng rậm từ bao thế kỷ. Đền bị các cây cổ thụ
mọc phủ kín, rể cây khổng lồ chen vào các khe hở
kiến trúc đá qua thời gian nhiều thế kỷ phá đổ và
gây nên sự tàn phá đền. Trước cảnh hoang tàn âm u
của các kiến trúc từ một nền văn minh chưa ai biết
chìm sâu trong rừng rậm từ bao thế kỷ, Mouhot đã xúc
động tràn ngập, ông viết một bài mô tả trong nhật
ký, sau này in lại trong sách của ông “Voyages dans
les royaumes du Siam du Cambodge et du Laos”. Sách
này được xuất bản sau khi ông mất vì bệnh sốt rét
năm 1861 trên sông Mekong gần Luang Prabang. Nă m
1861 cũng là năm Pháp đánh chiếm Saigon và các tỉnh
miền nam. Trớ trêu thay như số phận trước đây của
Angkor, mộ ông bị bỏ hoang biến mất trong rừng rậm
và chỉ mới đây tình cờ tìm lại được vào năm 1990.
Sau
khi Mouhot mất, nhật ký của ông được các người hầu
thân cận mang về Bangkok và từ đó được
trao lại cho vợ ông. Tạp chí “Le Tour du
Monde”, năm 1863, đã trích từ sách nhật ký một
chương giới thiệu và mô tả khám phá Angkor của ông
đã kích thích trí tưởng tượng, óc tò mò, sự khao
khát khám phá, tìm hiểu học hỏi ở nhiều nơi trên thế
giới. Nhà thám hiểm Louis Delaporte sau đó đã đến
Angkor nghiên cứu, vẽ hoạ đồ các kiến trúc và mang
về Paris một số hiện vật (nay trưng bày ở viện bảo
tàng Guimet)
Nhưng Mouhot không phải là người ngoại quốc đầu tiên
tìm ra lại được Angkor. Trước ông rất lâu gần 3 thế
kỷ là các giáo sĩ người Bồ Đào Nha (8). Một trong
những người đầu tiên đó là Antonio da Magdalena, đến
Angkor năm 1586. Năm 1589, ông đã đưa lại cho Diogo
do Couto, sử gia chính thức của công ty Đông Ấn Bồ
Đào Nha ghi lại tường trình của ông về chuyến thăm
Angkor trước khi ông bị đắm tàu chết ở Natal năm
1589. Couto đã viết lại như sau về chuyến đi của
Magdalena
“..
Cách nửa dặm từ thành phố này
là một đền gọi là Angar. Đây là một công trình ngoại
hạng đến nổi không có thể diễn tả được bằng ngòi
viết, nhất là đây là một kiến trúc không giống bất
cứ kiến trúc nào khác trên thế giới. Angar có các
tháp, kiến trúc trang trí và tất cả những cái tinh
tuý mà thiên tài con người đã nghỉ ra được. Đền được
bao bọc bởi hào nước, đi vào đền bằng một cầu, được
bảo vệ bởi hai tượng cọp bằng đá rất lớn và dữ dằn
làm cho du khách phải sợ hãi..".
Những giáo sĩ Bồ Đào Nha khác cũng ngạc nhiên rung
động trước sự vĩ đại mà họ đã chứng kiến. Marcello
de Ribadeneyra đã viết như sau lần đầu tiên về
Angkor bằng ngôn ngữ Tây phương xuất bản năm 1601:
“..Chúng ta cho rằng những người lập ra vương quốc Siam
đến từ thành phố lớn nằm giữa một sa mạc trên vương
quốc Cambodia. Tai đó có một thành phố cổ xưa đã bị
đổ nát mà một số người cho rằng đã được xây bởi
Alexander Đại đế hay bởi người La Mã, thật kinh ngạc
là không có ai sống ở đó hiện nay, chỉ có thú dữ trú
ngự, và người địa phương nói rằng nó đã được xây bởi
người ngoại quốc."
Nhưng trước cả các giáo sĩ Bồ Đào Nha là sứ giả
Trung quốc Châu Đạt Quan đã có mặt ở Angkor vào thế
kỷ 13, lúc Angkor chưa bị bỏ hoang. Ông đã chứng
kiến sinh hoạt của một xã hội, phong tục tập quán,
vua chúa, đền đài. Tư liệu duy nhất vô cùng quí giá
về vương quốc Angkor.
Ngày
nay Angkor Wat không còn là bí hiểm và khó khăn đi
đến nữa, các khoảng đất rộng trước cửa cầu đá đi vào
cổng phía tây của đền Angkor Wat bây giờ là bãi đậu
xe và có rất nhiều hàng quán phục vụ khách du lịch
đến từ khắp mọi nơi. Từ cửa tây Angkor Wat thẳng ra
về hướng tây khoảng vài cây số là phi trường Siem
Reap, nằm phía dưới hồ nhân tạo rất lớn gọi là
“Baray Tây” (Western Baray) của quần thể Angkor. Tuy
vậy khi đã đến Angkor Wat, du khách cũng sẽ có các
ấn tượng không kém ngạc nhiên như những người đi
trước đầu tiên khám phá ra Angkor, đi vào một thế
giới khác ngoài sức tưởng tượng của họ.
Đường vào đền Angkor Wat là đoạn cầu đá dài băng qua
một hào nước bao quanh 4 phía chung quanh Angkor
Wat. Đền Angkor Wat hình chữ nhật, chiều dài 1,500m,
chiều ngang 1,300m, kể cả hào nước xung quanh rộng
190m. Đây là đền lớn nhất trong quần thể Angkor.
Theo các nhà học giả Finot, Coedes, Bosh thì đền
được xây dưới thời vua Suryavarman II để làm mộ thờ
của vua. Vì thế hướng của đền là về phía tây và đền
với các điêu khắc theo truyền thuyết thần Visnu chứ
không đặt trọng tâm vào thần Shiva như ở các kiến
trúc khác hay cung điện vua. Angkor Wat thể hiện núi
Meru, trung tâm vũ trụ : Angkor được xây dựng trên
ba tầng đại diện cho đất, nước và gió mà núi Meru
dựa vào và nước ở hào chung quanh đền thể hiện cho
đại dương trong vũ trụ. Trong ba tầng của Angkor Wat
thì tầng cao nhất là trung tâm đền với tháp cao nhất
có 7 vòng tượng trưng cho 7 vòng núi thiêng Meru.
Có thể biết thêm là đền
Angkor Wat chắc chắn là một mộ thờ qua tư liệu của
sứ giả Trung Quốc Châu Đạt Quan của nhà Nguyên Mông
Cổ có mặt ở Angkor vào thế kỷ 13 có nói đến "mộ của
Lu Pan" ở phía nam của thủ đô Angkor Thom với chu vi
đến 10 "li"
Một
kỳ quan kiến trúc như Angkor Wat chắc phải được xây
bởi một nhà vua có tầm vóc trong lịch sử Khmer.
Suryvarman II (1113-1150 AD) là vị vua hùng mạnh có
công mở rộng vương quốc Khmer mang lại vinh quang
cho dân tộc này. Ông là một trong hai đại đế trong
triều đại Angkor. Vị vua thứ hai là Jayavarman VII,
người đã xây dựng Bayon ở Angkor Thom. Ngoài Angkor
Wat, Suryvarman II còn xây các đền Thommanon, Chao
Say Tevoda, Banteay Samre ở Angkor, Beng Mealea
(cách Angkor 60km về hướng đông), Phimai (ở Thái Lan
hiện nay). Suryvarman nhiều lần mang quân đánh Đại
Việt, chiếm đóng Champa, vương quốc Môn Haripunjaya
(Lamphun). Dưới triều ông, đế quốc Khmer trải rộng
từ biên giới Lào hiện nay ở phía Bắc, đến vương quốc
Grahi ở bán đảo Mã Lai, từ Vijaya (Bình Định), nam
Việt Nam đến tận vương quốc Pagan (Miến Điện). Sau
khi thống nhất đất nước bị chia đôi bởi hai vua
tranh giành đất nước, Suryvarman II đánh Champa và
cưỡng bách cùng Champa đánh Đại Việt năm 1128, nhưng
bị Lý Công Bình đẩy lui ở Nghệ An (9). Sau đó không
lâu, Suryvarman II mang thủy quân quấy nhiểu bờ biển
Thanh Hóa. Năm 1145, vì Champa không còn chịu theo
đánh Đại Việt nữa, Suryvarman II xâm lăng Champa,
chiếm Vijaya, biến Champa thành một thuộc địa của
Angkor cho đến khi vua Champa Jaya Harivarman I giải
phóng đất nước Champa vào năm 1149
Sử
Việt Nam có ghi các sự kiện vua Suryvarman II mang
quân đánh Đại Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của
Ngô Sĩ Liên (11), thì sau khi vua Lý Nhân Tông băng
hà, vua Lý Thần Tông còn nhỏ lên ngôi (1128) “Ngày
Giáp Dần, hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba
Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái
phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người
châu Nghệ An đi đánh... Ngày Quý Hợi, Lý Công Bình
đánh bại người Chân Lạp ở bến Ba Đầu bắt được chủ
tướng và quân lính”.
Dọc
hai bên cầu đá đi vào đền xưa kia là các tượng thần
và tượng ác quỷ ở mỗi bên ôm thân rắn naga kéo giành
giật nhau tạo ra vũ trụ. Trước đây có tất cả 54
tượng thần và 54 tượng ác quỷ ôm thân rắn ở mỗi bên
đường, nay chỉ còn lại một vài tượng mà thôi. Theo
Mannikka (5) thì con số 108 của tổng số các tượng là
số thiêng liêng của tôn giáo và văn hoá Ấn độ (108
cũng là số lần hiện thân của thần Vishnu, Shiva).
Qua
cổng chính ở tường ngoài của đền, du khách bắt đầu
vào khuôn viên tầng nhất Angkor Wat. Đây là hành
lang với kiến trúc chữ thập nằm chính giữa.Tại đây
chúng tôi thấy có nhiều tượng Phật vẫn còn được thờ
cúng. Rẽ vào phía trái về hướng bắc đến cửa ra hành
lang là nơi mà theo truyền thống người ta đứng dựa
vào tường, vỗ ngực để nghe âm vang và nếu có ước
nguyện gì sẽ được toại nguyện. Tôi đứng dựa vào cổng
tường, ngước mắt nhìn lên trần và vỗ ngực, quả thật
có âm vang dội lại. Nhưng ước nguyện có được toại
nguyện như mong muốn không thì tôi vẫn chưa được
biết. Gần đấy có một kiến trúc gọi là “thư viện”.
Toà nhà “thư viện” nằm trong sân ở tầng một ngoài
hành lang gần tường ngoài của Angkor Wat hiện nay
đang được chính phủ Nhật giúp trùng tu
Để
đến tầng thứ ba của đền Angkor Wat, chúng tôi phải
bước đi lên những bực đá rất dốc, rất dễ té và nguy
hiểm nếu không cẩn thận. Sự khó khăn này là ngụ ý
của người xây đền thể hiện cho người ta biết rằng để
đi lên được “vương quốc của các thần”, nơi cư ngụ
của họ, không phải là dễ, thử thách ý chí của con
người. Tầng thứ ba gồm hai hành lang chữ thập cắt
nhau thẳng góc ở giữa. Ở điểm giao tiếp của hai hành
lang là trung tâm đền Angkor Wat. Xưa kia trung tâm
đền có tượng thờ bằng vàng thần Vishnu, nhưng tượng
đã bị mất. Ngày nay trung tâm đền có các tượng thờ
Phật. Tháp ở trung tâm đền là tháp cao nhất Angkor
Wat, chung quanh tháp là bốn hành lang hình vuông. Ở
mỗi góc hành lang là một tháp. Tháp trung tâm và bốn
tháp chung quanh tạo thành toà chân trời nổi tiếng
của Angkor Wat khi ta nhìn từ đàng xa hay lúc gần
đến khuôn viên đền.
Để
có thể cảm nhận được Angkor Wat có sức mạnh huyền bí
quyến rủ bao nhiêu người đến thăm đền thế nào thì du
khách nên đợi đến hoàng hôn. Angkor Wat dưới ánh
hoàng hôn, đền với các tháp và đá trở thành vàng đỏ
rực ẩn hiện dước bóng cây thốt nốt. Đôi khi lúc
hoàng hôn xuống, du khách thấy cảnh hàng ngàn bay
quanh đền và trên bầu trời Angkor rất ngoạn mục. Sau
khi viếng thăm Angkor Wat, không một du khách nào mà
không có ấn tượng và bị ảnh hưởng vào trí tưởng
tượng của mình trước kỳ công huyền bí của một nền
văn minh đã biến mất. Gần một thế kỷ trước đây, một
du khách người Mỹ đã yêu cầu khi bà mất, thì hài cốt
bà được rãi ở cầu đá dẫn vào đền Angkor Wat, năm
1936 ước nguyện của bà đã được toại nguyên (3).
Ta
cũng có thể hiểu được tai sao gần đây tài tử
Angelica Jolies sau khi đến Angkor đóng phim “Tomb
Raiders” đã bị thu hút và trở thành một công dân
danh dự và là sứ giả cho đất nước Cambodia, cô có
một con nuôi là một em bé Khmer.
Sau
vài tiếng đồng hồ thăm Angkor Wat, chúng tôi rất
mệt, đi trở ra và dùng bửa ăn trưa trong một quán ăn
trước đường đi vào Angkor, ở đây có rất nhiều quán
ăn. Tất cả được qui hoạch nằm trong một khu vực cách
xa đường vào đền. Dĩ nhiên cũng là nơi tụ tập của
nhiều người bán dạo đi theo du khách để bán đồ vật
kỷ niệm, postcard, nước uống ..
Angkor Thom
Sau
Angkor Wat, chúng tôi đi thăm Angkor Thom kế cạnh
Angkor Wat. Đường vào qua cửa Nam của Angkor Thom
rất ấn tượng: hai bên là các tượng các thần ôm thân
con rắn 7 đầu dài khoảng vài trăm thước dọc hai bền
cửa vào thành phố xưa Angkor Thom.
Trung tâm của thành phố Angkor Thom là đền Bayon,
với bốn cửa theo bốn hướng. Kế Bayon về phía tây bắc
là cung điện vua Phimeanakas, từ đó cũng có một trục
chạy về phía đông ra một cửa nữa gọi là cửa “chiến
thắng”. Angkor Thom vì thế có hai trung tâm thể hiện
hai thời kỳ lịch sử xây dựng khác nhau hình thành
Angkor Thom. Khi Mouhot đến đây thì từ tường thành
của Angkor Thom vào trong là rừng rú dầy đặt, cây
cao, dây leo khắp nơi không thể nào biết là có thành
phố, đền, điện cổ trong đó. Hỏi vài cư dân trong
làng gần đó thì chỉ biết là trong đó có điện đổ nát
với nhiều đá đổ ngỗn ngang giữa rừng và trẻ con
thường hay chơi trò chơi ẩn núp trong nhóm đá tượng
bị rừng che phủ. Rất khó khăn để đi đến nơi, Mouhot
đã ngỡ ngàng trước các tháp mà trên đó ở bốn hướng
là tượng mặt người mỉm cười huyền bí giữa cảnh đổ
nát trong rừng thẳm, mà bây giờ là vị trí của điện
gọi là Bayon, với các điêu khắc trên một số nền bệ
đá chung quanh các tháp mô tả các huyền thoại, cảnh
chiến trận, cảnh đời sống xã hội, văn hóa của một
nền văn minh đã biến mất mà không ai biết. Phải mất
một thời gian nghiên cứu lâu năm sau này qua các các
bia ký còn sót lại mới biết được tượng mặt người
huyền bí trên các tháp của Bayon là bodhisattva
Avalokitesvara Samanthamukha biểu tượng cho vua
Jayavarman VII. Angkor Thom được Jayavarvan VII xây
dựng sau Angkor Wat gần 100 năm.
Đặc
biệt ở Bayon so với các nơi khác là sự hiện diện
trội hẳn của ảnh hưởng Phật giáo Mahayana mặc dầu có
sự chồng chéo với ảnh hưởng Ấn giáo so với các đền
điện khác ở Angkor. Cũng không lạ gì vì người tạo
Bayon và xây dựng nhiều nhất ở Angkor Thom là vua
Jayavarman VII, vị vua theo phật giáo Mahayana. Dưới
triều vua Jayavarman VII, Angkor đã lên đến tuyệt
đỉnh thể hiện trên kiến trúc, nghệ thuật và quyền
lực. Sau Jayavarman VII, Angkor bắt đầu suy sụp và
cuối cùng điêu tàn, và hoàn toàn bỏ trống sau khi bị
quân Xiêm tàn phá.
Từ
xưa đến nay Angkor Thom có ấn tượng vào du khách đến
thăm không kém sức mạnh huyền bí của Angkor Wat.
Giữa quang cảnh đổ nát, đi quanh những tảng đá lớn
nằm ngỗn ngang ở Bayon, nhìn lên khắp nơi mọi hướng
lúc nào ta cũng thấy tượng đầu người mỉm cười hiểm
bí trên các tháp nhìn ta đi thăm quan như muốn cho
ta biết là tất cả đều vô thường trên thế giới này,
ngay cả Bayon trước mắt du khách. Có tổng cộng 256
gương mặt đá trên 54 tháp nhìn khắp hướng ở Bayon.
Cấu
trúc đền Bayon gồm ba tầng, Cả ba tầng đều bị hư
hại, đổ nát, gạch đá nằm ngổn ngang. Năm 1924, Henri
Parmentier (nhà khảo cổ Pháp, người thành lập ra
viện bảo tàng Chàm ở Đà Nẵng) đã tìm được ở Bayon
một tượng bồ tát Lokesvara. Sau này trong lòng trung
tâm Bayon, một tượng Phật lớn cũng được tìm ra. Điều
này chứng tỏ Bayon là đền thờ Phật giáo chứ không
phải Ấn giáo như người ta nghỉ lúc ban đầu.
Trên
một số các bệ đá làm nền chung quanh tháp Bayon ở
tầng một là các điêu khắc tuyệt tác. Những bức tranh
phù diêu tạc trên đá mô tả rất sống động cảnh diễn
hành của vua và hoàng gia, trận thuỷ chiến giữa quân
Khmer, Chàm, Xiêm, các người Hoa buôn bán, sinh hoạt
ở chợ. Ta hảy tưởng tượng hình ảnh sống động mà sứ
giả Trung Hoa Châu Đạt Quan (Zhou Daguan) của nhà
Nguyên Mông cổ có mặt tại Angkor trong năm
(1296-1297). Năm 1296, Châu Đạt Quan diễn tả cảnh
tuần hành của vua Indravarman cầm gươm thiêng,
preah khan,
như sau:
“Khi nhà vua ra khỏi điện,
binh lính đi dẫn đầu; kế đó là cờ, biểu ngữ và âm
nhạc. Cung nữ, từ ba đến năm trăm, mặc y phục trang
trí hoa, hoa cài trên tóc, cầm đèn cây trên tay, và
tạo thành một đội. Ngay cả lúc ban ngày, đèn cầy vẫn
được thắp đốt. Kế đó là những tỳ nữ, mang giáo và
khiêng, nhóm hộ hệ vua, xe kéo bởi dê và ngựa, làm
bằng vàng đi kế tiếp. Các quan lại và hoàng tử ngồi
trên lưng voi, và đằng trước họ, người ta có thể
thấy từ xa, hằng hà sa số gọng dù màu đỏ. Sau họ là
vợ và các nàng hầu của vua trong cáng, xe keo, trên
lưng ngựa và lưng voi. Họ có hơn một trăm lọng trang
trí bằng vàng. Sau họ là nhà vua, đứng trên lưng
voi, cầm gươm thiêng. Ngà voi được bao bọc bằng
vàng..
Ông mô tả một thành phố phù hợp
chính xác với thành phố của nhà vua Jayavarman VII,
Angkor Thom ngày nay, với các tường và hào
bao bọc chung quanh, năm cửa với cầu bắc ngang phía
trước được trang trí bởi các tượng thần, tháp vàng
(Bayon) ở chính giữa thành phố, tháp đồng (Baphuon)
một dặm về phía bắc, cung điện hoàng gia một dặm nửa
xa hơn về cùng hướng bắc. Ở ngoài thành phố Angkor
Thom, Châu Đạt Quan có nói là về phía nam, có tháp
Lu Phan (Phnom Bakheng) và mộ của Lu Pan (Angkor
Wat).
Baphuong, Cung điện hoàng gia, sân voi và tượng “vui
cùi”
Cạnh
Angkor Thom Bayon là đền Baphuong nổi tiếng. Tiếc
thay lúc này đền đang được rào đóng vì đền đang được
trùng tu. Xưa kia đền Baphuon, xây trên một ngọn
đồi, rất lớn hùng vĩ chỉ sau Angkor Wat trong quần
thể Angkor. Tại đây trong lúc đi ngang qua đền để
đến khu cung điện đã đổ nát của các vua Angkor,
chúng tôi gặp một du khách Pháp đang phát họa đền và
chi tiết các cột trụ. Hỏi qua mới biết ông hiện đang
làm việc ở Saigon đến viếng Angkor vài ngày trong
những ngày nghỉ. Ngoài quyển sách hướng dẫn Lonely
Planet về Cambodia, ông còn có mang theo các quyển
sách hướng dẫn khác chuyên môn về nghệ thuật ở
Angkor để tham khảo. Ông cho biết trường Viễn Đông
Bác Cổ của Pháp (Ecole Francaise d’Extreme Orient)
dưới sự lãnh đạo của kiến trúc sư Pascale Rogère
đang giúp chính phủ Cambodia trùng tu đền Baphuong.
Trong 9 năm liền, kiến trúc sư Pascal Rogère của
trường Viễn Đông Bác Cổ đã làm việc, lui tới trong
khu vực Baphuon, ông hầu như biết từng phiến đá (4).
Có khoảng 300,000 tảng đá nằm ngỗn ngang quanh đền
và trong rừng chung quanh khu vực đền đã và hiện
đang được phân loại, đánh số để tái phục và kiến tạo
lại cấu trúc đền Baphuon
Trường Viễn Đông Bác Cổ được thành lập vào năm 1908,
mục đích ban đầu là bảo vệ di tích Angkor khỏi bị
mất mác, huỷ hoại do thiên nhiên và con người lấy
trộm hay phá hư di tích. Nhưng con người mới chính
là nguy cơ to lớn cho di tích Angkor và các đền khác
ở Cambodia. Trong các năm chiến tranh loạn lạc ở các
thập niên 1960 đến 1980, rất nhiều hiện vật như
tượng đã bị lấy đi, đầu tượng bị đục mất... Ngay cả
nguyên cả một bức tường có các điêu khắc tuyệt tác ở
đền banteay Chmar xa vắng gần biên giới Thái Lan đã
bị lấy đi mất. Những hiện vật này đa số sau đó xuất
hiện trên thị trường buôn bán đồ cổ ở nhiều nơi.
Bangkok là một trung tâm buôn bán đồ cổ Khmer.

Cung điện hoàng gia
Phimeanakas
Cung
điện hoàng gia Phimeanakas, nay hầu như chỉ là bãi
đất trống nằm giữa một số tường thành còn sót lại.
Trong khu hoàng gia còn hai hồ nước lớn gọi là Srah
Srei và Srah Bros nơi xưa kia vua, cung nữ trầm mình
tắm. Châu Đạt Quan đã viết Độ đã viết về cung điện
hoàng gia như sau (9): “Ở đây có một tháp vàng
(Phimeanakas), trên lầu cao nhất của tháp là nơi nhà
vua ngủ. Mọi người dân ở đây cho là trên tháp đó có
hồn của một con rắn chín đầu. Rắn này là chủ của tất
cả đất đai trên xứ sở. Hồn rắn xuất hiện nữa đêm
dưới dạng một người đàn bà. Chính với hồn rắn này mà
nhà vua ngủ và kết hợp chung”.
Tại
cung điện hoàng gia, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một
phiến đá tạc bằng chữ Sanskrit kể về sự nghiệp của
vua Jayavarman VII như sau. Lúc thiếu thời, khi
Jayavarman VII mang quân đi đánh Chiêm Thành
(Champa), thì cha mất. Vua Yasovarman II lên ngôi,
nhưng bị Tribhuvanaditya tiếm ngôi. Ông trở về đợi
lúc có thời cơ để phục hồi ngôi vua. Khi Champa mang
binh đánh phá Angkor và tiêu diệt Tribhuvanaditya,
ông tự xưng là vua và khởi nghĩa chống lại Champa.
Cuộc chiến với Champa rất là gay go qua nhiều trận
đánh và cuối cùng toàn thắng giải phóng đất nước.
Sau đó, Jayavarman VII trả thù mang quân đánh
Champa, Champa bại trận và trở thành một tỉnh của
Khmer. Đây là khúc quanh lớn trong lịch sử của cả
Champa và Cambodia. Ở Bayon và Banteay Chmar có các
điêu khắc về cảnh thủy chiến với Champa rất sống
động. Banteay Chmar khoảng 150 km về phía tây bắc
Angkor gần biên giới Thái Lan hiện nay, được
Jayavarman VII xây dựng tưởng niệm con ông và bốn
tướng lảnh hy sinh đánh Champa. Banteay Chmar có
kiến trúc tương tự như Bayon với tháp bốn mặt, nằm
trên con đường lộ xưa nối liến Angkor với Phimai và
cao nguyên Khorat (nay thuộc Thái Lan).
Đi
bộ ra khỏi khu cung điện hoàng gia, qua ngôi đền nhỏ
thuộc niên đại gần đây với bức tượng Phật mạ vàng
cao lớn, chúng tôi đến khu “sân voi” (Elephant
terrace) nơi xưa kia vua cùng quan thần xem cưỡi và
đấu voi. Xưa kia ở đây là dinh thự của vua làm bằng
gỗ, vì thế qua nhiều thế kỷ và thăng trầm của lịch
sử đã không còn. Vào cuối thập niên 1960, nhà khảo
cổ Pháp Bernard Philippe Groslier trong lúc trùng tu
sân voi, đã tìm thấy chân của một cột gỗ to lớn, đây
là vật duy nhất còn lại của các kiến trúc gỗ đã biến
mất. Gần đây, nhà khảo cổ Roland Fletcher thuộc đại
học Sydney trong chương trình nghiên cứu về nguyên
do sự sụp đổ bỏ hoang của Angkor, đã khảo sát các
chất liệu do dân cư Angkor xưa sinh hoạt để lại dọc
và dưới kênh đào quanh Angkor, đã nhờ cơ quan khoa
học nguyên tử Úc (Australian Nuclear Science and
Technology Organisation) thẩm định thời gian qua
phóng xạ của bệ cột gỗ do Groslier tìm được cho thấy
tuổi của cột là khoảng năm 905 đến 984 AD (10). Điều
này cho thấy khu cung điện hoàng gia và sân voi đã
được xây dựng ít nhất là từ thế kỷ thứ 10. Trên khu
này còn sót lại một tượng “vua cùi”, tương truyền là
vua Jayavarman VII. Trên các tường, bệ chung quanh
sân là những điêu khắc đạt đến đỉnh cao của nghệ
thuật Khmer Angkor: voi diễn hành, cưỡi voi chơi
polo... Ở các góc tường bệ là các tượng điêu khắc
hình chim thần garuda dùng tay nâng đỡ sân.
Sau
nhiều giờ thăm viếng đến xế chiều và sắp sửa hoàng
hôn, anh hướng dẫn viên khuyên chúng tôi sửa soạn
lên xe để đến đền trên đồi Bakheng xem cảnh mặt trời
lặn lúc hoàng hôn trên quần thể Angkor.
Phnom Bakheng

Hoàng
hôn Phnom Bakheng
Phnom Bakheng là một ngọn đồi nằm giữa Angkor Wat và
Angkor Thom. Đây là trung tâm của vương quốc Khmer
đầu tiên ở Angkor, gọi là Yasodharapura. Phnom
Bakheng là ngọn núi thiêng của Angkor, như núi Meru
thiêng liêng trong thần thoại Ấn độ giáo. Trên đỉnh
Phnom Bakheng là một đền thờ đã đổ nát. Nơi đây trên
mặt đất đá, các nghệ nhân Khmer xưa đã khắc xuống
nền đá một bàn chân khổng lồ. Tương truyền rằng bàn
chân này là của đức Phật. Đặc biệt ở đây, mỗi ngày
khoảng gần 6 giờ chiều, các du khách đến tụ tập rất
đông ở chân đồi Phnom Bakheng để lên đỉnh xem mặt
trời lặn trên quần thể Angkor. Đa số đều muốn đi bộ,
theo một ít các bậc thềm và các lối đi gập ghềnh đầy
đá, rễ cây... Có nhiều đoạn phải cẩn thận vì rất
nguy hiểm nếu sơ ý. Ai yếu hay sợ cực nhọc có thể
dùng dịch vụ cỡi voi lên đồi. Tại đây tôi thấy rất
nhiều du khách Nhật, Nam Hàn. Những người yếu hay
lớn tuổi thường dùng voi để lên đồi.
Trên
đỉnh đồi lúc này du khách rất đông, tất cả đều nhìn
về hướng tây nơi mặt trời sắp sửa lặn trên mặt nước
biển hồ Tonlé Sap ở chân trời. Về phía tây nam là
đền Angkor Wat đang tắm dưới ánh hoàng hôn vàng đỏ
của mặt trời sắp lặn. Khi Mouhot khám phá ra Angkor,
ông có lên đỉnh Phnom Bakheng nhìn xuống quần thể
Angkor và đã mô tả như sau : “Tất cả vùng này giờ
đây vắng lặng và cô quạnh, mà trước kia chắc chắn
phải là sống động nhộn nhịp và vui vẻ; nay chỉ còn
lại tiếng hú của các loài dã thú và các tiếng chim
kêu giữa sự im lặng cô đơn mà thôi”. Mouhot chắc
chắn sẽ không tưởng tượng nổi là lúc này tôi đang
đứng ở chỗ mà trước đây ông đã đến giữa đám đông
hàng trăm du khách từ khắp năm châu đang quay phim,
chụp hình và nói chuyện náo nhiệt.
Một sự kiện lý thú về Phnom
Bakheng là nó có tác dụng như một cái trống, phản
hồi và cộng hưởng âm thanh. Ly’do là ở dưới
tháp cao chính
của đền có một vùng trũng tạo nên âm thanh vang dội
cộng hưởng. Ngoài ra ở đấy
cũng có một mộ vuông nằm
sâu trong lòng đất, mộ này
có duyên cơ từ câu truyện
thần thoại “Mười hai cô gái Angkor”. Câu chuyện kể
về một người tiều phu nghèo có
12 người con gái, một trường hợp được coi là kém
may mắn. Vì ông không thể
nuôi nổi gia đình, ông đã mang con vô rừng bỏ, nhưng
không thành công lúc đầu.
Lần thứ hai thì ông thành công, nhưng thay vì chết,
12 cô gái được bà hoàng
hậu Santhomea của thế giới chằng tinh cứu. Bà
Santhomea mang các cô gái về nuôi chúng như
con mình. Sau này vì quá cô đơn, các cô đã bỏ trốn.
Chúng đến vương quốc Angkor, tại đấy vị vua trị vì
đã thương các cô và mang về làm vợ. Các cô đã sống
trong hạnh phúc cho đến một ngày khi bà hoàng
Santhomea tìm được tông tích của
các cô. Để trả thù, bà đã mê hoặc vua và làm cho vua
đuổi nhốt các cô gái vào một hố sâu trong lòng đất,
sau khi đã khoét mắt các cô. Đây là lần thứ ba các
cô đã bị bỏ rơi cho chết. Một trong các chị em đã
dấu được một con mắt và vẫn còn có thể thấy được.
Người con gái một mắt giúp tìm thức ăn cho các chị
em sinh sống. Một trong các cô có
mang một đứa con trai. Người con trai này lớn lên
trả thù cho mẹ và các dì của mình. Anh ta đã giết
được bà chằng tinh Santhomea và các chị em được trở
về với nhà vua sống hạnh phúc.
Chúng tôi và anh hướng dẫn viên đi
bộ xuống đồi, anh tài xế đã đợi sẵn giữa sự náo
nhiệt của lượt người và xe cộ đón du khách trở về
Siem Reap. Đến Siem Reap cũng là lúc thành phố bắt
đầu lên đèn.Tối hôm đó, chúng tôi đi dạo phố, ăn tối
ở một nhà hàng trước cửa một nhà khách. Đây cũng là
dịp để rửa và mua thêm phim mới cho ngày mai. Các
quán ăn như vậy có rất nhiều dọc đường chính nơi có
nhiều nhà khách với đa số là Tây ba lô ở trọ. Bữa ăn
tối với các món ăn Khmer rất ngon. Tại một tiệm rửa
hình, chủ là gia đình người Hoa, ông chủ rất nồng
hậu đón khách, vui vẻ và ngạc nhiên khi biết chúng
tôi là du khách từ Việt Nam. Người Hoa và Việt đã
trở lại buôn bán sinh hoạt bình thường ở tỉnh Siem
Reap và vùng Battambang. Cách đây không lâu, khi
Khmer Rouge vẫn còn hoạt động trong vùng quanh Siem
Reap và Angkor, an ninh rất bất ổn và là mối hiểm
họa cho cộng đồng người Việt, Hoa.
Ta Phrom
Ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục nhờ
anh hướng dẫn viên đẫn đi thăm các đền Thommanon,
Chao Say Tevoda, Ta Phrom, Neak Pean,.. Đền
Thommanon nằm gần cửa “Chiến Thắng” của Angkor Thom.
Trong thập niên 1960, đền đã được trường Viễn đông
Bác cổ trùng tu bằng phương pháp phục hồi dùng vật
liệu giống như vật liệu ban đầu (anastylosis). Trung
tâm đền nằm giữa hai cổng tháp, một ở đông và một ở
tây. Kiến trúc đền Thommanon thuộc loại cổ điển
Angkor Wat, tương tự như kiến trúc đền Phimai ở Thái
Lan mà trước kia trong năm 1984 tôi đã có dịp viếng
thăm. Sau 20 năm rồi, tôi thực sự hôm nay mới có dịp
đứng chiêm ngưỡng và nhớ lại những xúc động, cảm
giác bồi hồi ngày xưa khi đứng trước ngôi đền cổ, đổ
nát của nền văn minh rực rỡ đã đi qua trong quá khứ.
Cảm giác của tôi hôm nay cũng không kém thuở trước.
Tôi đi quanh đền và vào trong chánh điện, chụp một
vài tấm hình kỷ niệm và để sau này sẽ so sánh với
đền Phimai khi trở về. Trên tường đền, có điêu khắc
rất đẹp những cảnh trong thần thoại Ramayana, như
Vishnu cười chim thần Garuda.
Đối diện với đền Thommanon, bên kia
đường, là đền Chao Say Tevoda có kiến trúc tương tự,
nhưng bị đổ nát vì chưa được trùng tu bao giờ. Đền
không lớn, nhỏ hơn đền Thommanon một chút, trước cửa
vào đền có bảng thông tin cho biết là Chao Say
Tevoda hiện đang được chính phủ Trung Quốc giúp tùng
tru lại. Vì đền đang trùng tu nên du khách chưa được
phép vào.
Đền Thommanon và Chao Say Tevoda
được vua Suryavarman II xây dựng cùng thời với
Angkor Wat. Thommanon thờ thần Vishnu nhưng đền Chao
Say Tevoda thờ thần Shiva.
Thường ở trung tâm các tháp có kiến
trúc đá tượng trưng
vật dương linga biểu hiện của
thần Shiva và
vật
âm Yoni, đặc điểm của văn hóa và
tôn giáo Ấn độ. Tôi có giải thích ý nghĩa của linga
và yoni cho bạn đồng hành của tôi. Sau khi hiểu được
vật thể tượng trưng của linh phù linga và yoni, bạn
tôi đều cười mỗi lần khi gặp các vật trên được thờ ở
chính giữa các điện tháp.
Vì không còn nhiều thời gian và muốn
đi đến đền nổi tiếng Ta Prohm, nơi trường Viễn Đông
Bác Cổ đã cố ý giữ lại tình trạng ban đầu của đền
lúc được khám phá từ trong rừng rậm để giữ lại cho
hậu thế cảm quan khi đến thăm đền, nên chúng tôi vội
vã lên xe. Tôi rời đền Thommanon trong tiếc nuối. Ta
Phrom, nơi phim “Tomb Raiders” được quay đã đưa cô
tài tử Angelica Jolies trở thành nổi tiếng chính là
đền do vua Jayavarman VII xây.
Ta Phrom là đền
lãng mạng nhất ở Angkor, được vua Jayavarman VII xây
năm 1186 để tưởng niệm mẹ của nhà vua,
Jayarajachudanami, dưới dạng tượng quan âm bồ tát
Bát Nhã Ba la mật (Prajnaparamita, tượng trưng cho
sự sáng suốt uyên thâm) và tượng thầy của vua,
Jayamangalartha. Cả hai tượng được dặt trong đền.
Các cây cổ thụ mọc ngay trên đền, với rễ cây to lớn
bao phủ các tháp và kiến trúc đền. Đó là hai loại
cây, Ficus religiosa và cây bông gạo (kapok). Đền có
không khí bị bỏ hoang trong rừng, các tảng đá lớn đổ
nằm lổn ngổn khắp mọi nơi từ các tháp, kiến trúc bị
sụp đổ, do các cây rừng tàn phá từ bao thế kỷ. Viếng
đền Ta Phrom mới cảm nhận được cảm tưởng của những
người tìm lại được Angkor lúc ban đầu khi họ chứng
kiến được Angkor trong trạng thái bỏ hoang trong
rừng rú. Chính vì đặc điểm này mà rất nhiều du khách
đến thăm đền. Trong hầu hết lộ trình của các chuyến
thăm quan du lịch quần thể Angkor, cũng như Angkor
Wat, Ta Phrom là một địa điểm phải được ghé thăm.
Neak Pean
Neak Pean là một đền nhỏ, trước kia
là nằm giữa một hồ nhân tạo lớn gọi là Jayatataka,
đây là hồ nước nhân tạo xưa, lấy từ sông Siem Reap,
mà người xưa ở Angkor dùng để canh tác, nay đã hoàn
toàn khô, không còn nữa.
Ở giữa hồ hình vuông là một đảo tròn
nhỏ, có một tháp chung quanh là tượng rắn thần naga.
Châu Đạt Quan có viết rằng hồ nước có nhiều hoa sen
và tháp có nóc bằng vàng. Nay thì tháp được trang
trí bằng những điêu khắc hình ảnh đức Phật và bồ tát
Bodhisattva Avalokiteshvara (tượng trưng cho từ bi).
Một tượng con ngựa tượng trưng cho bồ tát, đó là
ngựa Balala. Theo truyền thuyết Phật giáo, thì đức
bồ tát đã hóa thân thành con ngựa Balala để cứu một
nhóm thương nhân bị đắm tàu.
Một đặc điểm của Neak Pean là có bốn
buồng nhỏ chung quanh đảo. Mỗi buồng có một vòi phun
nước, một buồng giống hình con voi, một giống sư tử,
một giống con ngựa và một giống hình người. Từ những
vòi này là nước trong veo chảy ra mà theo Châu Đạt
Quan là được những người hành hương dùng để rửa hết
tội lỗi. Neak Pean là kiến trúc biểu tượng hồ thần
tiên Anavatapta mà theo truyền thuyết Ấn Độ là ở
trên núi Hi Mã Lạp Sơn có các nước phun ra từ các
đầu thú vật (9).
Preah Khan
Giống như Ta Phrom, đền Preah Khan
vẫn còn như trong trạng thái hoang dã với các cây cổ
thụ mọc trên kiến trúc đền. Tổ chức Quỷ Bia tượng
Thế giới (World Monuments Fund) trước đây khi trùng
tu và bảo quàng đền đã quyết định giữ các cây cổ thụ
lại và bảo tồn đền như một phần đổ nát ở trạng thái
thiên nhiên. Chung quanh đền là rừng, nên đền có một
không khí rất cổ kính, tôn nghiêm và hoang dã. Một
nơi thơ mộng, rất lý tưởng để suy tư, trầm ngâm
trong yên lặng. Tuy vậy cũng như ở Ta Phrom, du
khách đến đây rất nhiều vì thế mất đi nhiều không
khí tôn nghiêm cổ kính.
Preah Khan, Ta Som và Neak Preah là
một nhóm đền gần Jayatataka. Cũng như Bayon ở Angkor
Thom, cả ba đền là kiến trúc Phật giáo được vua
Jayavarman VII xây dựng. Preak Khan và Ta Som là đền
được xây để tưởng niệm cha của vua Jayavarman VII.
Như đã nói ở trên, Preah Khan có nghĩa là “gươm
thiêng”, mà trong huyền thoại là của vua Jayavarman
II trị vì vào khoảng cuối thế kỷ thứ 9. Preah Khan
xây vào năm 1191 có chứa tượng vua cha Dhara
Nindravarman II dưới dạng bodhisatva Lokesvara tên
là Jayavarmesvara (9). Cũng như Bayon, đền được xây
là đền Phật giáo nhưng sau khi vua Jayavarman VII
mất, các vị vua kế vị đã biến đền thành đền thờ Ấn
giáo. Các bàn thờ được xây thêm thờ các thần Ấn giáo
như Shiva, Vishnu. Một số các điêu khắc đức Phật bị
đục bỏ, một số khác thì râu được thêm vào để trở
thành các hiền nhân rishi Ấn độ.
Preah Khan rất lớn khoảng 57
hectares, được bao bọc bởi bốn lớp tường thành và
một hào nước bên ngoài. Preah Khan không phải chỉ là
một đền thờ mà thật ra là một thành phố nhỏ. Những
ký tự tìm được ở Preah Khan có nói đến một cộng đồng
hơn 90 ngàn dân sống trong vòng đai đền. chỗ ở của
các thầy tu, học trò và các người chăm sóc đền chắc
là ở khoảng giữa bức tường bên ngoài và bức tường
thành thứ hai.
Từ chỗ đậu xe ở cổng hướng đông,
chúng tôi đi bộ vào đền Preah Khan. Đường đi vào
Preah Khan, hai bên là hàng dài các tượng đèn đá,
sau đó là qua một cầu giống như ở Angkor Thom với
hai bên là các thần và quỷ ôm con rắn chín đầu. Điều
này cho thấy Preah Khan trước đây là chỗ ở của hoàng
gia, có thể nơi đây Jayavarman VII làm cung điện
trong khi Angkor Thom đang được xây dựng. Qua cầu đá
là đến cửa thành vòng ngoài, cửa thành được bảo vệ
bởi các tượng chim thần Garuda to lớn. Trên cửa là
tháp (gopura) rất hùng vĩ. Đi qua hai bức tường
thành nữa là đến hệ thống kiến trúc đền với các
điện, hành lang, phòng, đền thờ. Trong điện được gọi
là “Điện người múa”, vì trên mi cửa vào là các điêu
khắc vũ nữ apsara rất đẹp, thỉnh thoảng có tổ chức
những điệu múa truyền thống Khmer. Giữa trung tâm
Preah Khan có một tháp hình chuông (stupa) cho thấy
đền Preah Khan ban đầu được xây là đền phật giáo.
Ở Preah Khan có một bệ đá khắc chữ,
liệt kê các công trình kiến trúc được vua Jayavarman
VII xây dựng (9), trong đó có 23 tượng đá gọi là
Jayabudha mahanatha được biết là có đặt ở các thành
phố trong đó có Lopburi, Suphan, Ratburi,
Phetchaburi, Muang Sing (hiện nay nằm trên lảnh thổ
Thái Lan). Tên tượng cho phép ta đoán là các tượng
này tượng trưng cho nhà vua.
Bia đá khắc ở Preah Khan cũng có nói
đến 121 nhà nghỉ mà nhà vua xây dọc đường trên vương
quốc. Các nhà nghỉ chân này vẫn còn tồn tại một thế
kỷ sau vì Châu Đạt Quan đã viết về chúng trong
chuyến lưu hành ở Angkor của ông như sau “Trên những
đường lộ chính, có các nhà nghỉ tương tự như các nhà
nghỉ đưa thư tín của chúng ta”. Ngoài ra nhà vua còn
cho xây 102 bệnh viện khắp trên vương quốc mà hiện
nay vị trí của 32 bệnh viện này đã được xác định.
Sau khi thăm quan Preah Khan là đã
xế chiều, mặc dầu tinh thần còn nhiều phấn khởi,
chúng tôi rất mệt mỏi vì đi bộ rất nhiều từ ngày hôm
qua đến ngày hôm nay, và đầu óc choáng ngộp với bao
dữ kiện và thông tin. Chúng tôi nói với anh hướng
dẫn viên về Siem Reap sớm để nghỉ ngơi. Nói chung
trong hai ngày chúng tôi đã thăm quan những đền quan
trọng và lý thú nhất trong quần thể Angkor. Sau khi
nghỉ ngơi ở khách sạn, chúng tôi đi dạo quanh và vào
chợ mua trái cây về phòng ăn, sau đó đến cà phê
Internet gọi điện thoại về Saigon. Phải nói giá cước
gọi đi Việt nam rất mắc so với các nước khác, mặc
dầu hai nước rất gần nhau. Ở khách sạn chúng tôi ở,
các nhân viên đều lịch thiệp và lanh lợi. Họ hỏi
chúng tôi muốn đi đâu, họ sẽ gíup đỡ. Khi tôi nói là
có ý định muốn đi mua phim ảnh cho máy chụp ảnh và
quay phim, họ dùng xe Honda chở chúng tôi đến tiệm
gần khách sạn. Tối hôm đó, chúng tôi do dự trong sự
chọn lựa đi thăm quan ngày mai: biển hồ Tonle Sap
hay tiếp tục đi thăm quần thể Angkor ở vòng ngoài.
Angkor vẫn là quyến rủ không thể cưỡng lại. Chúng
tôi nhờ khách sạn mướn xe đi thăm Banteay Sreii và
các đền chưa thăm. Lúc đó chúng tôi mới biết là
chính ông chủ nhà khách Tasom, người đã đưa chúng
tôi đến khách sạn, sẽ là người lái xe chở chúng tôi
đi thăm quan. Chuyến đi này chúng tôi không có hướng
dẫn viên du lịch, và thật ra cũng không cần nữa vì
các chi tiết lịch sử, kiến trúc đền đều có thể biết
qua các sách hướng dẫn du lịch như Lonely Planet.
Banteay Srei
Chủ “nhà khách Ta Som” là người
Khmer rất hiền lành và hoạt bát. Ông tên là Mang
Meng, ông dùng xe nhà đích thân chở chúng tôi đi
thăm quan. Ông có kể là ngày xưa ông dã từng trong
quân đội chính phủ Hun Sen chống lại với Khmer Rouge
trong thời chiến tranh. Nay ông đã giãi ngũ và làm
ăn sinh sống. Trên đường đi Banteay Srei, ông chở
chúng tôi ngang khu phố dọc bờ sông SiemReap nơi có
nhiều dinh thự và nhà lớn. Ông nói nơi đây là chỗ cư
ngụ của tỉnh trưởng Siem Reap và các quan chức quan
trọng. Họ rất giàu có và sang trọng, dĩ nhiên là nhờ
có sự tham nhũng và thoái hóa mà đa số dân chúng đều
biết.
Ra
khỏi thành phố Siem Reap, đường đi đến Banteay Srei
rất tốt, được cải tiến rất nhiều so với mấy năm
trước đây. Hai bên đường là các hàng cây được trồng
và tân trang lại. Theo ông chủ xe thì chính quyền
tỉnh Siem Reap đã mua lại rất nhiều đất của dân để
nới rộng đường. Có nhiều người trong chính quyền
tỉnh đã dành và tiếm dụng đất chung quanh vùng vì
hiện nay ở Siem Reap và nhiều nơi khác trên Cambodia
giấy tờ chủ quyền không có hay không rõ ràng. Chúng
tôi đi qua nhiều thôn xóm Khmer và thấy được cảnh
sinh hoạt của người dân. Đa số họ sống rất nghèo k
Đền
Banteay Srei là tuyệt tác của nghệ thuật tôn giáo
Balamon Ấn độ. Đền gồm ba lớp, qua cầu đá đi
vào cổng đền là vòng ngoài, đến cầu đá thứ hai qua
hào nước (nay không còn) là cổng vào vòng giữa và
cuối cùng là vòng trong gồm các đền thờ và hai toà
kiến trúc gọi là “thư viện”. Trước ảnh (mandapa) nối
với trung tâm đền là các tượng người bảo vệ đền. Các
tượng này thật ra chỉ là tượng sao bản, tượng cổ
nguyên thủy hiện nay được giữ bảo quản ở Viện bảo
tàng quốc gia ở Phnom Penh. Trên mi cửa (lintel) ở
cửa hành lang điện sảnh là những điêu khắc tỉ mỉ chi
li tuyệt tác. Trên sân nhỏ giữa đền ở vòng trong có
ba đền thờ: kiến trúc đền thờ phía bắc thờ thần
Vishnu, đền trung tâm và đền phía nam thờ thần Shiv
Chính tại Banteay Srei vào năm 1923, nhà văn Pháp
trẻ 22 tuổi André Malraux cùng vợ tên là Clara và
người bạn thời thơ ấu đã đục lấy đi các tượng tổng
cộng hơn 600 ký, chở đi trên ba xe bò, và sau đó
dùng tàu thủy đến Phnom Penh để bán cho người mua mà
họ đã thương lượng trước đó. Nhưng may thay, tại
đấy, cả ba bị bắt và bị kết án ba năm tù. Bản án tuy
vậy không được thực thi nhưng vụ án này đã được phổ
biến rộng rãi trên báo chí và từ đó thúc dục nhà cầm
quyền thực thi vai trò quan trọng của sự bảo tồn và
bảo vệ những kiến trúc quí giá ở Angkor. Phương pháp
phục hồi (analystolosis) bắt đầu được dùng đầu tiên
bởi nhà khảo cổ Marchal ở đền Banteay Srei để phục
hồi những chỗ bị hư hại. Nhà văn Vương Hồng Sển khi
viếng Banteay Srei vào năm 1940, thấy đền hầu như
nguyên vẹn sau khi được phục hồi, lúc đó còn ở giữa
rừng hoang (nay trước đền là con lộ lớn nhiều xe đi
lại và các hàng quán, quày hàng bán đồ cho khách đến
thăm).
Trên
đường trở về Siem Reap, chúng tôi nhờ ông Mang Meng
ghé qua vài ngôi đền khác trong quần thể Angkor mà
các ngày trước chúng tôi chưa có dịp viếng thăm
được. Cụ thể là các đền Mebon Đông, Ta Som và Ta
Keo.
Mebon Đông (East Mebon)
Mebon Đông xưa kia nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa một
hồ đập nước lớn hình chữ nhật, gọi là “Đông Baray”.
Châu Đạt Quan gọi hồ này là Đông Hồ. Đền Mebon Đông
có tất cả các đặt tính của một đền núi, tượng trưng
cho núi thiêng Meru. Muốn đến được đền phải đi bằng
thuyền, lên nhiều bậc thang đá đến sân đền. Hồ đã
biến mất từ nhiều thế kỷ nay. Trên sân đền là năm
tháp gồm bốn tháp ở bốn góc chung quanh một tháp
lớn ở giữa. Đền được vua Rajendravarman (944-968)
xây dựng. Các ký tự tìm được gần đền và trên tượng
đá tại đền (được xác định là năm 952) mô tả vị trí
các điện thờ linh phù (linga) Sri Rajendresvara, các
thần, nhất là Shiva và Parvati, giống như cha và mẹ
của vua Rajendravarman. Đền Mebon Đông thuộc vào
nhóm đền thờ cha mẹ của vua (3).
Xuống xe gần đền, chúng tôi nhận thấy đây là địa
điểm khá xa trong quần thể Angkor nên hầu như không
có du khách (trừ hai du khách khác từ Victoria, Úc
mà chúng tôi vui vẻ nói chuyện, trao đổi cảm tưởng)
và trước cửa đền không có cảnh buôn bán hay hàng
quán gì hết. Chúng tôi đi lên đền qua nhiều bậc
thang đá, qua tượng hai sư tử đá là đến sân đền. Từ
sân đền trên cao nhìn xuống ta có thể thấy một số
đền khác ở phía xa và khoảng đất bằng phẳng chung
quanh đền của hồ cạn “Đông Baray”. Ở bốn góc sân đền
là bốn tượng voi đá lớn và rất đẹp. Vắng bóng du
khách, chỉ còn lại có hai chúng tôi đi quanh đền
trong cảnh vắng lặng của buổi trưa nắng và vì cảm
cảnh chúng tôi đã chụp rất nhiều hình kỷ niệm. Trưa
nắng vùng nhiệt đới thường rất gay gắt và làm mọi
người uể oải muốn tìm một nơi nào hay về nhà nghỉ
mệt hoặc cùng lắm tìm góc cây nào đó dừng chân,
nhưng quả thật cảnh hoang vắng trong một đền rộng
lớn và yên lặng nhìn được bốn phía từ sân trên đỉnh
đền như có gì huyền bí trang nghiêm làm chúng tôi
như bị thôi miên, đi khắp nơi trong
đền. Nhìn ngắm trong lúc tưởng tượng đến cách đây
năm sáu thế kỷ nơi đây là chỗ người xưa ở quanh vùng
đến thờ cúng náo nhiệt, nay chỉ là nơi hoang tàn để
lại di tích tuyệt tác của một nền văn minh rực rỡ đã
mất.
Đền
Mebon Đông không phải là tuyệt tác của nghệ thuật
Khmer so với các đền khác trong quần thể Angkor như
Angkor Wat, Banteay Srei hay Angkor Thom nhưng là
một đền uy nghi vì tầm vóc cao lớn giữa đất bằng
chung quanh và có nghệ thuật trang trí qua các linh
phù điêu khắc rất linh hoạt và sống động. Xưa kia
đền ở giữa hồ, từ xa có thể thấy như ngọn núi thiêng
trấn ngự bao trùm chung quanh vùng, đóng vai trò
quan trọng là trung tâm tôn giáo và tâm linh của
người xưa..
Ta Som
Ta
Som là một đền nhỏ, gần Neak Pean và Preah Khan, về
phía đông của hồ Jayatataka, được bảo vệ bởi một hào
nước nay đã cạn. Vòng trong của đền chỉ có kích
thước 30mx20m. Vì thế rất ít người và du khích để ý
đến nên rất vắng vẽ khi chúng tôi đến thăm. Đền có
hơi đổ nát, chưa được phục hồi.
Giống như ở Bayon, trên tháp (gopura) ở cửa đông và
tây là các tượng lớn điêu khắc hình mặt người ở bốn
hướng. Trong các hành lang ở đền là các điêu khắc vũ
nữ apsara và các thần. Ta Som là đền Phật giáo được
xây bởi vua Jayavarman VII vào thế kỷ 12, như ở
Preah Khan, đền xây để tưởng niệm vua cha. Cùng với
các đền thờ phật giáo khác của Jayavarman VII, sau
khi ông mất, các vị vua kế tiếp đã biến chúng thành
các đền Ấn giáo. Vì thế các điêu khắc về đức Phật bị
đục mất hoặc biến dạng. Giữa đền Ta Som hiện nay là
thờ linga tượng trưng cho thần Shiva thay vì tượng
Phật như lúc ban đầu.
Rời
Ta Som lúc đã xế trưa, chúng tôi trở về Sieam Reap
để sửa soạn về Saigon chiều nay. Trong quần thể
Angkor còn rất nhiều đền chưa viếng thăm được, cụ
thể là các đền Banteay Kdei, Prasat Kravan, Banteay
Samre, Bakong, Roluos, PreRup và các đền ngoài
Angkor như Beng Mealea, Banteay Chmar. Tôi tự hứa
phải để đến có một dịp khác trở lại thăm và nghiên
cứu kỹ lưỡng hơn.
Angkor và bài học lịch sử
Vì
hôm nay là ngày cuối ở Angkor trước khi trở về Việt
Nam vào lúc buổi chiều, chúng tôi quyết định nghỉ
ngơi và thong thả đi dạo quanh thành phố Siem Reap
sau ba ngày mệt mỏi viếng thăm Angkor. Anh Mang Men
chở chúng tôi đi đến văn phòng Vietnam Airlines để
đăng ký vé về Saigon chiều nay. Mỗi ngày đều có
chuyến bay từ Siam Reap đi Saigon, Bangkok, Hanoi.
Ngoài Vietnam Airlines, còn có các hảng hàng không
khác của Thái Lan như Thai Airways, Bangkok Airways
và Siem Reap Airways. Vietnam Airlines cạnh tranh
rất hiệu quả với giá phải chăng và lúc nào cũng đông
khách. Phi trường quốc tế Siam Reap rất hiện đại với
nhiều du khách từ khắp nơi trên thế giới đến đi thăm
kỳ quan Angkor, ở đây trên tường có các câu trích từ
tư liệu của các nhà học giả, sử gia nổi tiếng nói về
Angkor: Pelliot, Châu Đạt Quan.
Buổi
chiều hôm đó, trong lúc đợi phi cơ trở về Saigon,
lúc nào trong đầu tôi cũng có một câu hỏi: lý do gì
đã gây ra sự sụp đổ và bỏ hoang của Angkor. Lúc ở
cực điểm, Angkor có dân số lên đến cả triệu người,
xã hội trù phú, văn hóa rực rỡ. Vậy thì phải do một
biến cố to lớn gì đó. Đa số các sử gia cho rằng sau
khi đã bỏ vào rất nhiều nhân lực, tổn phí xây dựng
đền dưới thời vị vua cuối cùng Jayavarman VII, xã
hội Khmer đã hoàn toàn suy sụp sau khi kinh đô
Angkor bị quân Xiêm tàn phá. Angkor bị bỏ hoang từ
đó. Gần đây, một nhóm nhà nghiên cứu của đại học
Sydney và trường Viễn đông Bác cổ dùng kỹ thuật ảnh
vệ tinh, nghiên cứu địa lý, địa thế kinh rạch và tư
liệu xưa cho rằng lý do chính gây ra sự sụp đổ của
Angkor là do sự mất thăng bằng về môi trường trong
sự sử dụng tài nguyên nước gây ra nạn đói kém và xã
hội tan rã. Roland Fletcher (12) cho thấy Angkor là
một thành phố trãi rộng từ bờ hồ Tonle Sap cho đến
chân núi Phnom Kulen với diện tích khoảng 1000km2,
tương đương với thành phố Sydney hiện nay. Angkor vì
thế được coi như là thành phố trước cách mạng kỹ
nghệ lớn nhất. Thành phố tuỳ thuộc vào hệ thống kênh
đào nối liền với các hồ chứa nước, sông và biển hồ
Tonle Sap trong mùa nước và mùa khô. Hệ thống cơ sở
hạ tầng này cho phép thành phố phát triển với dân số
lên đến 750 ngàn dân. Khi dân số lên quá mức, rừng
được biến thành đồng lúa, và cây gỗ được khai thác ở
vùng quanh núi Kulen (nguồn sông Siem Reap) dẫn tới
phù sa tích tụ xuống Angkor gây trở ngại cho hệ
thống kênh đào. Đây cũng là một thí dụ về sự sụp đổ
của một xã hội đã phát triển thiếu quản lý, lạm dụng
môi trường mà sử đã cho thấy nhiếu trường hợp như
vậy. Nhà khoa học Jared Diamond (7) trong quyển sách
xuất bản gần đây cho thấy một thí dụ là dân đảo
Easter đã tự hủy diệt khi tài nguyên rừng bị lạm
dụng khai thác quá mức dẫn đến sự biến mất rừng trên
đảo và không còn vật liệu để làm thuyền đánh cá sinh
sống.
Tham khảo
(1) Michael Freeman, Claude Jacques, Ancient
Angkor, Thames & Hudson Ltd, London, 1999.
(2) Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời hư, Nhà xuất bản
trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2003
(3) Maurice Glaise, A guide to the Angkor
monuments, translated from French,
<http://www.theangkorguide.com/>
(4) Jacque Lange, Angkor, La
resurrection du temple montagne, Paris Match no.
2851, 8-19 Jan 2004.
(5) Eleanor Mannikka, Angkor Wat, Time, space and
kingship, Allen & Unwin, 1997
(6) Michael (1) Michael Freeman, Roger
Warner, Angkor, The hidden glories, David Larken
book, 1990
(7) Jared Diamond, Collapse: How societies choose to
fail or succeed, Penguin books, 2005
(8) Charles Higham, The civilization of Angkor,
University of California Press, 2002
(9) George Coedes, The Indianized states of
Southeast Asia, East West Center Press, University
of Hawaii, 1968
(10) Ugo Zoppi et al, The contribution of C14
AMS dating to the greater Angkor archeological
project, Poster presented at the AMS-9 conference in
Nagoya, September 9-13, 2002.
(11) Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam, 1993.
(12) Roland Fletcher, Damian Evans, Ian Tapley,
AIRSAR’s contribution to unđerstaning the Angkor
World Heritage Site, Cambodia – Objectives and
preliminary findings from an examination of PACRIM2
datasets, Proceeedings of 2002 AIRSAR Earth Science
and Application Workshop, NASA Jet Propulsion
Laboratory,Cal.,http://airsar.jpl.nasa.gov/documents/workshop2002/papers/P1.pdf