Những bài cùng tác giả
Người Việt đi du lịch thường nghĩ đến Athenes, Bangkok, Beijing, London,
Moscow, Paris, Roma…thanh lịch và văn minh, thiêng liêng và trí tuệ. Nhưng
vĩ đại quá nên không thuộc về ai.
Châu Úc “riêng một góc trời” rón rén lùi lại đằng sau. Nhưng chính ở đấy,
nhiều tuyệt vời vướng chân khách lữ hành. Những con chim đùa nghịch giấu mỏ
hôn nhau, tóc vàng tươi gót khua vang phố Rocks, khăn lụa trên vai tường vi
cài áo tràn ngập nhà hát con sò Opera House, bên trái hương nồng ngày nắng
Stadium bên phải cánh rừng Tràm rợp mát, bộ ngực tròn trên bãi Bondi cát đẫm
lưng gió cuốn mùi em thơm theo sông chảy tuôn ra bể …
Sydney cuối mùa hoa, Jacaranda man mác tím đẹp như giấc mơ của khách lữ
hành. Người Úc vẫn giữ lấy cảnh quang ngày 29/4/1770 khi thuyền trưởng James
Cook 42 tuổi rời con tầu Endeavour đặt chân lên lục địa. Nơi ông đến, một
bãi biển vắng bóng người, vô số vỏ sò hoá vôi và những nhánh rong biển như
chuỗi ngọc bích vắt ngang hốc đá sóng biển soi mòn. Một đài nhỏ trên bờ nơi
bước chân James Cook đặt lên, ghi tên ông. Những cây bạch đàn thân trắng dọc
theo lối đi quanh co. Bao la và im lặng. Điều kỳ diệu nhất nếu du khách cảm
được trong không gian là tính mạo hiểm của người da trắng và từ đó chạnh
lòng khao khát thêm nhiều chuyến viễn du. Theo vết chân James Cook, người
Anh nhoài ra khỏi thành phố lạnh lẽo sương mù, lướt trên đầu ngọn sóng đi
xây dựng một lục điạ, ngoại trừ tì vết đối xử sai trái với thổ dân, còn thì
cái gì cũng đẹp như vỏ sò Nautilus dù phơi mình trên cát vẫn ôm ấp niềm bí
mật của biển khơi.
Khác Nautilus, người Úc không giữ bí mật. Viện Bảo Tàng Quốc Gia Canberra
trưng bày những tấm ảnh chụp năm 1909 xích thổ dân, chưng cả xiềng xích lẻng
xẻng đã từng xâu cổ dẫn họ đi như súc vật. Những thổ dân này, theo sách vở,
cùng 1 chủng với ngươì Hòa Bình ở VN. Một trăm năm trước, còn đen đúa như
thế, thì sáu ngàn, mười ngàn năm trước, không biết diện mạo con người thế
nào? Nếu thấy “tổ tiên” mình xấu xí thế, không rõ mấy nhà sử học có nhận
không, hay chỉ nhận trống đồng Đông Sơn.
Người Úc cũng giữ lại tên điạ phương, mà âm thanh là lạ làm đôi chân ưa
chuyện mạo hiểm phải ghé thăm. Từ ngàn năm, thổ dân có riêng con đường
Burrawang xuyên qua nơi bây giờ là Kamay Botany Bay National Park. Mảnh rừng
đó cung cấp đồ ăn, dược thảo, dụng cụ và nơi trú ẩn cho thổ dân Gweagal, cây
điạ phương là Banksia, Eucalyptus và Illawarra.
Illawarra còn có tên Christmas tree, gần đến ngày giáng sinh lá hoa và quả
một màu đỏ rực. Viễn khách mải đếm những ngôi nhà bằng gạch nung màu đỏ, mái
ngói cũng đỏ thấp thoáng dưới hoa, tự hỏi mái nhà ấy đã ấp ủ bao mảnh đời ly
xứ, bao chuyện tình đổi trao, để từ một nơi nhốt tù, Úc trở thành một lục
địa an bình nhất trên thế giới? Nơi nào khí hậu cho phép cả hai cây rụng lá
và trổ hoa một lượt, người Úc trồng xen kẽ Illawarra và Jacaranda, mỗi năm
từ tháng 10 đến tháng 12, thiên nhiên tô hai màu đỏ và tím, một tương phản
vô cùng diễm lệ in trên nền trời xanh trong vắt, một trời chỉ mù mịt khói
khi có cháy rừng. Các chuyên viên thời tiết say công việc như say huyền
thoại tình yêu, thường xuyên báo tin về cấp gió, cấp bão, nồng độ Carbon
monoxide, Nitrogen dixoxide…đôi khi cũng bối rối vì trời đất Sydney cũng
giống phụ nữ: một ngày hè nhưng có tới bốn mùa, thoắt lạnh thoắt ấm, thoắt
nắng thoắt mưa, cách vài km nắng chang chang, trên núi có tuyết rơi.
 
Trời cho xứ Úc cây bạch đàn Eucalyptus, cho luôn hai em kangaroo và kaola ăn
lá Eucalyptus. Hai con vật này tuy vậy không được kể như chó mèo. Người Úc
hiếm thi sĩ nên không có anh trai khói lửa nhớ nhà dắt chú kangaroo lang
thang châm điếu thuốc khói um đường phố. Họ thực tế, biến kangaroo thành kỹ
nghệ du lịch và lấy thịt. Thịt kangaroo gần giống thịt bò, sớ mềm nhưng hơi
kém vị, dẫu vậy kangaroo-steak cũng giúp đời di tản đỡ buồn khi bận bịu nhai
nuốt. Không ai nói tới ăn thịt kaola, chắc tại nó nhỏ xíu dễ thương dành cho
mấy cô bé dưới 10 tuổi hôn môi chụp hình, cả hai đứa cười toe toét. Không
thấy các cô lớn hôn kaola. Chắc các cô dành đôi môi san hô cho người khác.
Miền Nam mình gọi bạch đàn là khuynh diệp, loại làm dầu Bác Sĩ Tín trước
1975, có lẽ lúc đó trồng tại thành phố sư tử-Singapore. Ở VN giờ không rõ có
trồng làm cây kỹ nghệ chưa? Dầu BS Tín phổ biến tới nỗi nhà nào cũng có vài
lọ. Báo hại quí bà quí cô nhè Channel số 5 cũng theo thói quen quẹt ngang
mũi. Về sau này có dầu gió xanh “hiệu Con Ó” rất phổ biến ở VN, cũng làm từ
Eucalyptus Singapore, leo lên xe đò về miền Tây nực mùi dầu con Ó giống như
vào nhà bảo sanh.
Nhà thảo mộc học Joseph Banks, người Anh, đến Australia một lượt trên tàu
Endeavour với James Cook năm ông 27 tuổi. Joseph Banks và Daniel Solander,
người Thụy Đìển, liệt kê/phân loại tới 132 loại cây trong đợt đổ bộ Kamay
Botany Bay, đặc biệt giới thiệu với phương Tây cây Eucalyptus, Mimosa,
Acacia và Banksia. 11 năm sau, Banks đuợc trào đình Anh phong nam tước.
Người Úc có vẻ ái mộ Banks, nên ngoài đặt tên cho cây Banksia, Sydney còn có
Bankstown, Café Banksia, Banksia Adventures, Banksia Railway Station…Người
xa nhưng hoa lá còn ở lại, vài cánh hoa khô, lá ép của họ còn trưng bày ở
National Herbarium/Sydney. Banksia chiụ được khô hạn, mọc chen với đá tảng.
Ở Úc, vào mùa khô, nắng rọi lá khô làm thành cháy tự nhiên, hạt Banksia nhờ
cháy, nứt mầm cho thêm những cây con. Hạt khô Banksias là nguồn thức ăn cho
chim, thỏ, sóc, dơi, ong…Cành Banksia ở tiệm hoa cho những bó hoa mạnh khoẻ
nhờ nhiều mầu chói lọi và thân cứng.
Ngươì Úc có thói quen tốt cuả ngươì da trắng: đánh giá và giữ gìn những gì
thuộc về môi trường hay quá khứ. Năm 2000, công trình Olympic Stadium đang
xây dựng phải ngưng ngang và chuyển hướng vì khám phá ra một hồ nước có loài
Green Frog, đang trên đà tuyệt chủng, sinh sống. Hồ đuợc khoanh vùng, bảo vệ
cẩn mật. Nước hồ thức ăn cỏ hoa tạo điều kiện sinh thái cho mấy chú chàng
Green Frog chỉ chuyên viên mới đuợc phép xuống. Trên mặt hồ, du khách tò mò
dạo trên Ring Walk, có vòng tròn 550 mét cao hơn mặt hồ 18 mét, nhìn xuống
dưới hồ tìm kiếm vô vọng mặt nước xao động may ra có 1 chú nhái màu xanh.
Tính giữ gìn bản sắc của người Việt ở Úc tỉ mỉ và sâu lắng ăn vào kẻ tóc
chân tơ, có thể chính người trong cuộc cũng bất ngờ, không hề đặt câu hỏi
xem lòng mình đã biến tan chưa hay vẫn giữ làn hơi ấm cũ. Tượng Phật, tranh
Đông Hồ, tranh sơn mài, vài cụm bạc hà dấp cá ngò gai tía tô húng quế húng
cây… Cây ăn trái không bưởi cũng chanh không hồng cũng khế dù lâu lâu dối dá
qua loa về VN nếm khế ngọt khế chua nhà hàng xóm.
Khu Cabramatta-Little Asia có nhiều cửa tiệm người Việt. Đủ thứ hoa quả như
chợ Long An. Nếu rau trái có linh hồn sẽ hết sức vui khi hiểu ra có những
người lái xe gần tiếng đồng hồ chỉ đến ngó màu xanh khổ hoa màu tím trái cà
màu đỏ trái ớt…Không hay trong lòng có nỗi nhớ không tên gượng cười “nấu bậy
tô canh ăn cho nó mát”. Xoài chín hột vịt lộn chuối sứ hiệp màu tô đậm bức
“Quê Nhà”. Quầy bán chè đủ món cứ như má nấu ở nhà, chè đậu chè chuối cốm
dẹp nước dừa cho những tấm tha hương mượn chút ngọt ngào. Ở Cabramatta, tiệm
ăn Hương Xưa có món Mì Quảng ngon hơn Mì Quảng Đà Lạt, bánh dẻo rau thơm
nước dùng ngọt, có lẽ vì tôm cua tươi.
Những thức ăn tưởng là lặt vặt nhưng sắm vai cây Tràm cây Đước thời khai
sinh Nam Bộ, Sơn Nam mô tả trong Hương Rừng Cà Mau, lãnh trọn khó khăn giữ
đất bồi nơi nước ngọt nước mặn gặp nhau khó cây nào sống nổi. Ở Cà Mau hiện
nay, “rừng Tràm vàng” biến thành “rừng Tràm nghèo”: vỏ cây Tràm xuất cảng
sang Trung Quốc làm giấy giá rẻ rề, nông dân mình trồng Tràm bậm môi nuốt
nước mắt thay cơm. Cây Mangrove/Tràm ở Úc vừa làm kiểng vừa giữ gìn môi
sinh, giữ vững bờ biển, nguồn cung cấp cá nước lợ. Gìữa lòng Sydney Olympic
Park, con đường Tràm thơ mộng Mangrove Boardwalk quanh co bên sông
Parramatta, in hệt mấy lối mòn lá nâu vàng miền Mid-West bên Mỹ cuối thu.
Giữa xanh thẳm Mangrove ngàn chim nước ríu rít cất khúc thanh ca, vỗ về tâm
hồn bận rộn mấy giọt nghỉ ngơi. Chim chóc xứ Úc còn giữ tánh nguyên sinh,
dạn dĩ tới sát xin ăn. Chim đủ màu, đầu và gáy màu đen ngực đỏ chói cánh
xanh. Chim chào mào rủ nhau tắm nắng, chim sáo dắt tay nhau chạy dưới mưa.
Có loài chim tên Laughing Kookaburra, dài tới 42cm, chuyên viên bắt cá,
tiếng kêu như tiếng cười cốt nhắc nhở mấy bồ khác về không phận “xin miễn
oanh tạc, vượt qua binh sĩ sẽ nổ súng”.
Biển Úc nước ấm, mỗi năm cá mập trốn lạnh tung tăng cả trăm con không mấy xa
bờ. Cá sông cá biển, ăn ở nhà hay nhà hàng đều ngon hơn cá… đông lạnh. Miếng
cá chắc, ngọt và không có vướng mùi tanh. Tôm Sydney tươi rói, làm món pò
pía gỏi ngó sen hay gỏi cuốn ăn đâu mát đấy. Tiệm ăn Úc thịnh hành món Fish
& Chips chiên bột giòn tan. Món này bị tuyệt chủng ở Mỹ. Dân Mỹ khoái thịt
bò, tay cầm thuốc cao máu tiểu đường rưng rưng hai hàng lệ thảm tay kia bốc
hamburger nhanh như gió cuốn. Sydney tháng 12, giá tôm càng lobster đang từ
$40/kg, thình lình xuống 20, rồi 15, vì Trung quốc khi không xoá hợp đồng
nhập cảng. Anh Hai chi tiền lâu lâu làm khó bà con. Hèn chi mấy nước có buôn
bán với Trung quốc lo canh chừng thị trường, lờ béng món nhân quyền, thỉnh
thoảng bấm nút cho sinh viên non tay ấn hay nghị viên dân biểu mỵ dân, biểu
tình cho vui đời … dân chủ-khoa học giả tưởng. Anh Hai không mua chừng nửa
năm, ắt bỏ mạng sa tràng lấy kho đâu mà chứa, chưa kể ảnh hưởng dây chuyền.
Đi đến đâu cũng nghe tin vui giữa giờ tuyệt vọng. Tinh thần ăn uống lên cao.
Nhà nhà gọi nhau mời mọc, tình lân lý nghĩa… tôm càng. Quí ông tử vi có sao
Nấu Nướng chiếu mạng nhân dịp trổ tài “tay ngọc bếp hồng”. Ngọc thật hay
ngọc giả, lobster vẫn ngon như chưa ngon thế bao giờ.
Người Việt ở Sydney có đôi điều hơi khác. Ở California, quí bà lái xe quí
ông ngồi cạnh tỉnh bơ là thường. Ở Sydney, “ông lái bà la”, chỉ trỏ khan
tiếng, nhưng quí ông không bao giờ mất mặt ngồi cho đàn bà lái. Mà họ lái
rất giỏi, có nghĩa không làm người ngồi bên nghiến răng ken két vì sợ hãi,
dù đường sá Sydney lái bên trái, vòng vèo như sắp leo lên lề, khiến lâu lâu
tái xế đi lạc nẻo niết bàn, vòng tới vòng lui như Lục Vân Tiên cõng mẹ đi ra
đụng phải cột nhà cõng mẹ đi vô. Quan sát bãi đậu xe, thấy đa số bác trai
thuộc chi chủng “Thong Thả Đi Ra Cửa”. Chàng xuống xe, rút chìa khóa đút
túi, anh dũng đi thẳng một lèo “đường ta ta cứ đi nhà ta ta cứ xây ruộng ta
ta cứ cầy…” Không mở/đóng cửa xe, không cầm tay, không chờ đợi, không ngừng
lại, không dắt qua đường, không giúp khoác áo, không để tay lên eo ếch,
không bỏ valise lên/xuống xe, cũng không quay laị xem có cần giúp vợ/đào/chị
em/bạn gái/con gái khiêng vác bao lớn bao nhỏ. Nhiều khi đi xuống thang
cuốn, quay lại không thấy khúc xương suờn chạy theo, chàng cũng không nhăn
nhó. Ung dung chàng nhịp chân hát hết liên khúc mùa thu; hay vừa thiền vừa
ngó tóc vàng nhún nhảy trên hè phố mà không cần phải đến thiền viện mắc mỏ
như ở California. Quí ông đóng tròn vai chủ gia đình lương hảo, “family
man”, sửa gara sửa nhà lót gạch thay ngói sơn tường… Không biết ít nhiều có
giống quí Việt kiều bên Mỹ, đa số thuộc đại chủng “Đang Sửa Lăn Ra Ngủ.”
Nếu quí ông hồn nhiên thiền, quí bà tự tin qua cách ăn mặc còn vương nét “y
phục xứng kỳ đức”. Trang điểm nhẹ nhàng, giờ nào áo đó, không thấy đeo kim
cương 2 carat ra hồ bơi, hay xách ví Louis Vuitton 3 ngàn đi chợ mua mắm tôm
mắm ruốc. Sự đơn giản này có thể do môi trường sống: Sydney quen tiết kiệm.
Chỉ được tưới cây 2 ngày 1 tuần; nhà nào cũng có giây phơi quần áo; chỉ dùng
máy sấy khi trời mưa liên tiếp; chính phủ đang tài trợ chương trình Solar
System dùng năng lượng mặt trời, bàn cầu có 2 nút, nhấn phân nửa hay toàn
thể số lượng nước tuỳ nhu cầu. Ý kiến này tuyệt hay, không hiểu sao những
tiểu bang khô hạn như California, Arizona, Las Vegas… ở Mỹ thích xài đã
điếu, rồi cha con mếu máo khai vỡ nợ, dân biểu nghị sĩ hy sinh làm thinh cho
chắc.
Người Huê Kỳ ưa làm nhiều quả bất ngờ làm dân Úc bảo thủ ngạc nhiên. Tháng
11, ngoại trưởng Hillary Clinton qua thăm Melbourne. Bà làm con sò Opera
House trố mắt khi nhận xét về Vegemite, món bơ mặn người Úc ăn mỗi ngày “Các
bác trét Vegemite vô chi cho hư cả bánh mì”. Tháng 12, Oprah Winfrey cùng
tùy tùng từ Mỹ sang Sydney hô hào bà con du lịch Úc Châu. Oprah ký ngay chi
phiếu $250.000 tặng gia đình Kristian Anderson bị ung thư. Oprah còn tuyên
bố sẽ cung cấp máy computer cho toàn thể học sinh thầy giáo. Nói về tính bảo
thủ, không thể không nhắc tới đầu thế kỷ 20, tiêu chuẩn được làm công chức
của Úc vẫn phải là “da trắng/theo Tin Lành” (White Anglo-Saxon Protestant,
viết tắt là WASP). Cho đến những năm 1960, giới "thượng lưu" hầu hết là
WASP. Người theo Ki-tô La Mã bị kỳ thị trong ngành hành chính và nhiều ngành
khác. Từ 1940-50, chính phủ (liên bang/tiểu bang) mới bắt đầu tuyển người
Ki-tô Irish làm công chức. Đảng Lao Động/đa số thành viên Ki-tô giáo lần đầu
cầm quyền năm 1910. Từ 1970-80, nhiều sắc dân nhập cư khiến nước Úc có bộ
mặt “đa văn hóa”. Nhiều luật chống kì thị ra đời, các ngành nghề không phân
biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính…Tuy vậy, ở Sydney không thấy đón giáng
sinh tưng bừng. Cuối tháng 12, thấy mỗi một căn nhà trang hoàng giăng mắc
đèn đóm. Sự bảo thủ còn thấy ở đám học sinh tiểu học trung học mặc đồng phục hết sức
dễ thương, quần xanh aó trắng, váy trắng áo hồng… có thêu huy hiệu từng
trường. Lên đại học, các em gái nhí nhảnh mới mặc váy mini/maxi-sandal La
Mã, thiên thần trên trời thở dài muốn xuống làm người trần gian. Các nữ sinh
viên Sydney có vẻ nữ tính hơn sinh viên những thành phố bên Mỹ, ngay cả
Boston, ưa quần Jeans, trông bụi đời nhưng thiếu vẻ mềm mại.
Dùng xe điện đi Pitt Street Mall, du khách tấp nập. Chỉ một đọan đường ngắn
có tới 600 cửa hàng lộng lẫy. Trước đây đa số du khách Á Châu là người Nhật.
Nay người Trung Hoa thay thế, mua sắm linh đình. Trong tủ kíếng nữ trang bày
một viên ngọc trai cực lớn, khoảng 16mm, màu vàng đậm cực hiếm như vàng 22
karat, loại Golden South Sea Pearl, ngọc trai nước mặn tỏa màu ngũ sắc nước
bóng êm như lụa có thể soi như soi kiếng. Ngọc màu vàng được cấy từ loaị sò
Gold-Lipped Pinctada Maxima. Viên ngọc trai này có thể từ Broome, trại nuôi
sò rất nổi tiếng của Úc nhưng trên thị trường ít nghe tên. Giá có thể từ
$6,000-10,000 nếu do sò tự nhả nước dãi - trong phản ứng tự vệ chống lại vật
lạ (tức là một hạt xà cừ 6 hay 8mm) do người ta cấy vào thịt chúng - trong
vòng từ 10 đến 12 năm, hoặc $300 nếu được các chuyên viên trong phòng thí
nghiệm sơn bằng tay cũng với nước dãi con sò, đại khái giống như quí bà sơn
móng tay, lớp này chồng lên lớp khác.
 
Xuân thì mua sắm nữ trang thích chọn Mikimoto, Tahitian Pearl và South Sea
Pearl. Tất cả là ngọc nhân tạo. South Sea Pearl thường màu trắng, lớn hơn
10mm, do năm nguồn cung cấp: Úc-Indonesia-Myanmar (Burma)-Philippines và
Papua/New Guinea). Úc cung ứng nhiều nhất, với doanh số bán AUS$200 triệu/1
năm. Úc và Bahrain (vịnh Ba Tư) là hai nơi cuối cùng trên thế giới còn tìm
thấy ngọc trai thiên nhiên. Năm 1930, nước vịnh Ba Tư bị kỹ nghệ dầu hoả làm
ô nhiễm, tiêu diệt cả loài sò. Vì vậy, Úc là nơi duy nhất còn có ngọc trai
thiên nhiên. Nhưng trong hàng trăm hay ngàn con sò, may ra mới có 1 con có
ngọc. Quí bà nội trợ mua sò làm món ăn nên coi kỹ, biết đâu! Dù không đủ
tiêu chuẩn làm nữ trang, cũng là một bất ngờ lý thú. Nếu bị nấu sôi, viên
ngọc trai hư hoàn toàn không cứu chữa được.
Museum khoe Opal là loại đá quí được Úc công nhận là đá quốc gia. Opal có độ
cứng Mohs từ 6-6.5, so với kim cương 10. Opal đặc biệt hơn hết thẩy
gemstones ở chỗ có đủ màu sắc vô cùng lộng lẫy, từ xanh như Jade, tím như
Amethyst, trắng như Moonstone, đỏ như Ruby, xanh như Saphir, từ trong suốt
đến đặc. Tuy nhiên, hình như người Việt không có duyên với opal, cho rằng
…xui. Một suy nghĩ rất huyền bí Đông Phương, có nghĩa… miễn bàn.
War Memorial ở Canberra không chỉ là một bức tường ghi tên tử sĩ như ở
Washington DC. Nơi đây trưng bày hình ảnh của quân nhân Úc tham chiến cạnh
Đồng Minh suốt từ Chiến Tranh Lạnh 1946 đến bây giờ… Địa đạo, súng đạn, tóc
bết máu, tập vở rách nát, dao nĩa gẫy gục… Một bức tượng gây xúc động, ngườì
lính mình mẩy toàn bùn, tạm nghỉ bên chiến hào gục đầu vào hai tay. Đôi bàn
tay tạm sạch nhờ rửa vào vũng bùn đặc quánh kế bên. Kích thước bằng người
thật, nhọc nhằn cũng thật và hy sinh cũng thật. Từ Flanders, chiến trường và
nghĩa trang tử sĩ biên giới Pháp/Bỉ thế chiến I, những bông hoa poppy màu đỏ
thắm nở đầy. Tin rằng hoa thắm máu người vừa giã từ vũ khí, Đồng Minh chọn
poppy cho ngày tưởng nhớ. Người lính John McCrae chứng kiến cái chết đồng
đội 22 tuổi, lặng lẽ khóc bạn, bài thơ “In Flanders Fields” viết tay nắn nót
trong tập vở. Xin dịch thoát “Bạn ơi, từ tối đêm khuya đến đầu sương
sớm-Mình đã sống. Rồi mình sẽ mãi nằm xuống nơi bến Flanders-Dù mình đang
yêu và cũng được yêu”. Có 520 quân nhân Úc tử trận tại chiến trường VN từ
1962-1975. Ở VN, tính cho đến ngày hôm nay, đài Kỷ Niệm Chiến Sĩ Trận Vong
do quân nhân Úc dựng tại đồn điền cao su Long Tân là đài duy nhất còn được
VN lưu giữ, dù ở đâu cũng vậy, chỉ lính là người mỏi mệt nhất và chết đúng
nghĩa “hy sinh” nhất. Nobel Văn Chương 2005 Harold Pinter đau đớn hỏi “Có ai
hôn xác chết, có ai vuốt mắt cho xác chết, có ai chôn xác chết?” Trả lời
ông, trên hồ nước, một ngọn lửa loang loáng cháy suốt ngày đêm, tượng trưng
linh hồn tử sĩ không bao giờ diệt.
So ra trong trăm ngàn gặp mặt rồi chia tay, trên bến nước nhân gian nghiêng
mình ngắm nghía kẻ ở người đi tô vẽ trăm điều não nuột. Sao không đơn giản
yêu lấy cả hạnh ngộ lẫn chia ly? Để dành “Con thuyền ngọn gió chia phôi. Bạc
đầu sóng bạc đầu người ra đi” cho những người chiến sĩ.
Tạm biệt Sydney. Tạm biệt Jacaranda. Hẹn ngày này. Năm nao? Ai nào biết?
--------------------------------------------------
Trần Thị Vĩnh-Tường Cuối mùa hoa Jacaranda tháng 12/22/2010, Sydney

|