Nấm Vân Chi có tên khoa học là
Trametes versicolor (Linnaeus :Fries) Pilat.
Trước đây còn có các tên khác như Coriolus
versicolor, Polyporus versicolor. Về hệ thống
phân loại nấm này thuộc họ Polyporaceae, bộ
Aphyllophorales, lớp Hymenomycetes,
ngành Basidiomycota.Tên tiếng Anh là Turkey
tails, tiếng Nhật là Kawaratake, tiếng Trung Quốc là
Yun Zhi.
Đây là loại
nấm dược liệu quý hiện đã được sử dụng tại Trung
Quốc từ cách đây trên 2000 năm và hiện nay đã có thể
nuôi trồng thành công với kỹ thuật đơn giản tại Việt
Nam. Giống gốc hiện được lưu trữ tại Bảo tàng giống
chuẩn vi sinh vật (VTCC) thuộc Trung tâm Công nghệ
Sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hình thái nấm Vân Chi
là như sau : Mũ nấm không có cuống, dai, phẳng hoặc
chỉ hơi quăn, hình gần như bán nguyệt. Mũ nấm thường
mọc thành cụm, đường kính từ 1 đến 8cm, dầy khoảng
0,1- 0,3cm, có lông nhỏ trên bề mặt, có các vòng màu
đồng tâm màu nâu, màu tro đen, màu trắng đục. Mép
mỏng, uốn sóng. Thịt nấm màu trắng. Bào tử hình viên
trụ, vô màu, kích thước 4,5- 7mm
x 3- 5mm.
Trong tự nhiên nấm Vân Chi thường mọc trên gỗ mục
.

Trồng nấm Vân Chi tương tự như
cách trồng Mộc nhĩ (Nấm mèo) hay nấm Sò (nấm Bào
ngư) trên các túi màng mỏng chứa một trong các môi
trường sau đây :
*Mùn cưa- 78%, cám
gạo- 20%, đường cát- 1%, bột thạch cao- 1%
* Mùn cưa- 40%, bã
mía- 40%, rơm nghiền- 20%
* Thân sắn (khoai mỳ)
nghiền nhỏ- 80%, bột thạch cao- 20%
Trộn các
nguyên liệu này với nước để có độ ẩm khoảng 60%. Nắm
lại thấy nước vừa đủ ứa ra kẽ tay là thích hợp. Cho
vào túi màng mỏng PP loại dày khoảng 5mm, kích thước
17 x 33cm hay 25 x 35cm. Mỗi túi đựng khoảng
250-300g nguyên liệu. Làm một miệng túi bằng 1 đoạn
ống nhựa để luồn màng mỏng qua và nút bằng nút bông.
Trước khi khử trùng cần bọc nút bông bằng giấy báo.
Khử trùng
bằng hơi nước sôi như khi luộc bánh chưng, thường
hấp trong 10 giờ, sau đó để qua đêm cho nguội hẳn
mới lấy các bịch này ra.
Đưa vào
phòng cấy giống và dùng giống mua tại các trung tâm
cung cấp giống để cấy. Tại các tỉnh phía Bắc cần đặt
kế hoạch cung cấp giống trước 3 tháng (liên hệ qua
điện thoại 0913523578). Tại các tỉnh phía Nam cần
đặt kế hoạch cung cấp giống trước 2 tháng (liên hệ
qua điện thoại 0905543535).
Mở nút bông
ra và cấy giống bằng thao tác vô trùng với thìa sắt
hơ trên ngọn lửa đèn cồn. Lượng giống cấy thường từ
0,7-1% so với nguyên liệu. Để giống cấy được sâu vào
trong túi nên chuẩn bị một cái dùi gỗ để có thể tạo
ra một hình phễu khi ấn mạnh vào giữa khối nguyên
liệu từ trên xuống.
Đậy nút bông
lại và xếp các túi lên giá hay treo nối tiếp nhau
bằng 3 sợi dây ni lông từ thanh tre (hay ống nước)
treo ngang trên trần thả xuống, Luồn các bịch vào
giữa 3 sợi dây rồi buộc lại phía trên và phía dưới.
(giống như cách trồng Mộc nhĩ hay Nấm Sò).
Đợi đến khi
sợi nấm mọc trắng hết bịch thì chuẩn bị rạch túi để
nấm Vân Chi mọc ra. Điều kiện tốt nhất để sợi nấm
mọc nhanh là giữ nhiệt độ phòng trong phạm vi 19-250C.
Với các tỉnh phía Nam và vào mùa hè ở miền Bắc phải
tạo tiểu không khí mát bằng phương pháp một đầu
phòng đặt quạt hút gió loại công nghiệp, đầu phòng
đối diện bơm nước từ giếng cho chảy trên một bức
tường làm bằng chất xốp thấm nước (tham quan tại các
trại lợn nuôi theo kiểu công nghiệp).Nếu có điều
kiện dùng thiết bị điều hòa nhiệt độ thì càng tốt.
Hái nấm Vân
Chi cả chùm, nhớ khoét hết chân để có thể mọc tiếp
ra cụm nấm khác. Phơi khô và đóng túi. Giá thị
trường trong nước là khoảng 400 000 đồng/kg nấm. Nếu
có nhiều nấm Vân Chi để xuất khẩu sang Hồng Công thì
giá tới vài triệu đồng/kg.
Tại sao Trung Quốc, Nhật Bản và
nhiều nước khác gần đây rất ưa chuộng nấm Vân Chi ?
Bởi vì các nhà khoa học tìm thấy trong nấm Vân Chi
loại hợp chất đa đường PSK (polysaccharide loại
Krestin) và loại đạm-đa đường PSP
(polysaccharopeptid PSP) có tác dụng ức chế tế bào
ung thư và nâng cao hoạt tính miễn dịch của cơ thể.
Vì vậy người ta dùng nấm Vân Chi để chữa bệnh viêm
gan do virút HBV và hạn chế quá trình phát triển của
ung thư gan và nhiều loại ung thư khác. PSK
(Krestin) được tách chiết lần đầu tiên ở Nhật Bản
vào cuối thập kỷ 60, trong khi đó PSP được phân lập
tại Trung Quốc vào năm 1983. Thành phần của các chất
PSK và PSP là tương đối giống nhau về mặt hóa học và
có trọng lượng phân tử vào khoảng 100 kDa. Thành
phần polypeptid của chúng có chứa một lượng lớn axit
aspartic và axit glutamic. Thành phần polysaccharide
thì được kết cấu bởi các mạch đường đơn
monosaccharide được liên kết với nhau bởi các cầu
nối α-(1-4)
và β-(1-3)
glucosid. PSK và PSP khác nhau chủ yếu ở chỗ PSK có
chứa đường fucose và PSP thì chứa đường rhamnose và
arabinose. Ngoài ra cả hai còn chứa galactose,
mannose và xylose. PSK và PSP có khả năng tăng cường
hệ miễn dịch bằng cách tăng cường tính đặc hiệu của
tế bào T và của các tế bào kháng nguyên như bạch cầu
đơn nhân và đại thực bào. Hoạt tính sinh học được
thể hiện ở khả năng làm tăng số lượng bạch cầu, khả
năng sản xuất IFN-γ
và IL-2 va làm trì hoãn các phản ứng quá mẫn. Đã có
rất nhiều nghiên cứu chỉ ra khả năng hoạt hóa tế bào
và các thành phần thể dịch của hệ thống miễn dịch
của vật chủ của PSK và PSP. Ngoài ra cả hai chất này
còn có tác dụng kìm hãm sự phát triển của các dòng
tế bào ung thư và có hoạt tính chống ung thư ở mức
độ in vivo (Tzianabos. Clinical Microbiology
Reviews. 2000; 13: 523-533). Điều đáng ghi nhận là
vào năm 1987, chỉ riêng lượng PSK đã chiếm tới 25%
tổng số dược liệu được sử dụng để chống lại bệnh ung
thư ở Nhật bản.
Việc sử dụng
thành công chất PSK trong điều trị các bệnh ung thư
đầu, cổ, ung thư trực tràng và ung thư phổi cũng như
ung thư vú đã được ghi nhận qua nhiều thử nghiệm lâm
sàng trong vòng vài thập kỷ gần đây. Phần lớn các
thử nghiệm y học sử dụng chất PSK được tiến hành ở
Nhật Bản. PSK đã được sử dụng dưới dạng điều trị
miễn dịch cho rất nhiều bệnh nhân bị ung thư dạ dày
nhiều hơn là cho các bệnh nhân bị các loại bệnh ung
thư khác. Đầu những năm 1970 nhóm nghiên cứu của
Kaibara đã tiến hành thử nghiệm dùng PSK để điều trị
cho bệnh nhân bị ung thư ở giai đoạn 4 song song với
phương pháp hóa trị liệu. Sau khi được phẫu thuật
cắt bỏ phần ung thư, bên cạnh chế độ hóa trị liệu
Mitomycin C và 5-fluorouracil (5-FU) 66 bệnh nhân
được điều trị bổ sung 3 g PSK mỗi ngày. Tỉ lệ sống
của các bệnh nhân này trong 2 năm là tăng gấp đôi so
với các bệnh nhân không được điều trị bằng PSK
(Kaibara và cộng sự. Japanese Journal of Surgery.
1976; 6: 54-59). Nghiên cứu sau đó của Fujimoto và
các cộng sự vào năm 1979 (Japanese Journal of
Surgery. 1979; 3: 190-196) với một số lượng bệnh
nhân lớn hơn (n=230) cũng cho kết quả tương tự. Các
nghiên cứu tiếp theo của Hattori và cộng sự.
(Japanese Journal of Surgery. 1979; 9: 110-117)
(n=110) và Kodama cùng các cộng sự (Japanese Journal
of Surgery. 1982; 12: 244-248) (n=450) chỉ ra rằng
chất PSK có thể bảo vệ chống lại ức chế miễn dịch mà
thường bị liên quan với quá trình phẫu thuật hoặc
hóa trị liệu dài hạn. Tóm lại việc sử dụng PSK kết
hợp với chế độ hóa trị liệu thông thường đã cải
thiện rõ rệt tỉ lệ sống và khỏi bệnh (Nakazato và
cộng sự. Lancet. 1994; 343: 1122-1126).
Gần đây có nhiều nghiên cứu về
việc dùng chất PSK cùng với các chế độ như hóa trị
liệu, xạ trị liệu và miễn dịch trị liệu để cải thiện
tỉ lệ sống của các bệnh nhân bị ung thư thực quản
(Ogoshi và cộng sự. Cancer Investigation. 1995; 13:
363-369) và ung thư mũi-hầu (Go và Chung. Journal of
International Research. 1989; 17: 141-149). Công ty
Sankyo, Kureha tại Nhật Bản đã đưa ra trên thị
trường sản phẩm Krestin từ năm 1977 với giá 1000 Yên
cho một gói 1g. Thuốc có tác dụng điều trị các loại
ung thư đường tiêu hóa, ung thư phổi và ung thư vú.
Trong khi việc phát hiện và thử
nghiệm chất PSK được tiến hành chủ yếu ở Nhật Bản
thì chất PSP tách chiết từ nấm Vân Chi là sản phẩm
của Trung Quốc và hiệu quả an toàn của sản phẩm này
đang tiếp tục được các nhà khoa học và các nhà
nghiên cứu về ung thư điều tra và đánh giá. Kể từ
lần phát hiện đầu tiên vào năm 1983 đến nay đã có
rất nhiều tiến bộ đáng kể trong các thử nghiệm lâm
sàng trên cơ thể con người. Giai đoạn I thử nghiệm
lâm sàng được tiến hành bởi Xu (PSP International
Symposium Anthology of Theses and Abstracts. 1993;
179-182) và kết quả là việc uống 6 g PSP một ngày
cho kết quả tốt và không gây ảnh hưởng phụ. Các bệnh
nhân thấy ngon miệng và cải thiện tình hình chung
cùng với việc bình ổn các chỉ số tạo máu. Giai đoạn
II của nghiên cứu về PSP được tiến hành bởi nhóm
nghiên cứu Thượng Hải ở 8 bệnh viện ở Thượng Hải
trên các bệnh nhân bị ung thư dạ dày, ung thư phổi
và ung thư thực quản. Hơn 300 bệnh nhân tại bệnh
viện Thượng Hải đã được điều trị bằng xạ trị liệu
hoặc hóa trị liệu phối hợp với việc sử dụng PSP. Kết
quả cho thấy các biểu hiện lâm sàng cũng như các chỉ
số về máu và miễn dịch của các bệnh nhân được cải
thiện rõ rệt. Giai đoạn III thử nghiệm trên một số
lượng lớn bệnh nhân (600 người). Các nghiên cứu này
chỉ ra rằng PSP có tác dụng bảo vệ các chức năng của
hệ miễn dịch ở các bệnh nhân được điều trị một cách
thường lệ.
Nhiều nghiên
cứu cho thấy nấm Vân Chi có cả tác dụng ức chế HIV
(W.Adriaan Smith ;
http://www.naturalmedicine.co.za).
Các nghiên cứu in vitro đã chỉ ra rằng chất PSP có
thể có tác dụng hữu ích chống lại sự nhiễm virus
tuýp 1 HIV-1 (Collins và Ng. Life Sciences. 1997;
60: PL383-387). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra khả năng
của PSP làm ngăn cản sự kết hợp của virus HIV-1 với
tế bào chủ. PSP cũng có khả năng kìm hãm cao chống
lại quá trình phiên mã ngược của virus HIV-1 ở mức
độ in vitro. Sản phẩm CoriolusVPS chiết xuất
từ nấm Vân Chi chứa 36% beta 1-4,1-3,1-6 glucan
(protein-bound polysaccharide) của Hãng
Mushroomscience (Fax : 541-344-3107) có giá mỗi hộp
tới 59,95USD (chứa 90 viên nang, loại 625mg). Theo
US Patent số 4 202 969 thì thuốc này có chứa 42-43%
carbohydrate hòa tan (91-93% là betaglucan), 28-35%
là protein (amino acids), 6-7% chất tro (ash) và có
độ ẩm là 7-7,6%. Sản phẩm đóng chai mang nhãn hiệu
Trametes (http://www.
oftheearth.co.uk)
của Anh (8 oz., khoảng 227g) đắt tới 50 USD. Thuốc
này được quảng cáo có tác dụng kích thích miễn dịch,
chống virut viêm gan, phòng và chữa ung thư, chống
nhiễm khuẩn đường hô hấp, đường tiết niệu và đường
tiêu hóa. Tác dụng chữa ung thư phổi còn được chứng
minh trong công bố gần đây của K.W.Tsang và cộng sự
(Respir. Med.2003 ; 97 :618-624). Thuốc mang thương
hiệu I’m-Yunity của Công ty Winsor Health
Products (http://www.shen-nong.com)
chứa các viên nang 60 hay 100 viên nang (400mg) mang
sản phẩm của dịch chiết sợi nấm Vân Chi được xác
định là có tác dụng nâng cao năng lực miễn dịch của
cơ thể. Các tổn thương ở gan và tỉ lệ chết ở những
con chuột bị tiêm virus cúm là giảm đáng kể khi
chúng được điều trị bằng các chất
polysaccharopeptide nội bào được chiết xuất từ nấm
Vân Chi (Chen và cộng sự. Kangshengsu. 1986; 11:
390-395). Năm 1996 Dong và các cộng sự đã quan sát
thấy các polysaccharide của nấm Vân Chi có khả năng
kìm hãm sự tăng sinh của dòng tế bào ung thư gan
(HEPG2) ở người, tuy nhiên không kìm hãm được ở tế
bào gan của phôi thai người (Dong và cộng sự. Res
Commun Mol Pathol Pharmacol. 1996; 92: 140). Nhiều
nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng ngoài tác dụng
chống lại virus PSP còn có hiệu quả trong việc bảo
vệ gan khỏi các độc tố gan ở các vật nuôi thí nghiệm
và làm giảm độc tố. Một vài cơ chế được nêu ra cho
hiệu quả bảo vệ gan, trong đó có việc gắn kết trực
tiếp của PSP vào tác nhân độc tố. PSP cũng có thể
khởi động sự hình thành lại các chức năng tạo máu ở
các con chuột bị chiếu xạ. Tại Đại học Seoul (Hàn
Quốc) hiệu quả của dịch chiết xuất Vân Chi đối với
ung thư gan cũng được nghiên cứu khá kỹ với nhóm các
nhà khoa học của GS. Byong Kak Kim (http://www.
begellhouse.com/journals). Các nghiên cứu
về việc ứng dụng nấm dược liệu Vân Chi không dưới
400 công trình đã được đăng trên các tạp chí quốc tế
(http://www.mushroomscience.com)
.
Tại Trung
Quốc có rất nhiều nghiên cứu chứng minh dịch chiết
xuất nấm Vân Chi có tác dụng ức chế 40-95% đối với
sự tăng trưởng của tế bào ung thư, trong khi đó lại
không thấy có tác dụng phụ nào đáng kể (Lâm Thụ Tiền
chủ biên,Trung Quốc dược dụng khuẩn sinh sản dự
sản phẩm khai phát, Trung Quốc Nông nghiệp xuất
bản xã, 2001). Trong các năm 1975-1979 công trình
nghiên cứu của các nhà sinh học tại Đại học Sư phạm
Đông Bắc đã chứng minh sản phẩm Vân Chi Can Thái
của Xí nghiệp dược phẩm Trường Xuân có tác dụng rõ
rệt trong việc điều trị bệnh viêm gan mạn tính do
virut HBV. Năm 1981 Viện nghiên cứu kháng sinh Tứ
Xuyên đã dùng sản phẩm nuôi cấy chìm sợi nấm Vân Chi
để chiết xuất polysaccharide nội bào và ngoại bào và
phối hợp với Xí nghiệp Dược phẩm Trùng Khánh để sản
xuất ra thuốc Vân Tinh dùng để điều trị viêm
gan do virut HBV và ung thư gan nguyên phát, đã đạt
được hiệu quả tốt. Xí nghiệp Dược phẩm Lão Sơn ở Nam
Kinh đã chiết xuất polysaccharide từ nấm Vân Chi để
chế tạo ra viên nang Vân Chi đa đường dùng để
điều trị viêm gan B mạn tính và ung thư gan. Xưởng
Đông dược Thượng Hải nuôi trồng nấm Vân Chi từ bã
mía và chiết xuất ra polysaccharide dể tạo thành
thuốc Vân Chi khuẩn dùng để điều trị bệnh
viêm gan B mạn tính. Sở nghiên cứu nấm thuộc Viện
Khoa học nông nghiệp Thượng Hải đã chiết xuất
polysaccharide của nấm Vân Chi và phối hợp với xí
nghiệp dược phẩm sản xuất ra thuốc Vân Chi đa
đường CVP để điều trị cho bệnh nhân viêm gan B.
Năm 1993 các nhà sinh học ở Đại học Sư phạm Thượng
Hải đã dùng phương pháp nuôi cấy chìm để thu nhận
sợi nấm Vân Chi và phối hợp với Xí nghiệp Dược phẩm
Tân Khang để sản xuất ra thuốc Polysaccharopeptid
PSP ứng dụng trong lâm sàng, phối hợp với các
biện pháp phẫu thuật hoặc hóa trị để điều trị ung
thư phổi, ung thư đường tiêu hóa và ung thư vú.
Ngoài hai
chất PSK và PSP, Yang cùng các cộng sự (Am J. Chin.
Md. 1992; 20: 221-232) đã tách chiết được một loại
peptide khác từ dịch chiết thô của
polysaccharopeptide từ nấm Vân Chi. Chất peptide này
có hoạt tính chống ung thư cao hơn so với PSK và PSP
và có tác dụng tiềm năng với hệ miễn dịch (tăng
cường số lượng bạch cầu và lượng IgG ở chuột). Chất
peptid này có độc tính đối với các dòng tế bào ung
thư trong các thí nghiệm in vivo ở chuột (Jang và
Chen. US Patent 5,824,648. 1998).
Trung tâm nghiên cứu Công nghệ sinh học ĐH Quốc gia
Hà Nội đang xây dựng phân xưởng lên men với các nồi
lên men có điều khiển tự động để triển khai hướng
nghiên cứu tách chiết dược phẩm từ sinh khối nấm Vân
Chi. Hy vọng sẽ nhận được sự cộng tác của các Xí
nghiệp Dược phẩm trong một tương lai không xa.