Chương trình Vi sinh vật học
II-CÁC LOẠI BÀO TỬ VÔ TÍNH VÀ HỮU TÍNH Ở NẤM
Ngoài loại bào tử không có ý nghĩa
sinh sản như bào tử áo (chlamydospore), nấm còn có
các loại bào tử sinh sản- giúp chúng phát tán rộng
rãi trong tự nhiên. Tùy theo phương thức hình thành
(có qua quá trình trao đổi nhân hay không) mà người
ta chia ra thành 2 loại bào tử ở nấm: bào tử vô tính
và bào tử hữu tính.
1-Bào tử vô tính:
1.1- Động bào tử (zoospore):
Gồm các bào tử có 1 hoặc 2 tiên mao nên có khả
năng di động trong môi trường nước. Chúng được sinh
ra từ các nang động bào tử (zoosporangium). Tiên mao
của động bào tử cấu tạo bởi 11 sợi- 2 sợi ở giữa và
9 sợi ở chung quanh. Có loại chỉ có 1 tiên mao ,hoặc
nhẵn nhụi (whiplash) hoặc có lông (tinsel), có loại
có 2 tiên mao- 1 nhẵn nhụi, 1 có lông, hai tiên mao
cùng quay về một hướng hay về hai hướng khác nhau.
Có thể thấy các dạng động bào tử ỏ 3 lớp nấm nấm
Chytridiomycetes, Hyphochytridiomycetes và Oomycetes
( các bộ Chytridiales, Blastocladiales,
Monoblepharidales, Hyphochytriales, Saprolegniales,
Leptomitales, Peronosporales)
Nang
động bào tử
Động
bào tử
|
|
|
Cấu trúc động bào tử ở nấm Blastocladiella
Emersonii N-nhân tế bào; F- tiên mao;
M- ty thể; V- không bào.
|
Động bào tử
Tiên mao trơn và tiên mao có lông
1.2- Bào tử kín
(sporangiospore, angiospore)
Gồm các bào tử được sinh ra
từ các nang bào tử kín ( sporangium). Có hai cách
tạo bào tử kín:
-Nang còn non chứa nhiều
nhân, các nhân phân chia gián phân, sau đó chất
nguyên sinh trong nang phân chia ra thành nhiều
phần, mỗi phần chứa 1-6 nhân. Các phần này được bao
bọc bởi vỏ chitine và biến đổi thành bào tử kín.Ví
dụ như ở nấm Phycomyces nitens.
- Chất nguyên sinh trong nang chia làm nhiều phần,
mỗi phần chứa 1 hoặc nhiều nhân. Có 3 trường hợp:
*Bào tử non chỉ có 1 nhân,
nhân phân chia gián phân thành nhiều nhân con rồi
tạo thành vỏ để có những bào tử nhiều nhân.Ví dụ ở
Circinella
*Bào tử non 1 nhân, nhân
phân chia gián phân thành nhiều nhân con, bào tử non
chia thành các bào tử, mỗi bào tử có 2 nhân. Ví dụ ở
Pilobolus.
*Bào tử non nhiều nhân, sau
đó chia nhỏ ra thành một số bào tử, mỗi bào tử có 1
nhân. 2 nhân hoặc 5-6 nhân. Ví dụ ở Mucor.
Nang bào tử kín được
tạo thành từ đỉnh một sợi nấm được phân hóa làm
nhiệm vụ sinh sản. Sợi nấm này hoặc là một nhánh
phát triển từ sợi nấm dinh dưỡng, hoặc là sinh ra từ
một bào tử tiếp hợp (zygospore). Nhánh sợi này được
gọi là cuống nang hay giá nang (sporangiophore). Khi
phát triển đến một độ dài nhất định thì phình to lên
tạo thành trụ nang (columella). Vỏ nang phát triển
từ trụ nang tạo thành một nang kín chứa trụ nang,
chất nguyên sinh và nhiều nhân. Dòng chất nguyên
sinh tiếp tục dồn về nang trong khi trong nang hình
thành dần các bào tử non. Thành của giá nang và vỏ
nang có chứa chitine. Bên trong vỏ nang có chứa
callose, lớp này sẽ bị phân hủy khi vỏ nang mở. mặt
ngoài vỏ nang thường có một lớp tinh thể calcium
oxalate.
Khi bào tử kín chín thì vỏ
nang sẽ vỡ ra. Có hai kiểu vỡ khác nhau:
-
Vỏ nang khô ròn đi và nứt ra, để cho các bào
tử phát tán theo gió
-
Vỏ nang ngậm nước và hóa nhầy, khối các bào
tử kín lộ ra và phát tán nhờ các động vật nhỏ hay bị
khô đi rồi phát tán nhờ gió
Về hình dạng cuống nang có
thể thấy dạng mọc đơn hoặc dạng phân nhánh. Cũng có
trường hợp ở đỉnh cuống nang có một nang lớn
(sporangium), còn ở các nhánh có các nang nhỏ hơn
(sporangioles). Cũng có trường hợp cả nang nhỏ và
nang lớn đều không có trụ nang.
Nang bào tử kín, bào tử kín, nang trụ và cuống
nang
Nang mọc lên từ sợi nấm và Nang mọc lên từ bào tử
tiếp hợp.
Cả hai đều sinh bào tử nang kín.
Thamnidium
Rhizopus
1.3-Bào tử trần ( conidium , gymnospore):
Bào tử trần là loại bào tử vô tính thường gặp nhất ở
nấm. Chúng có hình dạng, kích thước, kết cấu hết sức
phong phú. Có hai kiểu phát sinh bào tử trần:
1.3.1-Kiểu nẩy chồi (blastic):
Bào tử trần sinh ra theo kiểu này lại chia thành hai
loại:
- Loại nẩy chồi nội sinh (enterobalstic). Loại
này bao gồm dạng bào tử sinh ra từ thể bình
(phialospore) và loại sinh ra từ lỗ (porospore).
- Loại nẩy chồi ngoại sinh ( holoblastic). Loại này
bao gồm 3 dạng:
a- Tế bào sinh bào tử trần không ngừng tăng trưởng
hoặc phình to ra. Có 3 trường hợp khác nhau:
*Cổ bình có ngấn vòng (annellidie)
*Các bình cùng trục (sympodial)
* Bào tử trần sinh ra từ các phần mọc thêm của thể
bình (basausix)
b-Chiều dài của tế bào sinh bào tử là cố
định, không đổi
c- Chiều dài của tế bào sinh bào tử trần thu ngắn
dần lại để sinh ra bào tử trần (ví dụ ở
Basipetospora hay Thichothecium)
1.3.2- Kiểu đứt đoạn (thallic):
Bào tử trần sinh ra theo kiểu cả phần đầu của sợi
nấm chuyển hóa thành. Bao gồm hai loại:
- Loại bào tử đốt ngoại sinh (holoarthric conidia):
Đầu sợi sinh bào tử sinh ra các vách ngăn và đứt
đoạn ra thành các bào tử. Ví dụ ở các nấm
Arthrographic hay Geotrichum.
- Loại bào tử đốt nội sinh (enteroarthric conidia):
Đầu sợi sinh bào tử sinh ra các vách ngăn nhưng
thành sợi nấm không tham dự vào việc tạo thành vỏ
ngoài của các bào tử. Ví dụ ở nấm
Bahusakala.
1.3.3: Hình thái bào tử trần:
Bào tử trần có loại không màu có loại có màu.
Kích thước bào tử trần thay đổi tùy loài, ngắn nhất
là 1-2µm, dài nhất là 80-100 µm.
Hình dạng bào tử trần khác nhau tùy loài :
không vách ngăn, 1 vách ngăn, từ 2 vách ngăn trở
lên, vừa có vách ngang vừa có vách dọc, hình xoắn
hay hình sao, dạng sợi…
Tế bào sinh bào tử trần gọi là giá (hay cuống) bào
tử trần (conidiophore). Giá bào tử trần có khi đứng
riêng rẽ, có khi mọc thành cụm từ 2 tới nhiều chiếc
trên sợi nấm. Giá bào tử trần trong một cụm có khi
đứng riêng rẽ có khi dính liền với nhau để tạo thành
bó giá (synnema, coremium) hoặc tạo thành
cụm giá (sporodochium) ,hoặc tạo thành túi
giá (pycnidium), hoặc tạo thành
đĩa giá (acervulus). Bó giá gồm nhiều giá bào tử
trần dài , xếp song song với nhau và dính liền với
nhau hoặc ở phần gốc hoặc suốt dọc chiều dài. Các
bào tử trần sinh ra ở phần ngọn hay sinh ra suốt
chiều dọc. Cụm giá cấu tạo bởi các giá bào tử trần
ngắn, xếp liền nhau thành một khối. Các giá này có
thể tách rời nhau hoặc dính liền nhau một phần. Bào
tử trần tạo thành ở phần ngọn các giá trong cụm. Cụm
giá ở một số nấm hình thành trên các đệm nấm
(stroma). Nấm Fusarium có thể có các cụm giá
nhỏ và nhày ,gọi là cụm giá nhày.
Bó giá (synnema, coremium)
Cụm giá (sporodochium)
Túi giá (pycnidium)
Đĩa giá (acervulus)
Đệm nấm (stroma)
2-Bào tử hữu tính:
2.1- Bào tử noãn (oospore):
Các loài nấm trong lớp Oomycetes có hình thích sinh
sản hữu tính là hình thành bào tử noãn. Túi đực
(antheridium) nhỏ hơn túi noãn (oogonium). Túi
đực sinh ra trên giá túi đực (antheridial stalk) ở
sợi túi đực (antheridial filament). Túi noãn có chứa
noãn cầu (oosphere). Túi đực có thể hình thành ống
thụ tinh (fertilization tube) để xuyên qua túi noãn
và tìm đến noãn cầu để thụ tinh. Sau đó noãn cầu
sinh ra 3 lớp màng (lớp vỏ ngoài do vỏ túi noãn biến
đổi thành) và biến thành bào tử noãn lưỡng bội.
Nhiều loài nấm thuộc các chi Saprolegnia, Achlya,
Apodachlyella… có chứa nhiều noãn cầu trong túi
noãn. Một số loài , chẳng hạn như loài
Saprolegnia moniliera, noãn cầu không thụ tinh
vẫn biến thành bào tử noãn , gọi là bào tử noãn
vô tính sinh. Đây là trường hợp đặc biệt mà còn
có thể gặp ở Nấm túi và Nấm đảm. Bào tử noãn sống
nghỉ một thời gian sau đó nẩy sợi phát triển thành
một hệ sợi nấm mới. Bào tử noãn vô tính sinh không
có quá trình giảm phân trước khi nẩy sợi. Các bào tử
noãn khác có quá trình phân chia giảm nhiễm để tạo
thành các nhân con đơn bội và sau đó phát triển
thành các sợi nấm đơn bội.
Túi noãn chứa nhiều noãn cầu
Túi
noãn chứa 1 noãn cầu
2.2-
Bào tử tiếp hợp (zygospore):
Bào tử tiếp hợp là bào tử hữu tính đặc
trưng của ngành Nấm tiếp hợp ( Zygomycota). Đó là
kết quả của sự kết hợp giữa 2 phối nang có hình thái
giống nhau hay hơi khác nhau sinh ra từ hai sợi nấm
khác dấu đứng gần nhau. Đầu tiên mọc ra hai nhánh
ngắn gọi là nguyên phối nang (progametangia). Phần
đỉnh phình to llên và sinh vách ngăn, tạo ra một tế
bào gọi là phối nang (gametangia).
Phần sợi mang phối nang gọi là cuống nang
(supensor). Sau khí tiếp xúc phần màng ngăn cách
giữa hai phối nang sẽ mất đi và xảy ra sự trao đổi
nguyên sinh chất (plasmogamy) tạo ra nang tiếp hợp
bào tử (zygosporangium) . Sau đó xảy ra sự trao đổi
nhân (karyogamy, syngamy) để tạo thành bào tử tiếp
hợp (zygospore) lưỡng bội. Có 3 trường hợp
khác nhau:
-
Hợp tử tạo thành từ 2 phối nang có nhiều nhân
đơn bội (haploid), sau khi các nhân phối hợp với
nhau từng đôi một sẽ tạo ra hợp tử mang nhiều nhân
lưỡng bội (diploid).
-
Hợp tử tạo thành từ 2 phối nang chứa nhiều
nhân đơn bội, nhưng chỉ có sự phối nhân ,do đó hợp
tử chứa nhiều nhân đơn bội và bào tử tiếp hợp là đơn
bội.
-
Trường hợp hãn hữu phối nang chỉ có một nhân
đơn bội, do đó bào tử tiếp hợp chỉ có 1 nhân lưỡng
bội hay 2 nhân đơn bội
Với các bào tử tiếp
hợp mang nhân đơn bội thì trước khi bào tử nảy mầm
các nhân mới kết hợp từng đôi một để tạo thành các
nhân song bội. Một số nhân không tham gia vào sự
phối nhân sẽ thoái hóa và tan rã.
Bào tử tiếp hợp sẽ nảy sợi, tạo ra sợi nấm
phát triển hữu hạn, mọc thẳng đứng lên và không phân
nhánh, tận cùng là một nang bào tử kín. Khi nảy sợi
các nhân lưỡng bội trong bào tử tiếp hợp sẽ phân
chia giảm nhiễm và tạo thành các nhân con đơn bội.
các bào tử kín sinh ra là đơn bội. Chúng không khác
gì các bào tử kín trong các nang mọc ra từ hệ sợi
nấm.
Bào
tử tiếp hợp chứa nhiều lipid, nhiều tinh thể
mucorin (sắc tố đen), có thành dầy. Thành này có thể
nhẵn nhụi ( như ở nấm Blakeslea trisporra)
nhưng thường là gồ ghề, xù xì hoặc có gai (ở các
loài Mucor, Rhizopus).
2.3-Túi (ascus, asci) và bào tử túi (ascospore):
Bào tử túi là bào tử hữu tính đặc trưng cho ngành
Nấm túi (Ascomycota).
Từ các sợi
nấm đơn nhân (monokaryotic hyphae) khác nhau sinh ra
các thể sinh túi (ascogonium) và các túi đực
(antheridium). Từ túi đực mọc ra các sợi thụ tinh
(trichogyne) vươn đến thể sinh túi để thực hiện quá
trình trao đổi nguyên sinh chất (plasmogamy). Từ thể
sinh túi đã trao đổi nguyên sinh chất sẽ mọc ra các
sợi sinh túi (ascogenous hypha). Đầu sợi này mọc ra
phần móc câu (crozier) . Trong móc xảy ra sự phân
bào giảm nhiễm để tạo thành 4 nhân con. Sau đó tách
thành 3 tế bào. Tế bào ở ngọn và ở gốc sẽ nối với
nhau. Sợi nấm gồm các tế bào song nhân này được gọi
là sợi phát triển (developing hyphae). Tế bào giữa
sẽ phát triển lên thành tế bào mẹ của túi (ascus
mother cell). Xảy ra sự kết hợp nhân để tạo thành
nhân tiếp hợp (zygote nucleus) lưỡng bội. Sau đó
xảy ra liên tiếp 2 lần phân bào giảm nhiễm (giảm
phân,meiosis I và II) và một lần phân bào nguyên
nhiễm (nguyên phân, mitosis) để tạo ra 8 nhân con
đơn bội. Mỗi nhân này về sau phát triển lên thành 1
bào tử túi (ascospore) nằm trong túi (ascus). Túi
ngoài hình viên trụ còn có thể có hình cầu , hình
chùy…Vỏ túi gồm 2 lớp, lớp ngoài thường mỏng cà
không thấm nước, lớp trong thấm nước. Nếu lớp vỏ
trong dày thì là loại khi túi mở lớp vỏ trong bong
ra khỏi lớp vỏ ngoài. Loại khác có lớp vỏ trong mỏng
dính chặt vào lớp vỏ ngoài và không bong ra khi túi
mở
Bào tử túi ở nấm men Schizosaccharomyces
Sự hình thành bào tử túi ở nấm men Saccharomycodes
Sự nảy chồi và hình thành bào tử túi ở nấm men
Saccharomyces cerevisiae
Chu
kỳ sống và việc hình thành bào tử túi ở nấm men
Đệm nấm ở Nấm túi có 3 dạng: Qủa túi hình cầu
(cleistothecium), Quả túi hình chai (perithecium) và
Quả túi hình đĩa (apothecium).
Cụm giá (sporodochium)
Túi giá (Pycnidium)
Đĩa giá (Acervulus)
Đệm nấm (stroma)
Quả túi hình cầu (cleistothecium)
Quả túi hình chai (perithecium)
Quả thể hình đĩa (apothecium)
2.4- Đảm (basidium) và bào tử đảm (basidiospore):
Bào tử đảm là bào tử hữu tính đặc trưng ở
các nấm thuộc ngành nấm đảm (Basidiomycota). Ngành
nấm này hầu hết là có mũ nấm (cap).Nấm đảm thường có
3 cấp sợi nấm. Sợi nấm cấo I (sơ sinh) lúc đầu không
có vách ngăn và có nhiều nhân. Dần dần tạo vách ngăn
và phân thành những tế bào đơn nhân. Sợi nấm cấp II
(thứ sinh) được tạo thành do sự kết hợp của hai sợi
nấm cấp I. Sau quá trình phối chất (plasmogamy) hai
nhân vẫn tách rời nhau. Đó là sợi song nhân
(dikaryotic hyphae). Sợi nấm cấp III (tam sinh) do
sợi nấm cấp II phát triển thành. Khi đó các sợi nấm
liên kết lại tạo thành nụ nấm (button) rồi thành quả
đảm (basidiocarp). Nhiều nấm có dạng móc (clamp
connection). Tế bào đỉnh sợi phân chia 2 nhân thành
4 nhân và tách thành 3 tế bào. Tế bào đầu và cuối
liên kết voái nhau để thành dạng móc. Như vậy là từ
một tế bào đơn nhân phát triển thành 2 tế bào đơn
nhân và giữa hai tế bào còn lưu lại một cái móc. Còn
có loại móc giả (pseudo-clamp) khi tế bào đỉnh và tế
bào gốc không nối với nhau. Chỉ có tế bào giữa phát
triển thành tế bào ngọn song nhân. Trong mũ nấm có
các phiến nấm (gill). Trên phiến nấm có sự hình
thành các đảm (ascus). Trên đảm xuất hiện 4 mấu lồi.
Nhân phân cắt để tạo thành 4 nhân. Mỗi nhân chui vào
1 mấu lồi và phát triển lên thành một đảm bào tử
(basidiospore).
Sự hình thành đảm và bào tử đảm
|