 |
Amartya Sen đang nhận
giải thưởng từ tay vua
trao Photo: Anders
Wiklund. |
Tác giả Amartya Sen đoạt giải Nobel kinh tế năm
1998. Ông hiện là giáo sư Kinh tế học
tại Ðại học Harvard, Hoa Kỳ. Hai tác
phẩm mới của ông là Rationality
and Freedom (Belknapp Press, 2004) và The
Argumentative Indian, Writings on Indian Culture,
History and Identity, (Penguin Allan Laune,
2005). Bản Việt ngữ sau đây được dịch
từ Anh ngữ: “Passage to India”, đăng trong
The New York
Review of Book, Volume 51, Nummer 19, December
2004.
Đại ý:
Không phải chỉ có Phật Giáo mà còn
nhiều khoa học khác (thiên văn, toán học,
y khoa…) tạo nên mối quan hệ văn hóa lâu
đời giữa hai nước. Qua thời gian, sự
hợp tác đa dạng này bị chìm vào lãng quên.
Hiện
nay, mối quan hệ này được siết chặt
trở lại, và hai nước có nhiều cơ hội
tốt đẹp để học hỏi lẫn nhau. Trung Hoa
có thể học hỏi hệ thống dân chủ đa đảng,
phương tiện truyền thông đại chúng và các
biện pháp cải thiện y tế công cộng tại
Ấn
Độ. Ngược lại, Ấn Độ sẽ học hỏi
được những thành công vượt bực về các
biện pháp cải cách kinh tế của Trung Hoa.
Tinh thần vô úy trước bạo lực, nhiệt tình
thảo luận công khai trước những bất đồng,
sẵn sàng chấp nhận phê bình để sửa sai
là một trong những truyền thống đặc
sắc của Phật Giáo mà Trung Hoa có thể
học hỏi và áp dụng vào những cải cách
chánh trị trong tương lai.
1.
Mối quan hệ trí thức giữa Trung Hoa và Ấn
Độ kéo dài từ hơn hai ngàn năm và đã để
lại những ảnh hưởng sâu đậm trong
lịch sử của hai nước, nhưng hiện nay điều
này hầu như bị lãng quên. Nếu có đề tài
nào còn gây đưọc chú ý, đó chỉ là do
những tác giả có quan tâm đến lịch sử
tôn giáo, đặc biệt là lịch sử Phật Giáo,
một tôn giáo từ Ấn Độ du nhập sang
Trung Hoa từ thế kỷ thứ nhất. Khi đó,
Phật Giáo đã trở thành một sức mạnh
quan trọng, nhưng khoảng hơn ngàn năm sau,
bị Khổng Giáo và Lão Giáo thay thế. Nhưng
tôn giáo chỉ là một phần trong lịch sử
bao la của Trung Hoa và Ấn Độ trong thiên
niên kỷ đầu tiên. Một sự hiểu biết toàn
diện hơn về mối quan hệ này là tối
cần thiết, không những giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về lịch sử một phần ba dân số
thế giới, mà còn cần bởi vì mối bang
giao của hai nước này rất quan trọng trong
các vấn đề chính trị và xã hội hiện
nay.
Một điều chắc chắn tôn giáo là một
nguồn gốc chủ yếu trong sự tiếp xúc
giữa Trung Hoa và Ấn Độ, và Phật giáo là
trọng tâm cho những giao lưu giữa con người
và tư tưởng của hai nước. Nhưng Phật Giáo
không những giới hạn ảnh hưởng trong
phạm vi tôn giáo, mà còn gây tác động trên
các lãnh vực thế tục khác như khoa học,
toán học, văn chương, ngôn ngữ, kiến trúc,
y khoa và âm nhạc. Qua các du ký của người
Trung Hoa tham quan Ấn Độ, thí dụ như Pháp
Hiển vào thế kỷ thứ V, Huyền Trang và
Nghĩa Tịnh vào thế kỷ thứ VII, cho chúng
ta thấy mối quan tâm của họ không chỉ là
lý thuyết hay thực hành Phật Giáo.
Cũng tương tự như vậy, những học giả
người Ấn Độ du hành sang Trung Hoa, đặc
biệt vào thế kỷ thứ VII và thứ VIII, không
chỉ thuần là bậc tu hành, mà trong số nhóm
người này còn có nhiều người với nghề
nghiệp khác như các nhà thiên văn và toán
học. Vào thế kỷ thứ VIII, một nhà thiên
văn học người Ấn Độ tên là Cồ Đàm Sĩ
Đạt Ta đã trở thành chủ tịch Ủy ban
Thiên Văn tại Trung Hoa.
Những sự phong phú và đa dạng của các
mối quan hệ trí thức này bị chìm vào lãng
quên qua thời gian. Hiện nay sự lơ là này
còn ngày càng nhiều bởi vì người ta có
khuynh hướng phân loại dân chúng thế
giới qua các nền văn minh khác nhau, mà
chủ yếu là định nghiã theo tiêu chuẩn tôn
giáo. Một thí dụ quen thuộc nhất là lí
thuyết của Samuel Huntington. Ông ta phân
chia thế giới theo tiêu chuẩn văn minh Tây
phương, Hồi giáo và Ấn độ giáo. Do đó
ngưòi ta có khuynh hướng chỉ tìm hiểu con
người qua tín ngưỡng tôn giaó, mà phần
lớn những yếu tố này không thể nắm
bắt được. Quan điểm chật hẹp này là
một điều tác hại, đặc biệt nó không
giúp chúng ta tìm hiểu về những khía
cạnh khác của lịch sử tư tưởng một cách
toàn diện hơn. Thí dụ như hiện nay có
nhiều người còn thành kiến rằng lịch
sử của người Hồi phần chủ yếu là
dựa vào lịch sử Hồi giáo. Quan điểm này
coi nhẹ những phát triển về khoa học tự
nhiên, toán học và văn chương thu lượm
đưọc qua những thành quả của giới trí
thức người Hồi, đặc biệt trong khoảng
thời gian từ giửa thế kỷ thứ VIII đến
thế kỷ XIII. Hậu quả của cái nhìn hạn
hẹp thuần tôn giáo này giúp cho thành
phần hoạt động cực đoan bất mãn đi
tới chỗ suy nghĩ cực kỳ kiêu ngạo về
sự thuần khiết của Hồi Giáo, thay vì hãnh
diện lịch sử Á Rập dựa trên sự phong
phú và đa dạng. Tại Ấn Độ cũng vậy,
những người Hindu cực đoan cố tình giản
lược nền văn hoá Ấn Độ đa dạng chỉ
là văn hoá Hindu, và chỉ thích sử dụng khái
niệm này, đó là một đặc điểm chung
của lý thuyết gia Huntington và những chính
trị gia Hindu.
Còn một khuynh hướng thứ hai cho là có một
sư tương phản lạ lùng và sai lầm trong
việc tìm hiểu và diễn đạt những tư tưởng
của Tây phương và không phải Tây phương.
Khi giải thích những công trình không phải
Tây phương, các nhà bình luận thưòng có
khuynh hướng xem tôn giáo đóng một vai trò
quan trọng, và họ quên đi những khía
cạnh thế tục khác của các công trình này.Thí
dụ như có một số ít người coi những công
trình khoa học của Issac Newton trước hết
phải hiểu theo ý nghĩa của Thiên Chúa giáo,
dù hiển nhiên Newton là một tín đồ Thiên
Chúa giáo. Phần đông nguời khác lại không
xác quyết rằng những đóng góp khoa học
của Newton cần đưọc giải thích theo
chiều hướng của ánh sáng thần bí học.
Chính những suy đoán nhuốm màu thần bí đã
có một ý nghĩa quan trọng và đã thúc đẩy
ông theo đuổi những công trình này.
Khi nói về những nền văn hóa không phải Tây
phương, người ta có một cái nhìn khác
biệt. Ở đây chủ thuyết giản lược vào
tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm. Nhiều
học giả thường cho rằng các công trình
nghiên cứu quy mô của các học giả Phật
Giáo, hay của các môn đệ theo Mật tông,
chỉ có thể hiểu được một cách đúng
đắn, khi người ta hiểu được giáo lý và
các phương thức tu tập.
2.
Mối quan hệ giữa Trung Hoa và Ấn Độ được
khởi đầu, không phải là Phật Giáo mà là
thương mại. Từ hơn hai ngàn năm trước,
thói quen tiêu thụ của ngưòi Ấn, đặc
biệt là giới nhà giàu, bị ảnh hưởng sâu
xa từ những tân tiến của Trung Hoa. Trong
một tài liệu nghiên cứu về tình hình
kinh tế và chính trị của Kautila, học
giả về tiếng Sankrit, soạn thảo vào thế
kỷ thứ IV trước Thiên Chúa, và được
bổ sung thêm vào vài thế kỷ sau đó, thì
tơ lụa của Trung Hoa là một trong những
sản phẩm hiếm quí. Ngay trong thiên hùng ca
cổ Mahabharata
và trong “bộ luật về Manu” thì tơ lụa
của Trung Hoa được đề cập tới như là
những quà tặng.
Theo nhiều danh tác bằng tiếng Sankrit vào đầu
thiên niên kỷ đầu tiên thì phẩm chất
của các sản phẩm Trung Hoa được đề
cao, ngay trong kịch bản “Sakuntala” do
Kaladasa soạn ra vào thế kỷ thứ V cũng có
đề cập, ông có lẽ là một nhà thơ và
soạn kịch tài hoa nhất trong văn chương
cổ điển tiếng Sankrit. Qua kịch bản này
thì vua Dusyanat, trong một chuyến đi săn, đã
gặp một thiếu nữ đẹp tuyệt trần tên
là Sakuntala. Ông thú nhận yêu nàng say đắm
bằng cách tự ví von với chiếc cờ bằng
lụa phất phơ trong gió:
Thân tôi
tiến về phía trước,
lòng tôi chùng
lại và thoái lui
như dải
lụa đào
đang phất phơ
trong gió
Trong kịch bản “Harsacarita”, do Bana soạn ra
từ thế kỷ thứ VII, nàng Rajyasri xinh đẹp
đã mang trang phục lộng lẫy của mình
bằng lụa Trung Hoa trong ngày hôn lễ. Trong
văn chương Sankrit thời kỳ này, có vô số
bằng chứng khác nói về những sản phẩm
của Trung Hoa du nhập vào Ấn Độ, thí dụ
như long não, son, hàng da quí, táo và đào.
Trong khi Trung Hoa cung ứng cho Ấn Độ từ trên
2000 năm những sản phẩm vật chất thì
Ấn Độ đã du nhập Phật Giáo sang Trung
Hoa, ít nhất là vào đầu thế kỷ thứ
nhất. Lúc đó, theo lời mời của hoàng đế
Mingdi thời nhà Hán, hai vị sư người Ấn,
Dharmaraska và Kasyapa Matanga, đã du hành sang
Trung Hoa. Sau đó cho đến thế kỷ XI, có vô
số học giả và sư tăng người Ấn đã
tiếp tục đến Trung Hoa. Hằng trăm dịch
giả và học giả đã chuyển các kinh điển
từ tiếng Sankrit sang Hoa ngữ. Công trình
phiên dịch tiến hành với một tốc độ
đáng ngạc nhiên. Mặc dầu làn sóng dịch
thuật này chấm dứt vào cuối thế kỷ XI,
khoảng giữa năm 982 đến năm 1011, có chừng hơn 200 bộ kinh từ tiếng Sankrit
được dịch.
Học giả đầu tiên đã viết rất chi tiết
về chuyến du hành Ấn Độ của mình là Pháp
Hiển. Ông gốc ở miền Hoa Nam, sang Ấn
thỉnh kinh Phật, để sau này về dịch
lại. Sau một chuyến đi gian
khổ hướng về Bắc Ấn, xuyên qua vùng
Khotan, nơi Phật Giáo có ảnh hưởng mạnh,
ông đã đến Ấn Độ vào
năn 401. Mười năm sau ông trở về bằng
đường biển. Khi vượt qua cửa khẩu sông
Hằng, không xa với Calcuta ngày nay, ông cũng
đã thăm Sri Lanka theo Phật Giáo và Java theo
Hồi Giáo. Trong mười năm ở Ấn Độ, Pháp
Hiển đã chiêm bái nhiều nơi, sưu tầm
nhiều tài liệu, và sau đó dịch sang Hoa
ngữ. Trong cuốn Phật quốc ký lục, ông đã mô tả khá chi tiết về
Ấn Độ và Sri Lanka. Pháp Hiển cũng lưu
lại nhiều năm ở Patalipura (Patna), nơi ông
không những nghiên cứu kinh điển Phật Giáo
mà còn mà còn học hỏi về ngôn ngữ và văn
chương. Như chúng ta sẽ thấy sau này, ông
còn quan tâm đến hệ thống y tế của Ấn
Độ.
Nhưng Huyền Trang là tăng khách nổi tiếng
nhất từ Trung Hoa thăm Ấn Độ vào thế
kỷ thứ VII. Học giả này đã đi trong 16 năm
dài xuyên qua Ấn Độ để thỉnh kinh
Phật, và để sau đó lúc về Trung Hoa
dịch lại. Ông cũng đã lưu lại nhiều năm
ở Na Lan Đà, một tu viện nổi tiếng, không
xa Patna lắm. Lúc ở Na Lan Đà, ngoài việc
nghiên cứu Phật Gíáo ra, Huyền Trang còn
tham khảo các lãnh vực y khoa, triết học,
luận lý, toán học, thiên văn và ngữ pháp.
Lúc về Trung Hoa, ông được hoàng đế
nghinh đón trọng thể.
Nghĩa Tịnh, một vị sư đến Ấn Độ sau
Huyền Trang, cũng lưu lại Na Lan Đà, ngoài
nghiên cứu Phật giáo của mình, ông còn tìm
hiểu thêm y khoa và y tế công cộng.
3.
Công trình dịch thuật kinh điển Phật Giáo
của Nghĩa Tịnh gồm có cả những bài kinh
của các tín đồ Mật tông mà truyền
thống bí truyền giữ một vai trò quan
trọng trong thiền định. Mật tông đã có
ảnh hưởng mạnh tại Trung Hoa vào thế
kỷ thứ VII và VIII. Các học giả theo Mật
tông quan tâm đặc biệt đến toán học, có
lẽ thoạt đầu vì có sự liên hệ trong
sự màu nhiệm của Mật tông với các con số. Những nhà toán học Mật tông cũng ảnh hưởng mạnh đến
toán học Trung Hoa.
Theo
Joseph Needham (1900-1995) thì Nghĩa Tịnh (672-717) là đồ
đệ quan trọng nhất của Mật tông và là
một nhà thiên văn và toán học Trung Hoa tài
hoa nhất vào thời ấy.
Là một tu sĩ, ông thông thạo Sankrit và am
tường toán học Ấn Độ. Nhưng nếu cho
rằng những công trình toán học của ông
bị ảnh hưởng từ Phật Giáo, quả là
một điều sai lầm. Là một nhà toán học,
và do sự tình cờ, trở thành một môn đệ
của Mật tông, những phân tích toán học
của ông không liên hệ gì đến tông phái
này. Ông giải những bài toán cổ điển
bằng cách tính ra tổng số những tính
huống có thể xảy ra trong một bàn cờ tướng.
Ông quan tâm đặc biệt đến cách tính để
làm lịch, và theo lịnh của nhà vua, ông cũng
triển khai một loại lịch mới cho Trung
Hoa.
Những nhà thiên văn người Ấn Độ sống ở
Trung Hoa vào thế kỷ thứ VIII nghiên cứu
đặc biệt khoa học về làm lịch. Họ cũng
biết sử dụng các phương pháp triển khai
của lượng giác, đã hình thành trước đó
tại Ấn Độ. Thành tựu này vượt xa hơn
cả lượng giác tại Ấn Độ mà nó bắt
nguồn từ nguồn Hy Lạp. Cũng chính trong
thời kỳ này, thiên văn và toán học Ấn
Độ, kể cả lượng giác, đã ảnh hưỏng
đến toán học và khoa học của thế giới
Á Rập, qua công trình dịch thuật của
Aryabhata, Varahamihira, Brahmagupta và nhiều người
khác nữa.
Tư liệu của Trung Hoa cho thấy, nhiều nhà thiên
văn và toán học Ấn Độ đã giữ nhiều
chức vụ quan trọng trong thời kỳ này
tại thủ đô Trung Hoa. Một trong số người
này là Cồ Đàm, ngài không những chỉ
giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban thiên văn
Trung Hoa, mà còn trước tác nhiều bảng
tổng kết nổi tiếng về thiên văn, Kayvan
Zahnjing, một danh tác cổ điển vào thế
kỷ thứ VIII. Ngài đã phóng tác một vài
một công trình thiên văn của Ấn Độ và
phổ biến tại Trung Hoa. Một trong số
những tác phẩm này là Juizhi li, nói về cách
soạn lịch thuộc về hành tinh ở Ấn Độ.
Tài liệu này căn cứ vào một kinh sách
cổ điển Sankrit, được nhà toán học Ấn
Độ Vaharamihira trước tác vào khoảng năm
55 sau Công nguyên. Đây là công trình chủ
yếu nhắm vào việc hướng dẫn kỹ thuật
toán học cho việc ước tính những khoảng
thời gian của nhật và nguyệt thực, dựa
trên đường kính của mặt trăng, và
những thông số liên hệ khác. Những kỹ
thuật liên hệ đề ra những phương pháp này
do Aryabhata lập ra vào cuối thế kỷ thứ
V, sau này được các môn đệ triển khai,
đặc biệt là Varahamihira và Bramaguta.
Yang
Jingfen, một nhà thiên văn học Trung Hoa vào
thế kỷ thứ VIII, đã mô tả nguồn gốc
Ấn Độ của ngành thiên văn Trung Hoa như
sau:
“Ai muốn biết về vị trí của ngũ hành
tinh, đều phải chấp nhận phương pháp
soạn lịch của Ấn Độ. …Chúng ta có ba
nhóm học giả về chuyên về lịch Ấn Độ,
Chiayeh, Cồ Đàm và Chumoli, cả ba đều làm
việc tại ủy ban thiên văn... Nhưng phương
pháp phổ biến nhất là của Cồ Đàm, cùng
kết hợp với công trình ‘một nghệ
thuật vĩ đại’, do chính quyền đề ra”.
Những nhà thiên văn học Ấn Độ nêu trên đã
không đến Trung Hoa nếu không có mối quan
hệ trước đó với Phật Giáo. Nhưng
những đóng góp này không thể chủ yếu
gọi là công trình cho Phật Giáo.
4.
Trong các tài liệu về văn hóa và văn minh, đã
có nhiều đề tài thảo luận đặc biệt cáo
giác về sự cô lập của văn hóa Trung Hoa
và những nghi ngờ các tư tưởng ngoại
nhập. Quan điểm này được viện dẫn
trong những năm gần đây để giải thích
sự chống đối của Trung Hoa trước những
phong trào đòi hỏi dân chủ hóa. Tuy nhiên,
sự giải thích đơn giản này không nói lên
được tại sao Trung Hoa sẵn sàng chấp
nhận nền kinh tế thị trường trong nước
và tại hải ngoại tiếp theo những cải cách
kinh tế của năm 1979, trong khi đó, giới lãnh
đạo lại kiên quyết không đồng ý cải cách
dân chủ chánh trị. Trên bình diện trí
thức, Trung Hoa thật ra không hề tự cô
lập như thường được người ngoài suy đoán.
Sự thật ở đây khác hẳn.
Về điểm này, mối quan hệ của Trung Hoa và
Ấn Độ đóng một vai trò quan trọng. Ấn Độ là quốc gia duy nhất trong thế giới
bên ngoài mà các học giả Trung Hoa đến để học tập. Điều này đã xảy ra. Chúng ta ghi nhận được hơn
hai trăm học giả lỗi lạc Trung Hoa đã lưu
trú một thời gian dài ở Ấn Độ. Trong
nửa hậu bán của thiên niên kỷ đầu, người
Trung Hoa chủ yếu đi thỉnh kinh Phật và tư
liệu bằng tiếng Sankrit, nhưng họ cũng
quan tâm đến các lãnh vực khác. Một vài
ảnh hưởng của Ấn Độ thể hiện rõ, thí
dụ như sử dụng những thuật ngữ và khái
niệm thiền bắt nguồn từ dhyana, cũng như
đề tài kịch nghệ Trung Hoa bắt nguồn
từ các chuyện kể bằng tiếng Sankrit, như
chuyện tiên nữ rải hoa.
Học
giả Hoa Kỳ John KIeschnick đã chứng minh rằng kiến trúc về chùa chiền và cầu
cống của Trung Hoa phần lớn đều chịu
ảnh hưởng Phật Giáo Ấn Độ.
Dĩ
nhiên sự giao lưu kiến thức giữa Trung Hoa
và Ấn Độ đi theo hai chiều. Joseph Needham
đã thử liệt kê một danh sách những ý
niệm toán học từ Trung Hoa lan truyền sang
Ấn Độ. Ông lập luận rằng đã có
nhiều ý niệm từ Trung Hoa đến Ấn Độ hơn
là ngược lại. Ấn Độ tiếp nhận nhiều
hơn trong việc giao lưu hai nền văn hóa.
Vì thiếu bằng chứng trực tiếp về sự
giao lưu tư tưởng đặc thù,
với chiều hướng riêng biệt nào, giữa
hai nước, nên Needham cho là tư tưởng di động
từ một nước khi người ta tìm ra những
chứng tích đầu tiên cho sự sử dụng.
Phương pháp này bị các nhà sử học và
khoa học khác mạnh bạo phê bình, như Jean
Claude Martzloff.
Điều hiển nhiên là tư liệu chứng minh
tại Ấn Độ hầu như đã mất đi rất
nhiều so với
Trung Hoa,
Nhưng điều quan trọng nhất thật ra
là đã có quá nhiều giao lưu tư tưởng
về toán học, khoa học, cũng như những đề
tài không liên quan gì đến tôn giáo giữa
hai nước.
5.
Việc trao đổi tư tưởng và kỹ năng trong toán
học và khoa học vẫn còn là trọng điểm
trong thế giới mậu dịch hiện nay, cho dù
chỉ quan hệ đến sự phát triển công
nghệ thông tin, hay những phương thức công
nghiệp hiện đại. Có lẽ, điều không
được sáng tỏ hiện nay, là cả hai nước
đã học hỏi lẫn nhau như thế nào, trong
việc mở rộng phạm vi truyền thông công
cộng và cải thiện các phương thức y tế
công cộng. Nhưng hai khía cạnh này đã
rất quan trọng trong mối quan hệ trí thức
giữa Trung Hoa và Ấn Độ trong thiên niên
kỷ đầu tiên mà đến nay vẫn còn đóng
vai trò chủ yếu.
Về phần tôn giáo, Phật Giáo ngay từ khởi
thủy đã có hai đặc điểm được xem là
đặc biệt: thuyết bất khả tri và nhiệt
tình tham gia thảo luận các vấn đề công
cộng. Theo sử liệu, những cuộc họp công
khai đầu tiên nhằm giải quyết các vấn
đề tranh chấp về tự do tín ngưỡng và các
vấn đề khác, đã xảy ra tại Ấn Độ,
trong các đại hội Phật tử được tổ
chức chặt chẽ, nơi các tín đồ tranh
luận những quan điểm dị biệt nhau. Một
đại hội kết tập được tổ chức lần
đầu tiên tại Thành Vương Xá (Rajagriha)
sau ngày Phật nhập niết bàn, cách đây vào
khoảng 2500 năm. Đại hội kết tập lần
thứ ba, được tổ chức tại thủ đô
Patna, dưới sự chủ trì của hoàng đế A
dục (Askosa), vào thế kỷ thứ II trước Công
nguyên. Vua A Dục cũng đã điển chế và
cho lưu hành những quy luật đầu tiên liên
quan đến những cuộc thảo luận công
cộng, đây là một bản văn loại xưa
nhất về “Quy Luật Trật Tự của
Robert” Thí dụ như ông đòi hỏi rằng
cần giới hạn sự phát biểu để tránh
tự ca ngợi tông phái của mình và tránh
nhục mạ đến tông phái khác trong một
thời điểm không thích hợp. Những nhiệt
tình phát biểu nên thận trọng, ngay cả
trong những thời điểm phù hợp nhất.
|
John Stuart Mill
|
Những cuộc thảo luận công khai và có lập
luận hợp lý là trọng tâm của nền dân
chủ (như John Stuart Mill, John Rawls và Jürgen
Habermas, ba người chính trong số nhiều người
khác, đã từng lập luận). Thực ra, nguồn
gốc của dân chủ bắt nguồn một phần
từ trong truyền thống thảo luận công
cộng, mà tại Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật
Bản, Đại Hàn và nhiều nơi khác ở Á Châu
đã hấp thụ được tinh thần đối thoại
trong Phật Giáo. Đây là một điều giải
thích tại sao những thử nghiệm về ngành
in sách tại Trung Hoa, Đại Hàn và Nhật
Bản thoạt đầu do những Phật tử đảm
nhận.
Cuốn sách in đầu tiên trên thế giới, đúng
hơn là cuốn sách in đầu tiên mà đến ngày
nay đưọc ghi nhận, là bản dịch kinh Kim
Cang từ Sankrit sang Hoa Ngữ, được in vào năm
868 sau Công nguyên. Mặc dù kinh Kim Cang là
một kinh điển thuần túy tôn giáo, nhưng
đây là một cống hiến đáng ca ngợi vào
thế kỷ thứ IX. Theo lời tựa, đây là
một tác phẩm phân phối miễn phí cho đại
chúng, trong một chương trình giáo dục dân
chúng.
|
John Rawls (AP)
|
John Kieschninich ghi nhận rằng một trong những
lý do về tầm quan trọng của kinh điển
trong truyền thống Phật Giáo Trung Hoa dựa
trên niềm tin cho là người ta sẽ tạo phúc
đức trong việc phổ biến kinh sách. Ông cũng
lập luận rằng niềm tin này bắt nguồn
từ Ấn Độ.
Có nhiều cơ sở cho quan điểm này, chắc
một điều là có một mối quan hệ thông
cảm sâu xa giữa vua A dục, cũng là một
Phật tử, và đại chúng. Vị vua này cũng
đã dựng nên những bia đá lớn, ghi các
luật đạo đức công cộng, có cả luật
về lập luận
Sự phát triển ngành in đã có những kết
quả đáng kể trong việc phát triển dân
chủ. Nhưng trong ngắn hạn nó mở ra những
khả năng mới cho những cuộc thảo luận công
khai và gây những tác động sâu xa trong
sinh hoạt xã hội và chính trị tại Trung
Hoa. Trong số những yếu tố khác, phải
kể đến ảnh hưởng của nền giáo dục
Khổng Giáo tân thời. Như Theodore de Bary ghi
nhận: “Giáo dục phụ nữ đạt được
một tầm quan trọng mới nhờ vào sự khai
thông giáo dục trong thời nhà Tống, và
mở rộng giáo dục Khổng Giáo thời nhà
Minh, được ghi nhận bằng sự phát triển
của ngành in, xóa nạn mù chữ và giáo
dục học đường.”
6.
Mối quan hệ giữa Trung Hoa và Ấn Độ trong lãnh
vực y tế công cộng rất quan trọng, nhưng
ít được biết tới. Sau khi Pháp Hiển
tới Ấn Độ vào năm 401 sau Công nguyên, ông
quan tâm tới các công tác về chăm sóc y
tế công cộng. Những cơ sở y tế phục
vụ công cộng tại thành phố Patna vào
thế kỷ thứ V đã gây cho ông những ấn tượng
tốt đẹp:
“Những người nghèo và bất hạnh… và
tất cả những người bệnh tật, đều đi
đến các cơ quan này, họ được giúp đỡ
đủ thứ, và các thầy thuốc chữa trị
cho họ. Họ nhận được thực phẩm và
thuốc men trong trường hợp cần thiết và
họ cảm thấy thoải mái. Khi họ hết
bịnh thì họ tự động ra về.”
Dù những lời mô tả về những y viện tại
Patna vào thế kỷ thứ V có vẻ tâng bốc
quá lố hay không (mà hình như vậy), điều
đáng nói là lòng mong muốn học hỏi của
Pháp Hiển về những phương thức cung ứng
các dịch vụ y tế của các nơi mà ông
tới thăm trong một thập niên.
Hai thế kỷ rưỡi sau, Nghĩa Tịnh cũng quan tâm
đến vấn đề y tế công cộng. Ông đã dành
riêng ba chương sách để nói về đề tài
này trong một tác phẩm của ông về Ấn Độ.
Những phương thức trị liệu của Ấn Độ
đã gây cho ông những ấn tượng mạnh mẽ
hơn các kiến thức về y học. Ông tin vào
những phương thức trị liệu của Ấn Ðộ
nhằm giảm đau nhức và khó chịu, thí dụ
như bơ loãng, mật ong, nước đường trị
cảm lạnh. Ông kết luận rằng: “Trong
nghệ thuật trị liệu bằng châm cứu và
bắt mạch thì Trung Hoa không hề qua mặt được
Ấn Độ, nhưng những phương thuốc làm tăng
tuổi thọ chỉ do Trung Hoa tìm ra”. Mặt khác,
ông viết thêm, có nhiều điều cần phải
học hỏi ở Ấn Độ về phương diện y
tế công cộng. Người Ấn Độ biết dùng
vải trắng sạch để lọc nước, trong khi
đó, tại Trung Hoa người ta dùng vải lụa.
Ở Trung Hoa, người ta ăn cá và dùng rau
quả hầu hết không
nấu chín, mà không một người Ấn Độ nào
làm như vậy”. Khi Nghĩa Tịnh vui mừng khi
về lại nước của mình, ông cũng tự đặt
ra một câu hỏi rất tế nhị: “Có người
nào dù ở đâu trên đất Ấn Độ mà không
khâm phục Trung Hoa?” Ông cũng đề ra phương
cách đánh giá những gì mà Trung Quốc có
thể học hỏi được ở Ấn Độ.
7.
Y
tế công cộng là đề tài mà một nước này
có thể học được ở một nước khác. Điều
rõ ràng là hiện nay Ấn Độ đã phải
học hỏi nhiều ở Trung Hoa. Thật ra tuổi
thọ trung bình tại Trung Hoa đã tăng cao hơn
tại Ấn Độ trong nhiều thập niên qua. Tuy
nhiên, lịch sử về việc gia tăng tuổi
thọ trung bình của hai nước đem lại
nhiều chuyện thú vị. Ngay sau thời kỳ cách
mạng Mao, Trung Hoa đã phát động sớm
việc cung ứng y tế công cộng lan rộng, và
Ấn Ðộ không có gì để so sánh được
với Trung Hoa trong thời kỳ này. Vào năm
1979, khi Đặng Tiểu Bình du nhập các cải
cách kinh tế, thì một người Trung Hoa trung
bình sống 14 lâu năm hơn người Ấn Độ.
Sau
cải cách kinh tế 1979, nền kinh tế Trung
Hoa tăng trưởng mạnh và nhanh hơn Ấn Độ.
Mặc dù kinh tế Trung Hoa phát triển vượt
bực, nhưng từ năm 1979, tỷ lệ tăng tuổi
thọ trung bình tại Ấn Độ đã tăng gấp
ba lần nhanh hơn Trung Hoa. Tuổi thọ trung bình
hiện nay tại Trung Hoa
vào khoảng 71, tại Ấn Độ là 64. Khoảng
cách về tuổi thọ trung bình là 14 năm nghiêng
hẳn về phía Trung Hoa vào năm 1979. Đến
nay đã giảm xuống còn 7 năm.
Thực ra thì tuổi thọ trung bình là 71 tuổi
tại Trung Hoa còn thấp hơn một vài nơi ở
Ấn Độ, đặc biệt là tại tiểu bang
Kerala. Kerala là một tiểu bang với 30
triệu dân, rộng hơn một vài nước khác.
Kerala đã thành công trong việc kết hợp
nền dân chủ đa đảng kiểu Ấn Độ
(gồm có những thảo luận công khai và sự
tham dự của dân chúng vào sinh hoạt công
cộng), với sự cải thiện về hệ thống
y tế, qua sáng kiến của nhà nước, theo mô
thức mà Trung Hoa đã áp dụng sau thời kỳ
cách mạng.
Ưu điểm của
sự kết hợp này cho thấy, không phải
chỉ đạt kết quả ở phạm vi tuổi thọ
trung bình mà còn ở nhiều lãnh vực khác. Thí dụ như tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong toàn
thể dân chúng tại Trung Hoa chỉ là 0,94, toàn
thể Ấn Độ là 0,93, trong khi tỷ lệ tại
Kerala là 1,6, giống như tỷ lệ tại Bắc
Mỹ và Tây Âu.
Tỷ suất cao này phản ảnh sự sống lâu
của nữ giới khi mà họ không phải chịu
sự trị liệu khác nam giới. Việc giảm
tỷ lệ sinh sản tại Karala cũng nhanh hơn
tại Trung Hoa một cách đáng kể, đặc
biệt là chính sách cưỡng bách kiểm soát
sinh sản.
Cùng lúc với cải cách tại Trung Hoa vào năm
1979, thì tuổi thọ trung bình tại Kerala không thấp hơn Trung Hoa là bao. Tuy nhiên, giữa năm
1995 và năm 2000 (thời điểm cuối mà số
liệu thống kê về tuổi thọ trung bình ở
Ấn Độ có thể cập nhật đưọc), tuổi
thọ của Kerala là 74, cao hơn số liệu
cuối cùng của Trung Hoa là 71 vào năm 2000.
Hơn nữa, từ sau cải cách kinh tế 1979, tỷ
lệ tử vong của trẻ em ở Trung Hoa giảm
một cách chậm chạp, trong khi đó, ở
Kerala, tốc độ giảm cực kỳ nhanh chóng.
Vào thời kỳ cải cách 1979, tỷ lệ tử vong trẻ em
ở Kerala hầu như tương đương với ở
Trung Hoa, 37 phần ngàn. Tỷ lệ đạt được
hiện nay là 10 phần ngàn, chỉ còn một
phần ba so với Trung Hoa. Trung Hoa đã không có những tiến
bộ nào đáng kể trong thập niên vừa qua.
Có
hai yếu tố liên hệ đến vấn đề dân
chủ có thể giải thích được tại sao có
sự tiến triển chậm chạp trong vấn đề
gia tăng tuổi thọ trung bình, mặc dầu
những thành quả phát triển
kinh tế rất tốt đẹp. Trước hết, cải
cách kinh tế 1979 đã loại bỏ mọi bảo
hiểm sức khỏe công cộng miễn phí, hầu
hết dân chúng phải tự bỏ tiền mua bảo
hiểm sức khỏe tư nhân, ngoại
trừ trường hợp chủ nhân đóng bảo
hiểm, nhưng đây là trường hợp rất ít
xảy ra. Việc loại bỏ phục vụ y tế công
cộng quí giá này đã tạo nên một sự
chống đối chánh trị không đáng kể,
hiển nhiên điều này sẽ gây chấn động
nếu nó xảy ra ở một nền dân chủ đa đảng.
Thứ hai, dân chủ và tự do chánh trị không
những tự nó có giá trị, nhưng nó còn đóng
góp trực tiếp vào việc thiết lập chính
sách công, kể cả y tế công cộng, khi
những khuyết điểm của chính sách xã
hội được thảo luận và đầu phiếu công
khai.
Ấn Độ đã cung ứng những cơ sở tiện
nghi y khoa với phẩm chất cao cho những người
tương đối giàu có và người ngoại quốc
đến Ấn Độ để trị bịnh, nhưng dịch
vụ y tế cơ bản tại Ấn Độ vẫn còn
nghèo nàn, điều này chúng ta đã biết qua
những lời chỉ trích mạnh mẽ từ báo chí
Ấn Độ. Nhưng những lời phê bình nghiêm
khắc tạo cơ hội cho chúng ta có dịp sửa đổi. Thực ra, những phúc trình thường
xuyên về sự thiếu sót trong dịch vụ y
tế tại Ấn Độ, và những nỗ lực thu lượm
được để cải thiện, là nguồn gốc về
một thế mạnh tại Ấn Độ. Điều này
phản ánh sự cách biệt trong mức giảm
thiểu đáng kể về tuổi thọ trung bình
tại Ấn Độ và Trung Hoa. Thế mạnh này cũng
phản ảnh được những thành tựu khi
Kerala biết kết hợp sự tham gia dân chủ cùng
với sự quan tâm cao đến các vấn đề xã
hội. Sư nối kết giữa truyền thông công
cộng và chăm sóc sức khỏe được thể
hiện rõ, qua những
hậu quả tai hại khủng khiếp trong việc bưng
bít chung quanh bịnh dịch SARS tại Trung Hoa.
Bệnh dịch này từ lúc khởi đầu từ tháng
11 năm 2002 bị dấu nhẹm đến mùa xuân năm
sau.
Trong khi Ấn Độ đã phải học hỏi rất
nhiều từ chính sách kinh tế và xã hội
của Trung Hoa, thì những kinh nghiệm về thông
tin công cộng và dân chủ của Ấn Độ cũng
đáng cho Trung Hoa học hỏi. Cũng cần nên
nhắc lại là tinh thần vô úy và chống đối
quyền lực thâm nhập vào Trung Hoa qua Phật
Giáo đến từ Ấn Độ. Điều này đã bị
người Trung Hoa phê phán kịch liệt qua
những đợt đầu tiên
đấu tố về Phật
giáo.
Fu
Yi một nhà lãnh đạo Khổng Giáo vào thế
kỷ thứ VII đã dâng sớ với vua Tống để
tố giác Phật Giáo. Thật ra điều này có
một vài sự tương đồng với sự tấn công
vào môn phái Luân Công gần đây:
“Phật
Giáo đã thâm nhập vào Trung Hoa bằng một
hình thái quái dị và man rợ. Điều này ít
nguy hiểm hơn khi từ thời nhà Hán, kinh điển
Phật Giáo được dịch sang Hoa ngữ. Sự
phổ biến kinh sách này đưa đến một
ảnh hưởng thù nghịch là làm thay đổi lòng
trung thành đối với quân vương, lòng tôn
kính cũng giảm đi. Dân chúng bắt đầu có
thói quen bắt tay và không chịu cúi đầu
trước quân vương và tổ tiên.”
Fu
Yi đề nghị không những cấm chỉ truyền
bá đạo Phật mà còn đưa ra phương cách
mới nhằm đối phó với hàng mười ngàn
người hoạt động tại Trung Hoa. “Tôi xin
yêu cầu Ngài bắt hết họ phải lập gia
đình và dạy cho con cái họ sau này gia
nhập quân đội”. Như chúng ta đã biết,
nhà vua, không làm theo cách ấy để loại
trừ sự bất khuất của Phật Giáo.
Với
thành công đáng kể, Trung Hoa đã trở thành
một nhà lãnh đạo kinh tế thế giới, và
Ấn Độ, cũng như nhiều nước khác trên
thế giới đã học hỏi rất nhiều ở quan
điểm này, đặc biệt là trong thời gian
gần đây. Nhưng những thành tựu về sự
tham gia dân chủ tại Ấn Độ, kể cả
tại Kerala, cho thấy rằng Trung Hoa, về
phần mình, cũng có thể học hỏi một cái
gì đó ở Ấn Độ. Thực vậy, lịch sử
của các cuộc thử nghiệm nhằm vượt qua
sự cô lập của Trung Hoa - đặc biệt trong
suốt hậu bán thiên niên kỷ đầu tiên-
vẫn luôn luôn còn thú vị và bổ ích cho
thế giới ngày nay.
Chú thích của người dịch:
1. Gautama Siddhartha, Cồ Đàm Sĩ
Đạt Ta, Chủ tịch Ủy Ban Thiên Văn
Trung Hoa vào thế kỷ VIII không phải là
Đức Phật Thích Ca, vì ngài sinh vào năm
485 trước Công nguyên. Đây chỉ là sự
trùng tên.
2. Quy luật trật tự của
Robert: Đạo luật cuả Robert tại Anh
quốc công bố vào năm 1915, nhằm qui đinh
các trật tự công cộng, đặc biệt các
nội quy trong việc phát biểu ý kiến
tại các phiên họp công cộng.
3. Amartya Sen đã chú thích khá
chi tiết và giới thiệu nhiều tác
phẩm liên hệ bằng Anh ngữ. Tuy nhiên,
có những danh tác bằng Việt ngữ về các
đề tài này, xin giới thiệu một vài công
trình tiêu biểu để bạn đọc tham
khảo:
Võ Đình Cường, Đường Tăng
Tam Tạng Thỉnh Kinh.
Thích Minh Châu, Huyền Trang, Nhà
Chiêm Bái và Học Giả.
Thích Minh Châu, Pháp Hiển, Nhà
Chiêm Bái.
Trần Trúc Lâm, Đại Đế
Askosa Maurya và những pháp dụ trên đá.
Thích Nữ Trí Hải (dịch), Tìm
Hiểu Mật Tông.
Thích Thiện Hoa, Lịch sử
Phật Giáo Trung Hoa và Ấn Độ.
Tất cả sách trên có thể
truy cập qua các địa chỉ:
www.thuvienhoasen.org
www.quangduc.com
|