Những hồi ức về bệnh đậu mùa

Vietsciences-Võ văn Lượng              03/07/2010

 

Những bài cùng tác giả

Viết theo tài liệu của quyển “Diseases and Human Evolution” cuả Ethne Barnes. University of New Mexico Press, 2005

Vào tháng năm 1980,Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chính thức tuyên bố rằng bệnh đậu mùa đã được thanh toán. Tuyên bố này được đưa ra sau trường hợp cuối cùng mắc bệnh đậu mùa tự nhiên được ghi nhận tại Somalia, châu Phi vào tháng 10 năm 1977. WHO đã khép lại trang sách về bệnh đậu mùa sau khi triển khai các chiến dịch tiêm chủng rộng rãi và kiểm soát dịch tễ học tích cực từ 1967 đến 1977. Do bệnh đậu mùa không còn được coi là một mối đe dọa cho nhân loại, cho nên việc tiêm chủng chống lại bệnh này cũng ngừng theo.

Vào năm 1966, vùng Tây Á là nơi chủ yếu tập trung những khu vực chính có bệnh lưu hành cuối cùng. Các quốc gia nằm trong diện này là Bangladesh, Ấn độ, Nepal, Pakistan và Afghanistan. Các ổ lưu hành khác tồn tại tại nhiều nơi ở châu Phi và Indonesia. Vào năm 1976, chỉ còn sót một số vùng nông thôn tại Ethiopia và Somalia là những nơi cuối cùng phải thanh toán bệnh đậu mùa.

Trận dịch chính cuối cùng tại châu Âu xảy ra tại vùng Balkan vào năm 1972, vốn do khách hành hương Hồi giáo mang về từ Mecca (. Bệnh đậu mùa đã không còn ở nước Mỹ từ năm 1949, và ca bệnh cuối cùng biết được tại châu Mỹ xảy ra vào năm 1971 tại Brazil.

Virus gây bệnh

Tác nhân gây bệnh đậu mùa là virus variola, một trong nhiều virus đậu (pox virus) đã từng gây nhiễm cho nhiều loài động vật khác nhau hàng ngàn năm qua trên thế giới. Đây là nhóm virus gây bệnh lớn nhất và phức tạp nhất, có hình dạng như 1 viên gạch hoặc hình elip cổ điển với 2 chuỗi DNA. Khác với đa số các virus DNA là tăng sinh bên trong nhân của tế bào ký chủ, virus đậu tìm cách sao chép bên ngoài nhân tức là bên trong tế bào chất của tế bào bị nhiễm. Virus cởi bỏ lớp vỏ bọc kép khi chui vào tế bào ký chủ, và sau đó từ tốn bắt đầu hấp thu các chất dinh dưỡng chọn lọc cần thiết cho sự sao chép từ tế bào chất bên ngoài. Các hình thể sao chép của virus xuất hiện dưới dạng các khối tí teo hoặc thành các di nhỏ như sợi chỉ rải rác trong tế bào chất của tế bào bị nhiễm. Các cụm virus đậu mùa khi đang sao chép thường tóm bắt bất cứ vật chất nào kế cận, kể cả những virus khác như Herpes simplex, kéo vào bên trong cấu trúc của mình. Các cụm virus lúc nào cũng di chuyển bên trong tế bào chất khi chúng tăng sinh và sao chép.

Có nhiều khả năng là virus variola phát xuất từ 1 quần thể động vật, và khi có cơ hội thuận tiện chúng nhảy sang loài khác để thích ứng với con người. Họ hàng gần gũi nhất đối với virus ở người, có khả năng gây nhiễm cho người là 1 pox virus tương tự được phát hiện trong tự nhiên trên loài khỉ tại vùng Tây Phi. Virus đậu khỉ (monkey pox) có thể gây nhiễm rải rác cho người. Bệnh đậu khỉ có triệu chứng tương tự như đậu mùa thể nhẹ. Đôi khi bệnh có thể lây truyền từ người sang người, nhưng đúng ra bệnh ở người chủ yếu là do tiếp xúc gần gũi với khỉ bị nhiễm. Các nghiên cứu về virus bệnh đậu khỉ trong tự nhiên cho thấy rằng loài sóc sống thành từng bầy trong các vườn cọ lấy dầu quanh các làng mạc vùng Tây Phi cũng mang virus, cho thấy rằng loài này cũng có thể là ổ chứa chính. Do virus bệnh đậu mùa và bệnh đậu khỉ quá giống nhau khiến cho người ta nghĩ rằng virus variola nguyên thủy có thể phát xuất từ 1 biến thể của virus đậu khỉ.

Virus variola là 1 tác nhân gây bệnh chớp nhoáng truyền bệnh từ người sang người. Virus này không những chỉ phát triển mạnh trong các quần thể dân cư lớn, đông đúc, mà còn có thể tồn tại trong những nhóm dân cư nhỏ chen chúc tại nông thôn. Không có tình trạng người mang virus nhưng không có triệu chứng. Khi virus gây nhiễm cho người nào, hoặc là chúng sẽ khống chế hệ thống miễn dịch để tạo ra bệnh, hoặc là bị hệ thống miễn dịch tấn công và tiêu diệt. Virus chỉ có thể lây truyền sang người khác khi triệu chứng xuất hiện. Đám virus lúc nhúc được phóng thích thông qua các hạt ẩm nhỏ từ đường hô hấp trên, từ các mụn mủ ngoài da, hoặc từ các vẩy da khô tróc ra khi mụn mủ lành miệng. Khi bệnh hồi phục, tình trạng miễn dịch sẽ tồn tại suốt đời. Khi không còn nạn nhân nào để tấn công, virus sẽ tàn lụi vì số người trong quần thể đều đã nhiễm hết.

Virus gây nhiễm cho ký chủ bằng đường hô hấp đi vào phổi. Phần lớn các trường hợp nhiễm là do tiếp xúc gần gũi với người bệnh. Virus được lây truyền qua không khí khi người bệnh ho hoặc hắt hơi tống virus từ họng và miệng ra ngoài. Các mụn vảy khô và mụn mủ ngoài da làm cho khăn trải giường và quần áo vấy nhiễm virus. Đập giũ đồ vải có thể làm cho virus phát tán vào không khí. Virus có thể tồn tại trong các chất sống lơ lửng trong hạt bụi của các vẩy mủ khô trong nhiều năm, có khi hàng thế kỷ, trong điều kiện không tiếp xúc ánh nắng và nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp. Người ta ngờ rằng trong một số trường hợp ruồi có thể là tác nhân mang virus từ các mụn chảy mủ ngoài da đến mô mũi. Tuy nhiên do virus phát tán, cho nên nhiễm trùng chỉ xảy ra khi có sự tiếp xúc thân cận với virus. Vì lẽ virus nhạy cảm với ánh nắng và nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, cho nên virus chỉ quanh quẩn nơi ký chủ mà thôi.

Cũng như các tác nhân gây bệnh khác, trên thế giới virus variola có nhiều chủng khác nhau, tùy theo độc lực mà gây ra các thể bệnh từ nhẹ đến nặng. Trong cùng một quần thể dân cư thường hiện diện bệnh đậu mùa cả thể nhẹ nặng lẫn thể nhẹ.

Bệnh đậu mùa

Khi virus xâm nhập vào phổi, chúng chui vào các hạch lymphô kề cận, tại đây chúng lặng lẽ tăng sinh trong các tế bào bạch huyết trước khi phát tán vào máu. Đây là thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài từ 10 đến 14 ngày. Bắt đầu có triệu chứng khi virus theo dòng máu đến tấn công các tế bào biểu mô. Đó là tế bào da, tế bào niêm mạc miệng, mũi, họng, thanh mạc lót các nội tạng. Người bị nhiễm vô ý mang virus đi khắp nơi trong giai đoạn ủ bệnh, nhưng họ chỉ trở thành nguồn truyền nhiễm khi các thương tổn đậu mùa phát triển trong các mô nội mạc.

Đáp ứng miễn dịch gây viêm của ký chủ, cũng như thương tổn trực tiếp do virus gây cho các tế bào bị tấn công mới làm cho xuất hiện các triệu chứng. Các tế bào bị nhiễm phồng lên và sau đó chết đi do tiến trình sao chép của virus tàn phá. Từ đó hình thành 1 thương tổn thoái hóa sau viêm khi hệ thống miễn dịch bắt đầu tu sửa các tổn thương và ngăn chặn tình trạng nhiễm.

Các tế bào viêm cô lập thương tổn khỏi lớp mô nằm bên dưới và tiến trình sửa chữa nơi bị hủy hoại kéo dài khoảng 2 tuần. Thương tổn chứa các virus còn sống lẫn chết cùng với các tế bào miễn dịch tham gia tiêu diệt virus cọng với thanh dịch rỉ ra tại chỗ. Khi các mô bên trong thương tổn chết đi, thương tổn tróc ra, để trơ ra lớp mô tái tạo nằm bên dưới. Các thương tổn ngoài da ra khi bị khô, tạo nên lớp vẩy đen có chứa virus, rồi sau đó lớp vảy đen cũng tróc đi. Các thương tổn trên niêm mạc miệng luôn bị ẩm ướt, làm cho nước bọt và dịch tiết màng niêm đều bị vấy nhiễm virus còn sống.

Có người hệ miễn dịch tấn công và tiêu diệt virus trước khi chúng có thể phát tán theo dòng máu. Những bệnh nhân này chỉ có sốt, ngoài ra không có triệu chứng nào khác. Trong phần lớn các trường hợp nhiễm, virus tìm cách lan tràn ra khắp cơ thể trước khi hệ miễn dịch phản ứng. Các phản ứng miễn dịch cầm cự với bệnh trong nhiều ngày. Một số người bệnh kém may mắn không thể huy động đủ đáp ứng miễn dịch cho nên bị tử vong vì virus khống chế toàn bộ cơ thể.

Khi virus phát tán theo dòng máu, nhanh chóng xuất hiện các triệu chứng toàn thân như sốt, nhức đầu dữ dội vùng trán, đau nhức cơ khớp, đau lưng dữ dội,và đôi khi kèm theo nôn ói.Giai đoạn này kéo dài từ 4 đến 6 ngày, đôi khi bị nhầm với sốt Dengue.

Người bệnh nào không có đủ đáp ứng miễn dịch sẽ chết trong vòng từ 24 đến 36 giờ sau khi virus phát tán theo máu. Nếu sau 48 giờ đầu vẫn còn sống, thì toàn bộ phần da ở mặt, cánh tay, thân mình và 2 đùi đều chuyển sang đỏ khi virus khống chế cơ thể. Sau 3 ngày, da mặt chuyển sang màu đỏ như mang mặt nạ. Người bệnh vật vã, thất thần, kêu khóc từng hồi vì các cơn đau ở ngực, lưng và bụng. Đau là do xuất huyết nội khi các thương tổn mọc lên rồi gộp lại bên trong lớp thanh mạc bao bọc các nội tạng. Nhiều vùng da bên ngoài và niêm mạc miệng chuyển sang màu đen đậm phía trên nhưng ở dưới lại chảy máu. Tử vong xảy ra trong vòng 48 giờ sau khi có xuất huyết.

Những thể bệnh nặng cũng xảy ra khi đáp ứng miễn dịch kém, không đủ sức kiểm soát tình trạng nhiễm trùng. Xuất huyết dạng chấm, gồ lên có thể hiện ra trên mặt, cổ, ngực, lưng và cánh tay trong vòng vài ngày sau khi triệu chứng xuất hiện, kèm theo các thương tổn trên niêm mạc miệng và họng. Người bệnh bị bức rứt nhiều và thao láo. Các thương tổn trên mặt dồn gộp lại tạo thành những mảng đỏ sáng giống như bị dộp nắng nặng hoặc bỏng da. Cũng có thể bị chảy máu ở mũi và ở 2 bên mép bị sưng. Khoảng ngày thứ 7 hoặc 8 các thương tổn trong miệng và họng mọc nhiều thêm khiến cho việc ăn uống và nói năng trở nên khó khăn. Ban ngày người bệnh ngủ gà, còn ban đêm lại thao thức. Vào khoảng ngày thứ 10 toàn thân đều phủ các thương tổn dạng bóng nước, một số có máu bên trong. Xuất huyết vào các cơ quan nội tạng, và dần dần người bệnh tỏa ra một thứ mùi bệnh hoạn đặc trưng cho bệnh đậu mùa. Các thương tổn ngoài da gộp lại thành từng mảng lớn như bị dộp gây sướt rất đau khi chạm phải giường chiếu. Tử vong thường xảy ra vào ngày thứ 8 đến ngày 15. Chỉ có 20-30 % bệnh nhân có đáp ứng miễn dịch kém sống sót mà thôi, và để lại trên da những vết sẹo xấu như bỏng điển hình của bệnh đậu mùa.

Phần lớn các đáp ứng miễn dịch chậm đối với virus đi theo một diễn biến chung gồm các giai đoạn của bệnh có thể dự đoán, và đa số các trường hợp đều hồi phục. Theo sau giai đoạn khởi đầu khi virus theo dòng máu lan tràn khắp cơ thể, người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn và muốn quay trở lại làm công việc thường ngày. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đầu của bệnh. Sau thời gian lui bệnh khoảng 3 ngày, lại xuất hiện ở mặt, cổ, ngực, cẳng tay và lưng những đốm ban màu đỏ nhạt, tròn kích thước đầu mũi kim, sau đó ban lan lên da đầu, lòng bàn tay, bàn chân, chân. Những tổn thương loét trong miệng và họng hình thành tạo nên một thứ mùi đạc trưng của bệnh đậu mùa. Lớp thanh mạc của các nội tạng cũng bị thương tổn. Loét cũng có thể xuất hiện trên lớp niêm mạc ở mũi, mắt, âm đạo và lỗ sáo niệu quản. Trong vòng 24 giờ, ban rộ lên dày hơn và to hơn, chuyển sang dạng sẩn đỏ.Sau khi ban nỗi lên 3 đến 5 ngày, phần lớn những chỗ sẩn đều có mủ hoặc dịch, rồi chuyển thành túi mủ nhỏ (pustules) có cái lớn đến 2cm đường kính, bên trong chứa đầy virus. Túi mủ lúc đầu có màu xám trong sau đó chuyển sang màu vàng. Mặt của người bệnh lúc này sưng dày lên, nhiều thương tổn gộp liền với nhau. Từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 10 sau khi ban xuất hiện, các bóng mủ bắt đầu xẹp đi và vỡ ra trong vòng 2 đến 3 ngày. Chất mủ bên trong các tổn thương trên da khô dần tạo thành lớp vảy cứng khô đen. Các tổn thương trên niêm mạc trong miệng, họng và các thanh mạc cũng lành miệng dần. Vào khoảng ngày thứ 14, vảy mủ trên mặt, sau đó là từng mảng trên thân bong đi trong vòng 6 ngày,ngoại trừ những tổn thương ăn sâu trong các vết chai ở lòng bàn tay và lòng bàn chân cũng tróc đi nhưng chậm hơn nhiều. Cứ 4 đến 6 ngày một lần trong vòng 1 tháng,lớp da bên dưới vảy trồi lên rồi tróc đi, dần dà để lại một vết sẹo lõm. Người bệnh thường bị rụng tóc vĩnh viễn, vì các hành lông (hair follicles) bị sẹo. Lông mày và lông mi cũng có thể bị mất.

Những thể bệnh đậu mùa nhẹ hơn là do những chủng virus variola có độc lực yếu hơn gây ra, các chủng này có thể cùng lưu hành với các chủng có độc lực mạnh hơn. Các thể bệnh nhẹ được gọi là đậu mùa nhẹ (variola minor), alastrim, kaffir pox hoặc amaas. Tổn thương ngoài da của những thể nhẹ này thường ít về số lương, kích thước nhỏ hơn, vảy tróc sớm, và tử vong cũng ít hơn.

Phụ nữ có thai mắc bệnh đậu mùa thường bị dạng lâm sàng nặng hơn, dạng xuất huyết. Virus ưa lớp thanh mạc bao bọc nhau thai.Sẩy thai tự nhiên xảy ra nếu bị nhiễm vào đầu thai kỳ, và khoảng 50 % trường hợp chết thai nếu phụ nữ nhiễm vào những tháng cuối thai kỳ.

Dinh dưỡng kém và bội nhiễm nhất là với tụ cầu và liên cầu làm cho bệnh trở nên nặng hơn nhất là tại các vùng nông thôn nghèo khó.Bội nhiễm ở mắt trong những thể đậu mùa nhẹ thường làm cho bệnh nhân bị mù. Trẻ em ở các vùng nghèo khó dễ bị bội nhiễm, và trong đó có một phần nhỏ bị nhiễm trùng xương, nhất là những vùng ở gần cổ tay, khủy, đầu gối và mắt cá. Người ta thường nhầm bệnh đậu mùa với những thể nặng của bệnh trái rạ và bệnh sởi, bệnh này cũng thường bị chẩn đoán sai cho đến lúc cần phải cô lập những người nhiễm thì đã quá muộn.

Tỉ suất tử vong chung trong 1 vụ dịch bệnh đậu mùa thể nặng thường giao động từ 30 đến 50%, còn đối với các thể nhẹ chỉ có từ 1 đến 10% tùy theo chủng virus gây bệnh. Còn đối với thể nặng có xuất huyết tử vong có thể đến 100%.

Đường đi bệnh đậu mùa

Vùng hạ Sahara châu Phi dường như có nhiều khả năng là nơi xuất phát của virus gây bệnh đậu mùa ở người, nơi mà có lẽ virus đã tiến hóa từ virus đậu khỉ (monkeypox). Khi đã trở thành virus ở người, virus đậu mùa phát tán ra xa khi người nhiễm mang virus trong cơ thể suốt giai đoạn ủ bệnh dài, lây cho các bạn lữ hành dọc theo đường đi. Các trận dịch tiếp nhau đã nhiều lần du nhập virus vào các vùng khác nhau. Việc buôn bán nô lệ tại châu Phi có từ 1 ngàn năm trước, đã đóng vai trò tiếp dẫn sự lây truyền bệnh đậu mùa.

Vào khoảng 2500 năm trước CN., các thương lộ cổ xưa, chiến tranh, di dân, hành hương cùng với các binh sĩ hồi hương, thương gia, khách lữ hành, và thám hiểm, đã tiếp tay giúp cho virus lan truyền khắp thế giới cổ đại. Khi các thành bang mọc lên dọc theo các thương lộ, thì đám dân cư đông đúc tại vùng đô thị trở thành nơi lý tưởng ươm mầm bệnh gây nên các vụ dịch đậu mùa không dứt.

Virus di chuyển từ vùng châu thổ sông Nile đến các đô thị cổ đại vùng Lưỡng hà, vùng cao nguyên xứ Ba tư, đến vùng Biển Đen và đi vào vùng Tây Á và Trung Á, kể cả vùng thung lũng sông Indus thuộc Pakistan ngày nay. Virus không những chỉ du hành qua cơ thể người bệnh mà còn sống trong các vảy mủ khô dính trong quần áo nhiễm bẩn và các kiện hàng sợi bông được các thương đoàn mang đến tận những nơi xa xôi. Giao thương thời xa xưa qua đường biển từ vùng vịnh Ba tư, dọc theo bờ biển Ả rập, Ba tư,và Ấn độ, và cuối cùng đến Trung quốc, có thể cũng đã đóng vai trò trong việc vận chuyển virus đến châu Á.

Ramses V: chết vì bệnh đậu mùa năm 1157 trước Công Nguyên

Bằng chứng xưa nhất về sự hiện diện bệnh đậu mùa được tìm thấy trên 3 xác ướp thời Ai cập cổ đại, có niên đại khoảng năm 1570-1080 trước CN., trong đó có xác ướp Pharaoh Ramses V. Vị vua này chết vào năm 1157 trước CN vì bệnh đậu mùa khi mới hơn 30 tuổi. Mặt ông ta có các dấu chứng bị sưng phù và túi mủ. Xét nghiệm vi thể các thương tổn người ta tìm thấy những hạt nhỏ dạng virus đậu mùa,và những mảnh vảy cho phản ứng với kháng thể đậu mùa.

Người Hittites sống tại vùng Anatolia có mô tả 1 chứng bệnh bí hiểm gây thành dịch đã tấn công họ sau khi giao chiến với quân đội Ai cập tại vùng phía bắc Syria ngày nay vào giữa thế kỷ 14 trước CN. Bệnh từ các tù binh Ai cập đã lây ra và cướp đi nhiều mạng sống dân thường và binh lính. Bệnh hoành hành trong cọng đồng người Hittites ít nhất là 20 năm. Chúng ta đoán đây chỉ có thể là bệnh đậu mùa.

Một trong các tài liệu y học Sanscrit cổ nhất, sách Susruta Aamhita, do 1 thầy thuốc Hindu soạn trước thế kỷ thứ 5, đã mô tả bệnh đậu mùa và cho biết bệnh này có lẽ đã tồn tại tại Ấn độ cổ đại vào khoảng năm 1500 trước CN.. Các thầy thuốc y học Ayuverda đã dịch các mô tả về bệnh đậu mùa được viết trong khoảng thời gian từ năm 1000 trước CN. từ tiếng Sanscrit và Pali sang tiếng Sinhalese của người sống trên đảo Sri Lanka hiện nay. Các thầy tu Bà la môn đã hành lễ và cầu nguyện nữ thần bệnh đậu mùa trong thiên niên kỷ cuối cùng trước CN.

Bệnh đậu mùa đã đến Trung quốc khoảng năm 250 trước CN. khi quân Hung nô từ miền Trung Á tấn công nước này, và chẳng bao lâu sau đã nhanh chóng lan tràn ra khắp miền bắc Trung quốc. Bệnh đậu mùa đã tấn công quân đội của Hán Vũ đế vào năm 48-49 khi đánh dẹp các bộ tộc Vũ lăng (Wuling) thuộc vùng Hồ nam hiện nay. Bệnh đậu mùa từ miền Trung Á đến, và có lẽ cũng đã từ nơi này lan xuống miền Đông nam Á dọc theo “ con đường Miến điện ”. Bệnh đậu mùa bám trụ tại Trung quốc và đã được một thầy thuốc nước Tấn (Chin) vào đầu thế kỷ thứ 4 mô tả đầy đủ.. Bệnh đậu mùa đã cùng với đạo Phật đến được Nhật bản vào thế kỷ thứ 6.

Không có tài liệu cổ nào của người Hi lạp và La mã mô tả rõ ràng về bệnh đậu mùa mặc dù họ đã ghi lại vô số các trận dịch. Tuy nhiên, bằng chứng về bệnh này đã được nêu ra trong đám quân lính Carthage đóng dọc bờ biển Địa trung hải thuộc Bắc Phi vào năm 395 trước CN. Carthage đem quân đội đến đảo Sicily để tấn công thành Syracuse. Khi bao vây thành này, nhiều quân sĩ Carthage ngã bệnh, trên người phủ đầy các mụn mủ, nhiều người chết nên phải rút quân về ..

Khi Alexander Đại đế tiến vào vùng châu thổ sông Indus vào năm 327 trước CN. thì quân đội bị mắc một chứng bệnh mà sử gia La mã Rufus có mô tả là người bệnh bị phủ đầy các vảy nhỏ và lây cho người khác. Bệnh lui dần trước khi đoàn quân rút lui về phương Tây.

Các triệu chứng bệnh đậu mùa phù hợp với những mô tả về một chứng bệnh xảy ra trên các binh sĩ xứ Abyssinia thuộc vương quốc Aksum xứ Ethiopia hiện nay khi họ tấn công Mecca trong trận chiến Elephant vào năm 569. Bệnh này lan tràn ra khắp các bộ lạc Ả rập khi Muhammad ra tay thống nhất vào thế kỷ thứ 7. Thầy thuốc Rhazes tại thành Baghdad vào thế kỷ thứ 10 đã ghi lại 1 vụ dịch do hậu quả của trận Elephant, và trở thành người đầu tiên đưa ra 1 chẩn đoán đầy đủ bệnh đậu mùa.

Giám mục Gregory của thành Tours, Pháp là người châu Âu đã mô tả đầu tiên về bệnh đậu mùa vào năm 581. Ông ta viết rằng bệnh này đã lan tràn tới miền nam nước Pháp và miền bắc nước Ý. Năm 622,quân Hồi giáo đã mang bệnh này từ 1 vụ dịch tại thành Alexandria,Ai cập vào Tây ban nha, Bồ đào nha, và Pháp ngang qua ngỏ Bắc Phi.

Bệnh đậu mùa dần dần đã lan tràn ra khắp Tây Âu theo từng đợt. Nhiều vụ dịch đã được ghi nhận tại Ireland từ năm 675 đến 778, và tại vùng Flanders vào năm 961. Tín đồ hành hương và thập tự binh lại mang bệnh đậu mùa vào Tây Âu khi từ vùng Trung đông trở về.Vào cuối thế kỷ 12 bệnh đậu mùa đã trở thành khá phổ biến tại lục địa Tây Âu.

Bệnh đậu mùa theo 1 chiếc tàu Đan mạch đến Iceland vào năm 1241, và đã làm cho 20.000 người ở đây chết. Nhiều trận dịch nữa đã xảy ra tại Iceland trong những năm 1257 và 1291. Các thập tự binh của vua Edward I khi trở về nước Anh năm 1300 cũng đã mang theo bệnh đậu mùa. Một trận dịch từ Iceland đã đến tấn công Greenland vào năm 1430. Vào thế kỷ thứ 16, bệnh đậu mùa đã cắm chốt khắp châu Âu ngoại trừ nước Nga, nơi mà cuối cùng bệnh đậu mùa cũng đặt chân tới vào đầu thế kỷ thứ 17.

Bệnh đậu mùa lai vãng các hải cảng xứ Tây ban nha, và người nước này lại xuất khẩu sang vùng Tây Ấn (West Indies) năm 1507. Tình trạng nhiễm trùng hàng loạt trên tàu cộng với đồ vải bị vấy nhiễm các vảy mủ đã cho phép virus di chuyển an toàn sang Tân Thế giới.Virus cũng theo đám nô lệ da đen gốc bờ biển Tây Phi được người Tây ban nha mang đến làm việc trong các hầm mỏ tại đảo Hispaniola (Haiti và Dominica hiện nay) ngay từ năm 1510. Chẳng mấy chốc Hispaniola trở thành cái ổ ươm mầm (breeding ground) bệnh đậu mùa.

Căn bệnh này chẳng bao lâu tiến vào đất liền Mexico qua ngã Yucatan, mở đường cho đám Tây ban nha đến chính phục vùng đất này. Cortés đến Campoula là nơi gần Vera Cruz hiện nay vào năm 1519, tại đây ông ta được 1 nhóm Tây ban nha khác nhập bọn, trong nhóm này có 1 nô lệ da đen mang bệnh. Bệnh đậu mùa đã chạy nhanh trước các tay chinh phục, tạo nên sự kinh hoàng và giết chết nhiều tộc trưởng, và sau đó tàn sát một nửa số dân bản xứ của Mexico. Nhờ vậy mà Cortés với chưa đầy 500 quân sĩ đã chinh phục được đế quốc rộng lớn Aztec vào năm 1521.

Bệnh đậu mùa, cùng với những bệnh khác của Cựu thế giới, đã mở đường cho người Tây ban nha đi chinh phục khắp châu Mỹ La tinh, dọn đường cho công cuộc chinh phục. Bệnh đậu mùa đã quét sạch dân cư dọc theo bờ biển xứ Peru, và quấy nhiễu các bộ tộc Incas ở vùng cao. Pizarro đến lãnh thổ của người Incas vào năm 1532 khi vùng này bị hoảng loạn vì bệnh tật và nội chiến. Đám nô lệ châu Phi vẫn tiếp tục cung cấp nguồn bệnh gây dịch hoành hành khắp vùng Mỹ La tinh trong nhiều năm trời, tạo điều kiện cho người Tây ban nha và Bồ đào nha dễ dàng chiếm đoạt.

Bệnh đậu mùa cũng không chừa Bắc Mỹ. Những người khai hoang châu Âu, nhất là người gốc Anh nơi mà bệnh đậu mùa vẫn tiếp tục hoành hành, đã mang mầm bệnh đến các bờ biển Bắc Mỹ. Các trận dịch đậu mùa cứ đến rồi đi, và nhiều tàu thuyền phải chịu cách ly kiểm dịch nếu nghi ngờ có mang bệnh đậu mùa.Tuy nhiên, quần áo và những bành bông vải bị vấy nhiễm các vảy mủ bệnh đậu từ những tàu này lại được mang lên bờ. Các vụ dịch nỗ ra một phần cũng do sự du nhập đám nô lệ da đen bị nhiễm bệnh.

Vào cuối thế kỷ 17, bệnh đậu mùa bắt đầu tiến về phía tây. Ở miền bắc Canada, các giáo sĩ dòng Tên và các công ti buôn bán lông thú vô tình đã làm cho bệnh lan tràn sang các bộ lạc bản xứ. Vào năm 1731, bệnh đậu mùa đã lan khắp các khu thực địa và làng mạc thổ dân Bắc Mỹ. Có khi bệnh đậu mùa được cố ý đưa vào các bộ lạc cứng đầu chống đối sự cai trị thực dân qua hình thức đem tặng chăn mền đã được người mắc bệnh đậu mùa sử dụng.

Công nhân hái bông và công nhân nhà máy dệt bị nhiễm bệnh đậu mùa cũng tiếp tay làm lây truyền bệnh này. Thói quen nhổ nước bọt vào bàn tay trước khi nối sợi chỉ đứt và những mụn vảy tróc trên bàn tay người vừa khỏi bệnh đậu mùa, là 2 yếu tố làm cho vải và sợi bông bị vấy bẩn virus. Việc mua bán vải vụn lấy từ quần áo cũ bị vấy nhiễm virus, rồi đem đóng lại thành bành và lưu kho để làm giấy, cũng làm cho bệnh phát tán. Ở trạng thái khô trong nhà kho và trong hầm tàu, virus sống được hàng tháng, thậm chí đến hàng năm. Vào thế kỷ 19, tàu thuyền đã mang bệnh đậu mùa đến khắp nơi trên thế giới khi chở những bành bông, vải vụn, quần áo, cùng với nhiều trường hợp lây nhiễm giữa thủy thủ đoàn và hành khách.

Các biện pháp vô vọng

Khó mà phân biệt rõ bệnh đậu mùa với bệnh sởi và thủy đậu tại châu Âu, mãi cho đến khi Sydenham nêu ra được những khác biệt vào khoảng thập niên 1660. Tuy nhiên, vẫn còn nhầm lẫn đến tận cuối thế kỷ 18, vì lẽ bệnh đậu mùa không chừa một ai, giàu nghèo cũng mặc.

Trong khi châu Âu vừa vật lộn với chứng bệnh mới này, vừa phải đối phó với những bệnh dịch khác từ bên ngoài đưa vào khu vực này, thì phần lớn châu Á đã quen mặt bệnh đậu mùa từ lâu và đã có ý tưởng tiêm chủng để ngừa bệnh này. Ý tưởng về tiêm chủng dường như đã hình thành tại Ấn độ trong hàng ngũ các tu sĩ Bà la môn khi cầu nguyện nữ thần bệnh đậu mùa. Họ nhận thấy rằng không phải tất cả các nạn nhân mắc đậu mùa đều có mức độ nặng giống nhau, một số chỉ mắc phải thể bệnh nhẹ mà thôi. Bằng cách chọn lọc cẩn thận các vảy mủ khô từ những bệnh nhân hồi phục sau khi mắc bệnh đậu mùa thể nhẹ, họ bắt chước cách lây truyền virus tự nhiên bằng cách đặt những mảnh vảy mủ khô nhỏ vào bên trong mũi của những người chưa hề bị mắc bệnh trước đó. Kết quả đạt được là 1 thể bệnh đậu mùa nhẹ có khả năng bảo vệ những người này khỏi bị mắc thể bệnh nặng hơn. Mỗi khi mùa xuân đến, các tu sĩ đi khắp các làng mạc chủng ngừa cho trẻ em. Các tu sĩ nam nữ của đạo Phật tiếp tục truyền thống chủng ngừa cổ xưa này, và sau đó đem phương pháp này vào miền Trung Á và Trung quốc. Các tài liệu thời nhà Tống cho biết phương pháp chủng ngừa này đã được một ni sư Phật giáo đem từ Tây tạng vào Trung quốc.

Sau này xuất hiện một dạng chủng ngừa mới, thay vì lấy các vảy mủ khô, người ta lấy chất dịch từ các túi mủ ngoài da của người bị đậu mùa thể nhẹ và chủng ngừa được tiến hành bằng cách đưa dịch mủ đó vào dưới da của người chưa bị nhiễm. Hình thức chủng ngừa sử dụng dịch mủ lấy từ các thương tổn đậu mùa này được mang sang Ba tư và Anatolia thông qua các thương lộ đi từ Ấn độ và miền Trung Á, đến tận thành Constantinople vào khoảng cuối thế kỷ thứ 16.

Dường như hình thức chủng ngừa này cũng đã có tại vùng tây Phi. Một chủ đồn điền tại Boston tên là Cotton Mather, đã học được phương pháp này từ 1 nô lệ da đen vào năm 1706 và sau đó khuyến khích những người khai hoang khác áp dụng. George Washinton đã cho đám quân cách mạng của mình chủng ngừa vào năm 1777 sau khi quân đội bị mấy trận dịch đậu mùa. Nông dân tại một số vùng ở châu Âu cũng áp dụng kỹ thuật này.

Các thầy thuốc châu Âu tuy có biết đến phương pháp chủng ngừa này nhưng lại không muốn áp dụng. Lady Mary Wortley Montague, vợ của Đại sứ Anh tại Thổ nhĩ kỳ vào đầu thế kỷ thứ 18, biết được phương pháp chủng ngừa này khi theo chồng đến Constantinople. Chính bà cũng đã bị đậu mùa để lại vết sẹo rất xấu, bà ta nguyện áp dụng cách chủng ngừa cho các con mình hầu tránh cho họ khỏi những kinh khiếp của bệnh này. Khi trở về London vào năm 1721, bà đã trình bày ý tưởng chủng ngừa cho triều đình nước Anh. Tuy nhiên do quá sợ bị mắc bệnh đậu mùa, cho nên ít ai dám chịu thử.

Trong khi đó, khắp châu Âu đầy những tin đồn rằng những người vắt sữa đã bị đậu bò đều không bị hề hấn gì trong các trận dịch đậu mùa. Các nông dân nuôi bò vắt sữa bắt đầu đem bệnh đậu bò chủng ngừa cho con cái họ. Các thầy thuốc biết được việc này qua các thông báo của 1 bác sĩ người Anh vào năm 1765, và 1 thầy thuốc người Đức vào năm 1769, nhưng thảy đều vô ích. Cuối cùng, vào năm 1798, một thầy thuốc người Anh tên là Edward Jenner công bố 1 báo cáo về tính hiệu quả và an toàn khi sử dụng đậu bò làm vaccin ngừa bệnh đậu mùa. Trong khi giới thầy thuốc người Anh chần chừ chưa chấp nhận ý tưởng này, thì các nước châu Âu khác đã nhanh chóng sử dụng đậu bò để làm vaccin phòng bệnh đậu mùa.

Bất chấp thông tin về chủng ngừa, tại châu Âu người ta vẫn tranh cãi rất nhiều về việc áp dụng phương pháp này. Có người chất vấn về tính an toàn, kết quả miễn dịch đạt được, và có phù hợp về mặt tôn giáo hay không khi làm ngược lại với ý muốn của Chúa. Tính an toàn quả thật gây nhiều lo ngại nhất là khi việc chủng ngừa lại không may bị thao tác vụng về, và “ chất dịch” dùng để chủng lại thường quá mạnh hoặc bị nhiễm bẩn. Không phải lúc nào người ta cũng chăm chút khi lấy “ chất dịch ” dùng để tiêm chủng. Nhân viên tiêm chủng ít kinh nghiệm thường chỉ lấy chất mủ từ bệnh nhân mắc thể đậu mùa nặng thay vì từ nạn nhân bị thể bệnh nhẹ. “Dịch” lấy được thường có chứa các tác nhân sinh bệnh khác, hoặc thậm chí chỉ là dịch mủ của các nhiễm trùng khác. Các phản ứng có hại đối với chất lạ cũng gây ra nhiều vấn đề.

Nhiều năm sau khi chủng ngừa với đậu bò, các thầy thuốc không biết rằng miễn dịch tạo ra có thể yếu dần đi và cần phải chủng bổ sung để ngừa khỏi mắc bệnh trong những vụ dịch sau đó. Miễn dịch tạo ra sẽ yếu dần cho nên người đã tiêm chủng vẫn có thể bị nhiễm virus và mắc bệnh đậu mùa nhẹ hoặc thể biến đổi nhưng thường lại không được chẩn đoán, khiến họ vô tình gây nhiễm cho người khác.

Lo ngại về tình trạng thổ dân cứ tiếp tục giảm tại các thuộc địa Tân Thế giới năm 1803 người Tây ban nha ra tay hành động theo lệnh của vua Carlos IV đem vaccin của Jenner tiêm chủng cho dân chúng tại thuộc địa. Vận chuyển và bảo quản vaccin Jenner sống qua Đại tây dương là cả 1 vấn đề. Họ chọn đám trẻ con mồ côi để mang vaccin theo cách truyền bệnh đậu từ cánh tay đứa này sang đứa khác trong suốt chuyến hải hành dài và trong hành trình xuyên qua các thuộc địa để có thể lấy được vaccin ở dạng còn hoạt tính. Về sau, người ta tìm được 1 đàn bò bị nhiễm đậu bò tại vùng Tây ban nha mới, và đem tiêm đậu bò vào những con bê để sản xuất và duy trì vaccin. Người Tây ban nha cũng làm như thế đối với Philippines và 2 thành phố cảng của Trung quốc.

Nhiều lần thử mang vaccin Jenner Âu sang nước Mỹ không thành công đã làm nẩy sinh một ý tưởng mới đem vaccin vượt Đại tây dương. Tổng thống Jefferson ra lệnh cho vaccin vào những lọ nhỏ có đóng nút rồi nhúng trong nước. Phương cách này thành công, và việc chủng ngừa bằng vaccin được áp dụng rộng rải trong các cộng đồng người Mỹ gốc Âu.Về sau, một nguồn đậu bò được phát hiện tại 1 trại bò ở Pennsylvania. Vào cuối thế kỷ thứ 19, người ta mới quan tâm đến việc tiêm chủng cho thổ dân châu Mỹ sau khi có nhiều vụ dịch đậu mùa xuất hiện trong các khu dành riêng cho họ.

Trong những năm thuộc thập kỷ 1920, một loại vaccin khô được phát triển, nhưng chất lượng không ổn định và khó làm hoàn nguyên. Cuối cùng, vào năm 1949, phương pháp đông khô được phát triển để bảo quản vaccin mà không cần làm lạnh. Phương pháp này được đem ra sử dụng vào năm 1954.

Vào đầu thế kỷ 19, tiêm chủng ngừa đậu mùa đã được khắp châu Âu chấp nhận, và sau đó mở rộng ra khắp thế giới văn minh. Đến cuối thế kỷ 19, tính an toàn của các vaccin đã được cải tiến rất nhiều. Nhờ hiểu biết rõ hơn về hiệu quả của sự cách ly người bệnh và tiêm chủng thường xuyên đã làm cho bệnh đậu mùa đã giảm nhanh chóng tại bất cứ nơi nào thực hiện những phương pháp này. Sau tuyên bố thanh toán xong bệnh đậu mùa năm 1980, việc tiêm chủng không còn đặt ra nữa.

Bệnh đậu bò

Bằng cách nào mà đậu bò bảo vệ cho người không bị nhiễm đậu mùa vẫn còn là 1 bí mật mãi cho đến cuối thế kỷ 19. Năm 1781, Nash mô tả về lịch sử tự nhiên đầy thú vị của bệnh đậu bò, ủng hộ việc lấy virus đậu bò để chủng ngừa thay vì sử dụng virus đậu mùa lấy từ người mắc bệnh. Ông này nhận xét rằng bò chỉ mắc bệnh một lần duy nhất, và bệnh lây từ bò sang bò thông qua bàn tay của người vắt sữa, và Jenner đã lấy chất “dịch “ từ 1 thương tổn trên tay của 1 người thợ vắt sữa bò để thực hiện công trình chủng ngừa nổi tiếng của mình.

Thực ra thì chính người vắt sữa mới là nguồn nhiễm đầu tiên chứ không phải là con bò. Các thương tổn đậu mùa thường hiện diện trên lòng bàn tay của người bệnh, và tay là nơi hồi phục cuối cùng. Vì vậy, những người thợ vắt sữa bò vừa mới khỏi bệnh nhưng trên tay của họ vẫn còn các thương tổn sẽ gây nhiễm cho vú con bò qua các vết xây xước tương tự như khi ta làm chủng ngừa. Kết quả là những thương tổn khu trú được tạo ra, giống như các thương tổn tại chỗ khi chủng ngừa đậu mùa, sau đó lại gây nhiễm cho bàn tay của những người thợ vắt sữa chưa mắc bệnh đậu mùa, phần nào giống như cách chủng ngừa đảo ngược (reverse inoculation). Độc lực của virus giảm đi khi bị cấy vào mô của bò khi chúng thích ứng với vi môi trường mới. Các biến thể virus có độc lực cao hơn trong quần thể virus vốn mọc mạnh trên mô người sẽ không thể tồn tại được trong mô của bò, thành ra chỉ có các biến thể yếu hơn trong quần thể virus thích ứng với mô của bò. Khi chủng virus yếu hơn được truyền trở lại sang con người, chúng ít có khả năng gây thành bệnh nặng, nhưng lại giúp cho hệ miễn dịch chống lại sự tấn công của những biến thể đậu mùa có độc lực mạnh hơn.

Virus lai

Qua sự cấy chuyển (passage) virus đậu mùa sang bò và bê và sau đó trở lại con người, thì virus biến đổi này bắt đầu mang những đặc trưng riêng. Vào khoảng cuối thế kỷ 19, virus đã được truyền qua một loạt các động vật thí nghiệm trong qui trình sản xuất vaccin. Từ con virus đậu mùa nguyên thủy người ta tạo ra được 1 virus lai là Vaccinia virus, được Buist ghi nhận đầu tiên vào năm 1887. Con virus lai từ phòng thí nghiệm này cũng có tác dụng bảo vệ như virus đậu bò, cho nên chẳng bao lâu được dùng làm virus vaccin duy nhất để tiêm chủng. Ngay cả với con virus lai bị yếu đi này, một số nguy hiểm vẫn còn khi tiêm chủng đó là tác dụng phụ với cơ chất lạ và hệ thống miễn dịch bị suy giảm hoặc yếu không thể phản ứng đúng mức với vaccin. Vaccinia virus có thể được lưu giữ dễ dàng hầu như vô tận,dưới dạng để lạnh hoặc đông khô.

Từ năm 1980, Tổ chức Y tế thế giới đã dự trữ 200 triệu liều vaccin làm từ chủng virus Vaccinia đông khô đủ để dự phòng tình huống bệnh đậu mùa xuất hiện trở lại do tình cờ hoặc cố ý.

Để kết luận

Bệnh đậu mùa cùng với một số bệnh tai ác đã tác động đến các nền văn minh trên thế giới, trong nhiều tình huống đã làm thay đổi diễn biến lịch sử. Các trận dịch đậu mùa đã làm lật nhào nhiều lãnh tụ lớn và chặn đứng bước tiến của nhiều đoàn quân. Nhiều thế hệ bị ám ảnh về nỗi khiếp hãi phải mang những vết sẹo xấu xí cũng như chứng bệnh đáng sợ này. Người ta cuống cuồng tìm kiếm các cách chữa trị và nhận thấy rằng chủng ngừa là cách có thể giúp tránh khỏi các tác hại nặng nề của bệnh này.

Đến năm 1977 có trên 60 phòng thí nghiệm trên thế giới đang lưu mẫu virus đậu mùa. Sau khi chương trình thanh toán đậu mùa của Tổ chức Y tế thế giới thành công, chỉ còn có 2 labô có mức độ an toàn cao được cộng đồng thế giới chính thức cho phép giữ mẫu của nhiều chủng virus variola làm đối chứng, dự phòng trường hợp bệnh đậu mùa xuất hiện trở lại. Các mẫu virus được giao cho CDC tại Atlanta, Georgia (Mỹ) và Trung tâm quốc gia nghiên cứu virus học và kỹ thuật sinh học tại Koltsovo, Novosibirsk(Nga). Một số chủng chính trong những mẫu này đã được “ lấy dấu mẫu” (fingerprinted) bằng cách lập bản đồ các trình tự DNA. Các mảnh DNA của nhiều chủng đã được nghiên cứu và nhân bản, và người ta tiếp tục nghiên cứu để phát triển 1 xét nghiệm máu chuyên biệt nhằm chẩn đoán bệnh ở ngay giai đoạn đầu.

Trong quá khứ đã từng xảy ra nhiều sự cố phòng thí nghiệm. Một trong những sự cố xảy ra tại Anh vào năm 1973 làm cho 1 kỹ thuật viên y khoa bị phơi nhiễm virus. Người này bị nhiễm nhưng không được phát hiện và còn lây sang và làm chết 2 người khác. Một sự cố khác vào năm 1978 gây nhiễm cho 1 nhân viên nhiếp ảnh y khoa tại Birmingham (Anh) khi người này đang chụp ảnh. Người này nhiễm phải virus khi hít phải bụi từ máy quạt của labo chuyên về virus đậu mùa. Trước khi bệnh được chẩn đoán thì người này đã lây bệnh sang bà mẹ và bà này chết. Nhà khoa học làm việc cho labo virus đậu mùa vì chuyện này mà tự sát.

Liệu chúng ta có thấy được sự cáo chung của bệnh đậu mùa ?. Có lẽ là không. Vẫn còn dự trữ vaccin - để có khi phải đem ra sử dụng. Chính quyền Xôviết trong 50 năm đã phát triển hàng tấn virus đậu mùa để làm vũ khí sinh học mặc dù thế giới thống nhất không được làm. Chính quyền Xô viết cũng phát triển một chủng virus variola có độc lực mạnh hơn với thời gian ủ bệnh ngắn hơn.

Các chuyên gia quân sự có lý do để tin rằng trên thế giới hiện nay vẫn cỏn nhiều labô bí mật, theo đuổi mục đích phát triển virus đậu mùa thành 1 vũ khí sinh học, nhất là để làm vũ khí khủng bố. Chính vaccinia virus cũng là 1 mối đe doạ nếu được sử dụng không đúng. Trong khi virus lai này có thể dùng để làm vật mang vaccin để ngăn ngừa các bệnh khác, thì các nhà khoa học Xôviết đã thử chuyển chúng thành 1 loại virus giết người mạnh khi đem kết hợp chúng với virus Ebola.

Trên thế giới hiện nay có cả một thế hệ sinh ra sau khi chương trình thanh toán đậu mùa của WHO và hiện tại việc thực hiện tiêm chủng ngừa đậu mùa đã kết thúc. Bọn khủng bố và các chính phủ xấu (rogue) đã nhận thấy điểm yếu dễ mắc bệnh của thế hệ này. Ngay cả đối với thế hệ già hơn đã được tiêm chủng trước khi bệnh đậu mùa được thanh toán cũng có thể bị nhiễm bởi vì tính đề kháng giảm dần. Các thầy thuốc hiện đại gặp khó khăn để phát hiện bệnh đậu mùa. Trong quá khứ cũng đã gặp quá nhiều khó khăn để chẩn đoán, và thường chỉ chẩn đoán trúng khi đã muộn. Các triệu chứng sớm dễ thay đổi và khó cho là có liên quan đến bệnh đậu mùa.

Không thể bỏ qua khả năng virus đậu mùa tự nhiên còn ẩn mình đâu đó trong các quần thể dân cư hẻo lánh, hoặc nằm trốn trong các vảy mủ cũ khô trong những nơi kín đáo nào đó. Hơn thế nữa, khi gặp điều kiện phù hợp, một chủng virus đậu mùa mới có thể tách ra từ 1 chủng mạnh của virus đậu khỉ. Tuy nhiên, các labô bí mật là mối nguy hiểm lớn nhất về sự xuất hiện trở lại của bệnh đậu mùa. Mối nguy hiểm về việc sử dụng virus đậu mùa trong chiến tranh sinh học quá lớn khiến một số quốc gia phải tiến hành tiêm chủng cho nhân viên quân sự và y tế.

 

 

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org    Võ văn Lượng