Những bài cùng tác giả
 |
Hình 1: Hình thiên hà xoắn ốc NGC 613 trong chòm sao
Ngọc Phu ở bầu trời Nam Bán Cầu, chụp bằng kính
thiên văn VLT của European Southern Observatory (Tác
giả: M. Neese, P. Barthel, H. Heyer và H. Boffin)
|
Chúng ta có thể nhìn thấy bằng mắt thường hàng nghìn
ngôi sao sáng nhất trong Dải Ngân hà. Hàng tỷ những
ngôi sao khác và những thiên hà trong Vũ trụ chỉ
xuất hiện trong kính thiên văn lớn. Những thiên thể
không những chỉ phát ra ánh sáng mà còn là những
nguồn bức xạ phát trên toàn bộ phổ điện từ. Muốn
nghiên cứu các thiên thể, các nhà thiên văn cần phải
quan sát trên nhiều bước sóng, từ bức xạ gamma, X,
tử ngoại và khả kiến đến bức xạ hồng ngoại và vô
tuyến. Bản chất của bức xạ vũ trụ tùy thuộc vào điều
kiện vật lý, chẳng hạn nhiệt độ, mật độ của vật chất
và từ trường. Khí quyển trái đất hấp thụ hoặc phản
chiếu phần lớn bức xạ điện từ của Vũ trụ. Bức xạ vũ
trụ chỉ lọt qua hai “cửa sổ điện từ” rất hẹp, chủ
yếu nằm trong miền sóng khả kiến-hồng ngoại gần và
trung bình và miền sóng vô tuyến. Các nhà thiên văn
phải sử dụng những kính thiên văn phóng lên không
gian, nếu họ muốn quan sát trên những miền sóng nằm
ở ngoài hai cửa sổ điện từ. Vũ trụ là một phòng thí nghiệm vĩ đại, trong đó
những điều kiện vật lý khác nhau tạo ra nhiều hiện
tượng đôi khi không thực hiện được trong các phòng
thí nghiệm. Ngành thiên văn vật lý liên quan đến
nhiều lĩnh vực, từ toán học, vật lý, hóa học đến
sinh học. Một trong những môn đáng được chú ý của
thiên văn vật lý là vũ trụ học, môn chuyên nghiên
cứu nguồn gốc và sự tiến hóa của Vũ trụ cùng bản
chất của vật chất và năng lượng. Những môn khác
nghiên cứu quá trình vật lý tạo ra những hiện tượng
quan sát trong những thiên hà và sao và trong môi
trường giữa những ngôi sao cùng những thiên thể siêu
đặc như lỗ đen. Sự tìm kiếm những hành tinh ở ngoài
hệ mặt trời và sự sống trong Vũ trụ cũng là những đề
tài nghiên cứu. Muốn đạt được mục tiêu, các nhà
thiên văn phải sử dụng những kính thiên văn lớn,
được trang bị máy thu và phổ kế có độ nhạy và độ
phân giải cao, hoạt động trên những miền sóng phủ
tất cả phổ điện từ.
Vũ trụ học
Hubble quan sát thấy các thiên hà đều lùi xa nhau và
phát hiện là Vũ trụ dãn nở. Theo định luật Doppler,
bức xạ của những thiên hà phải dịch chuyển về phía
bước sóng dài (dịch chuyển về phía đỏ). Hai khái
niệm về Vũ trụ có tính cạnh tranh nhau đã được đề
xuất. Theo “mô hình trạng thái ổn định”, vật chất
trong Vũ trụ được tạo ra liên tục để bù trừ sự giảm
sút mật độ vật chất vì Vũ trụ dãn nở. Ngược lại, “mô
hình Big Bang” ủng hộ khái niệm Vũ trụ đột nhiên ra
đời đã khoảng 14 tỷ năm, từ một môi trường cực kỳ
đặc và nóng. Sau đó, Vũ trụ dãn nở liên tục và nguội
dần. Thuyết Big Bang, tuy chưa hoàn thiện, nhưng tỏ ra có
cơ sở tương đối vững chắc khi được đối chiếu với
những kết quả quan sát. Thuyết Big Bang được đa số
các nhà thiên văn vật lý chấp nhận. Vũ trụ ban đầu
rất nóng và bị iôn hoá. Trong môi trường plasma
nguyên thủy này, những hạt photon không di chuyển dễ
dàng vì tương tác với những hạt electron tự do. Do
đó, Vũ trụ mờ đục trong khoảng 400 000 năm đầu, cho
tới khi nhiệt độ giảm xuống còn khoảng 4000 độ
Kelvin. Khi đó, electron mới tái hợp được với ion để
sản xuất ra những nguyên tử trung hòa và Vũ trụ mới
trở nên trong sáng. Trọng lực là lực rất phổ biến trong thiên nhiên, làm
các thiên hà kết hợp với nhau thành từng chùm thiên
hà. Hình dạng và sự tiến hóa của Vũ trụ được xác
định bằng phương trình trong thuyết tương đối rộng
của Einstein, bao hàm vật chất và năng lượng. Những
phương trình này không được giải một cách tổng quát
và chi tiết, nên một số mô hình đã được đề xuất để
đơn giản hoá phương trình. Mô hình Friedmann phổ
biến nhất giả định là Vũ trụ đồng đều và đẳng hướng
trên phạm vi rộng. Vũ trụ xuất phát từ một điểm kỳ
dị có thể coi là Big Bang, sau đó cứ dãn nở, thậm
chí có khả năng sập sụp vì lực hút hấp dẫn của vật
chất. Mô hình này tỏ ra phù hợp với sự phát hiện ra
bức xạ Vi ba Phông Vũ trụ tràn ngập khắp không gian.
Bức xạ di tích này là tàn dư của vụ nổ Big Bang mà
các nhà thiên văn vô tuyến phát hiện năm 1965. Những
kết quả quan sát về sau bằng vệ tinh COBE, WMAP và
bóng thám không cho thấy bức xạ Phông Vũ trụ không
đồng đểu. Những vùng lổn nhổn vật chất trong Vũ trụ
nguyên thủy là mầm mống của những chùm thiên hà mà
các nhà thiên văn quan sát thấy hiện nay. Mô hình “Big Bang nóng” được cải tiến để giải thích
cấu trúc của Vũ trụ trên phạm vi rộng với đầy đủ chi
tiết. Vũ trụ nguyên thủy không dãn nở đồng đều.
Không lâu sau thời điểm Big Bang, Vũ trụ đột nhiên
gia tốc và phình ra trong giây lát làm kích thước
của Vũ trụ tăng lên theo số mũ. Hiện tượng “lạm
phát” này được đề xuất để giải thích sự đồng đều
trên phạm vi rộng của bức xạ Phông Vũ trụ và tính
chất bằng phẳng của Vũ trụ dựa trên những kết quả
quan sát. Những cấu trúc nhỏ không đồng đều trong Vũ
trụ, xuất phát từ những thăng giáng lượng tử, được
khuếch đại trong pha lạm phát và cuối cùng là sập
sụp để tạo ra những thiên hà. Lý thuyết dây ủng hộ quan niệm cho rằng phần tử cơ
bản của vật chất tồn tại dưới dạng những sợi dây nhỏ
li ti, thay vì những hạt cơ bản. Kích thước của dây
vũ trụ nhỏ không đáng kể so với kích thước đặc trưng
thông dụng trong những cuộc thí nghiệm thông thường.
Lý thuyết dây cần đến một không-thời gian có tối
thiểu mười chiều, chứ không phải là bốn chiều như
thường lệ. Những chiều phụ rất cong và không nhìn
thấy. Dây tuy có kích thước nhỏ nhưng có lực căng
rất lớn. Tính chất của những hạt cơ bản thông thường
được tạo ra từ những kiểu dao động của dây. Lý
thuyết dây có khả năng dẫn đến một lý thuyết lượng
tử hoá lực hấp dẫn và sẽ được dùng để nghiên cứu Vũ
trụ nguyên thủy ở thời điểm gần Big Bang, khi Vũ
trục có mật độ và độ cong cực kỳ lớn. Lý thuyết dây
sẽ có thể là “lý thuyết của đủ mọi thứ”, thống nhất
được tất cả các lực, tức là lực hạt nhân yếu và
mạnh, lực điện từ và lực hấp dẫn. Tuy nhiên, sự xác
nhận bằng thí nghiệm là dây có thật hay không vẫn
còn vượt quá khả năng của những máy gia tốc hiện
thời. Những loại sao siêu mới rất sáng (loại Ia), bùng nổ
trong những thiên hà xa xôi, được dùng làm vật chỉ
thị khoảng cách. Những thiên thể này có độ sáng nội
tại như nhau, nên độ sáng biểu kiến của chúng chỉ
phụ thuộc vào khoảng cách. Những sao siêu mới dường
như mờ hơn là theo dự đoán dựa trên kết quả đo đạc
sự dịch chuyển về phía đỏ của phổ. Những sao siêu
mới này hẳn phải ở xa hơn là dự đoán và do đó Vũ trụ
phải dãn nở ngày càng nhanh. Về mặt lý thuyết, một
tham số gọi là “hằng số vũ trụ Lamđa”, là nguyên
nhân của sự gia tốc của hiện tượng dãn nở Vũ trụ.
Hằng số này tương ứng với một lực đẩy mà lúc đầu
Einstein đã đưa vào phương trình của mình để chống
lại lực hút hấp dẫn, nhằm tìm thấy một lời giải cho
một Vũ trụ tĩnh. Về mặt vật lý, hằng số vũ trụ được
kết hợp với một loại năng lượng gọi là năng lượng
tối, có khả năng làm Vũ trụ dãn nở ngày càng nhanh.
Năng lượng này được kết hợp với năng lượng chân
không rất quen thuộc đối với các nhà vật lý hạt cơ
bản. Ngoài ra, sự quan sát bức xạ Phông Vũ trụ và
các sao siêu mới cho thấy Vũ trụ chứa tới 70% năng
lượng tối và 30% vật chất, mà đa số lại là vật chất
tối vô hình. Những kết quả này phù hợp với một Vũ
trụ phẳng chi phối bởi năng lượng tối và ở một mức
độ nào đó bởi vật chất tối. Tuy nhiên, bản chất của
những thành phần tối vẫn chưa được làm sáng tỏ. Vật
chất thường, gọi là “baryon”, là thành phần vật chất
của những ngôi sao và của môi trường giữa những ngôi
sao và cũng là những nguyên tử và phân tử trong tế
bào sinh vật trên Trái đất. Baryon chỉ chiếm 4% tổng
số vật chất trong Vũ trụ.
Môi trường giữa những ngôi sao
Môi trường giữa những ngôi sao, chủ yếu chứa khí và
bụi, cũng là một đối tượng nghiên cứu quan trọng.
Mật độ và nhiệt độ trung bình của môi trường này chỉ
là vài chục nguyên tử hydro trong một phân khối và
vài chục độ Kelvin. Mật độ và nhiệt độ như thế là
rất thấp so với những giá trị tương ứng trong môi
trường trên Trái đất. Mật độ của môi trường giữa
những ngôi sao thấp hơn khoảng mười tỷ tỷ lần mật độ
không khí mà ta thở trên Trái đất. Nhiệt độ trung
bình trên Trái đất cũng phải cao hơn 273 độ Kelvin
(0 độ Celsius). Những nguyên tử nhẹ, chủ yếu là
hyđro, đơteri và hêli được sản xuất trong những phút
đầu tiên sau Big Bang. Những nguyên tử nguyên thủy
nặng hơn và những phân tử đều được điều chế hàng
trăm triệu năm sau, trong các ngôi sao thế hệ đầu
tiên. Những vật chất này được phun vào môi trường
giữa những ngôi sao trong giai đoạn cuối của quá
trình tiến hoá của những ngôi sao, đặc biệt là qua
những vụ nổ sao siêu mới. Sự tìm kiếm phân tử trong
môi trường giữa các ngôi sao đã được tiến hành trên
quy mô lớn trong vùng sóng vô tuyến, bởi vì vạch phổ
vô tuyến dễ bị kích thích bởi những va chạm giữa
những phân tử với hyđro và bởi những bức xạ. Từ bốn
thập niên gần đây, các nhà thiên văn đã phát hiện
được trong Dải Ngân hà hơn một trăm phân tử, phần
lớn là phân tử hữu cơ. Đáng chú ý là sự phát hiện
những acid và amin, chẳng hạn acid formic (HCOOH) và
methylamin (CH3NH2). Đây là những mẩu của phân tử
glycin (NH2CH2COOH), trong đó nhóm mạch bên (gắn với
một nguyên tử carbon) là một nguyên tử hyđro đơn lẻ,
thay vì một nhóm nguyên tử. Glycin là thành viên đơn
giản nhất trong nhóm 20 acid amin thường có trong
protein. Trong ba thập niên gần đây, nhiều nhóm các nhà thiên
văn vô tuyến đã săn tìm glycin trong những vùng có
nhiều ngôi sao đang hình thành, như Tinh vân Lạp hộ
và trung tâm Thiên hà của chúng ta. Những mục tiêu
này là nơi nhiều phân tử phức tạp đã được phát hiện
và do đó, các nhà thiên văn có nhiều triển vọng để
tìm thấy glycin. Cho tới nay, họ chưa tìm được bằng
chứng nào cho thấy là có glycin trong không gian vũ
trụ. Rất có thể là những vạch phổ glycin quá yếu,
nên bị chìm trong nền bức xạ tạo ra bởi những vạch
phổ yếu khác và gây ra tình trạng lẫn lộn phổ.
Glycin có thể coi là một cái dấu sinh học, chứng
minh sự hiện diện của sự sống. Sự phát hiện ra
glycin trong không gian giữa những ngôi sao sẽ có
tác động lớn, không những đối với ngành thiên văn
hoá học, mà còn đối với vấn đề nghiên cứu nguồn gốc
của sự sống trên Trái đất và có thể cả ở những nơi
nào đó trong Vũ trụ. Tìm kiếm những hành tinh ở ngoài hệ mặt trời và dấu
vết của những hoạt động sinh học biểu lộ sự sống Chúng ta tự hỏi liệu sự sống có thể tồn tại ở một
nơi nào khác trong Thiên hà của chúng ta không?
Thiên hà có hằng hà sa số hệ sao cùng những hành
tinh quay xung quanh. Sự phát triển sự sống tương tự
như trên Trái đất là một quá trình lâu dài. Hệ mặt
trời đã được tạo ra từ 4,6 tỷ năm, nhưng loài người
nguyên thủy mới xuất hiện cách đây khoảng 3 triệu
năm. Sự sống chỉ nảy sinh trên một hành tinh có
những điều kiện lý-hoá thích hợp. Hành tinh phải ở
không quá gần và không quá xa ngôi sao trung tâm,
tức là trong “vùng ở được” của hệ sao, thuận lợi đối
với sự sống. Trong hệ mặt trời chẳng hạn, ranh giới
của “vùng ở được” cách xa Mặt trời 120 triệu và 250
triệu kilomet (0,8 và 1,6 lần bán kính của quỹ đạo
trái đất). Trái đất nằm chính giữa, hành tinh Kim và
hành tinh Hoả ở ngoài rìa. Hơn nữa, hành tinh phải
có oxi trong khí quyển và nước ở thể lỏng trên bề
mặt, hai yếu tố cần thiết cho sự sống. Những trạm tự động có bánh xe được phóng lên thám
hiểm bề mặt những hành tinh lân cận trong hệ mặt
trời, chủ yếu là hành tinh Hoả. Nước có thể đã từng
chảy trên hành tinh, nhưng nay đã bốc hơi và biến
mất. Con tàu vũ trụ Cassini đã thả trạm tự động
Huygens để thăm dò khí quyển và bề mặt Titan, vệ
tinh lớn nhất của hành tinh Thổ. Những kết quả quan
sát từ không gian cho thấy trong khí quyển Titan có
hyđrocacbon. Những vùng tối phát hiện trên bề mặt vệ
tinh có thể là những hồ mêtan lỏng. Trên Trái đất,
chất hữu cơ này tồn tại ở thể khí, nhưng vì nhiệt độ
trên Titan rất lạnh, khoảng -180 độ Celsius, nên
mêtan đọng lại thành mêtan lỏng. Hồ có thể tồn tại ở
ngoài Trái đất như trên Titan, nhưng không nhất
thiết là chứa nước. Môi trường của Titan dường như
không thích hợp cho lắm đối với loại sinh vật tương
tự như trên Trái đất. Hành tinh không tự phát ra ánh sáng, vì không nóng
như những ngôi sao để thực hiện được những phản ứng
nhiệt hạch. Hành tinh chỉ có thể phản chiếu những
bức xạ phát ra từ ngôi sao đồng hành. Trên một số
hành tinh cũng có thể có sự sống. Do đó, sự phát
hiện những hành tinh ở ngoài hệ mặt trời là điều
kiện tiên quyết cho sự tìm kiếm sự sống trong không
gian. Ngôi sao ở trung tâm hệ sao sáng hơn những
hành tinh đồng hành hàng tỷ lần. Sự tương phản giữa
ánh sáng của ngôi sao và của hành tinh cao đến mức
mà các nhà thiên văn khó phát hiện được hành tinh.
Nếu quan sát trong vùng sóng hồng ngoại trung bình
(~ 10 micro met) thì độ tương phản có thể giảm xuống
hàng nghìn lần so với vùng khả kiến. Còn có một trở
ngại nữa là khả năng phân biệt được hành tinh đồng
hành và ngôi sao, vì khoảng cách biểu kiến giữa hành
tinh và ngôi sao thường rất nhỏ. Chẳng hạn, nếu hệ
mặt trời được quan sát từ xa, ở khoảng cách 30 năm
ánh sáng, thì Trái đất chỉ cách Mặt trời 0,1 giây
cung. Trong trường hợp này, muốn có độ phân giải đủ
cao để phân biệt giữa Trái đất và Mặt trời, các nhà
thiên văn phải sử dụng kính thiên văn rất lớn có
đường kính 20 met. Các nhà thiên văn phải dùng một phương pháp gián
tiếp để phát hiện được hành tinh nhằm vượt qua những
khó khăn nói trên, bằng cách quan sát những nhiễu
loạn của sự chuyển động của ngôi sao, gây ra bởi các
hành tinh đồng hành ẩn nấp trong hệ sao. Họ đo sự
biến đổi định kỳ của tốc độ xuyên tâm (tốc độ thẳng
góc với nền trời) của ngôi sao, do lực hấp dẫn đổi
hướng khi hành tinh quay xung quanh ngôi sao. Khi
dùng phương pháp này, các nhà thiên văn thường phát
hiện được những hành tinh lớn, vì chúng dễ làm nhiễu
sự chuyển động của ngôi sao. Cho đến nay, với kỹ
thuật đo tốc độ sao, họ đã phát hiện được hơn 200
hành tinh, đa số lớn hơn cả hành tinh Mộc. Hành tinh
khổng lồ này nặng gấp 320 lần Trái đất. Mới đây, họ
sử dụng một phổ kế có độ phân giải cao để đo sự thay
đổi tốc độ chỉ nhỏ khoảng vài met/giây. Các nhà
thiên văn đã tìm thấy một hành tinh chỉ nặng bằng 5
lần Trái đất. Những nhận xét dựa trên khối lượng
tương đối thấp của hành tinh cho thấy thiên thể này,
thuộc hệ sao GI 581, có khả năng là một hành tinh có
vỏ đá rắn loại Trái đất. Hơn nữa, “Siêu địa cầu” này
còn nằm trong “vùng ở được” của hệ sao, nên có thể
có sự sống. Muốn phát hiện những hành tinh nhỏ như
Trái đất, các nhà thiên văn còn phải sử dụng những
phổ kế có khả năng đo được những thay đổi tốc độ với
độ chính xác khoảng 0,1 met/giây. Độ chính xác cao
như thế khó có thể đạt được nếu họ dùng kỹ thuật đo
tốc độ xuyên tâm. Một phương pháp khác dùng để phát hiện những hành
tinh ở ngoài hệ mặt trời là đo độ giảm ánh sáng, tuy
rất thấp, của ngôi sao, mỗi khi hành tinh quay qua
trước mặt ngôi sao. Cơ quan Vũ trụ Châu Âu, ESA, đã
phóng trong năm 2006 một vệ tinh được thiết kế riêng
để phát hiện hành tinh bằng phương pháp đo độ giảm
ánh sáng. Các nhà thiên văn hy vọng quan sát được
hàng trăm nghìn ngôi sao, nhằm phát hiện những hành
tinh có vỏ đá rắn nhỏ như Trái đất. Một phương pháp để phát hiện trực tiếp hành tinh
trong những hệ sao là tìm cách làm tắt ánh sáng chói
lọi của ngôi sao, mà chỉ để lộ ra ánh sáng yếu ớt
của hành tinh đồng hành. Đây chính là mục tiêu của
đề án Darwin đầy tham vọng của ESA. Đề án này sử
dụng kỹ thuật giao thoa để che ánh sáng của ngôi
sao. Hệ Darwin gồm có sáu kính thiên văn phóng lên
không gian ở độ cao 1,5 triệu kilomet và được sắp
xếp theo hình sáu cạnh. Hệ kính quay xung quanh Mặt
trời với tốc độ quay của Trái đất. Những kính thiên
văn hoạt động tương quan với nhau thành một mạng
giao thoa, tạo ra những “vân” sáng và những “vân”
tối. Mạng giao thoa được điều chỉnh để ánh sáng đến
từ hướng ngôi sao bị lệch pha và giảm đi (một vân
tối trùng với vị trí của ngôi sao), còn ánh sáng từ
hướng hành tinh có cùng pha nên tăng lên (một vân
sáng trùng với vị trí của hành tinh). Kỹ thuật hiện
đại tinh vi này, tuy thường dùng trên mặt đất trong
thiên văn vô tuyến, nhưng rất khó thực hiện trong
không gian. Vị trí của mỗi kính thiên văn cần phải
hết sức ổn định. Darwin cũng sẽ được dùng để phân
tích khí quyển của những hành tinh loại Trái đất
phát hiện trong tương lai và để tìm kiếm những hoá
chất như oxi, ôzôn, cacbon dioxid, mêtan và nước.
Những phân tử này là dấu vết của những hoạt động
sinh học trên Trái đất. Darwin sẽ là một đề án đầy
hứa hẹn để tìm thấy những hành tinh có những điều
kiện vật lý dẫn đến sự nảy sinh ra sự sống ở ngoài
Trái đất.
Triển vọng
Bức xạ vũ trụ thu được trong những kính thiên văn
quang học và vô tuyến là những bức xạ rất yếu. Những
thiên hà xa xôi chỉ sáng như một ngọn nến thắp trên
Mặt trăng và quan sát từ Trái đất. Các bức xạ vô
tuyến vũ trụ yếu hơn hàng tỷ lần tín hiệu thu được
trong máy truyền hình. Kỹ thuật giao thoa rất phổ
biến hiện nay có mục tiêu kết hợp một mạng kính
thiên văn hoạt động tương quan với nhau, nhằm tăng
thêm rất nhiều độ phân giải không gian của hệ kính.
Bức xạ vô tuyến của phân tử, phát ra từ vùng những
ngôi sao đang được hình thành, đều được khuếch đại
bởi hiệu ứng maser. Maser vũ trụ là những nguồn bức
xạ mạnh vô cùng và tập trung thành những đốm nhỏ li
ti. Phép đo giao thoa là kỹ thuật rất thích hợp để
nghiên cứu những nguồn bức xạ này. Hệ giao thoa ALMA
là một trong những đề án thiên văn vô tuyến quốc tế
lớn nhất của thập niên sắp tới. Hệ ALMA là một tập
hợp gồm 64 antenne, mỗi antenne có đường kính 12 met,
hoạt động trên những bước sóng milimet. Hệ giao thoa
được đặt trên một cao nguyên tại miền bắc nước Chili
ở độ cao 5000 met. Những antenne có thể được đặt tại
hàng trăm vị trí rải rác trên 18 kilomet. ALMA thuộc
thế hệ kính giao thoa khổng lồ hiện đại, được thiết
kế để quan sát tỉ mỉ những thiên thể phát ra những
bức xạ yếu ớt. Dụng cụ vô tuyến này sẽ được dùng để
nghiên cứu cơ chế hình thành của những ngôi sao và
hành tinh, cùng những bức xạ của khí và bụi phát ra
bởi những thiên hà tạo ra từ thời đại xa xưa, không
lâu sau Big Bang. Phép đo giao thoa cũng được dùng trong miền sóng khả
kiến. Hệ “Kính Thiên văn rất Lớn” (VLT), gồm bốn
kính 8 met đường kính và một số kính nhỏ hơn, được
đặt trong một bãi sa mạc tại miền bắc nước Chili ở
độ cao 2600 met. Hệ kính này có thể hoạt động trên
phương thức giao thoa. Các nhà thiên văn sử dụng hệ
kính VLT để phát hiện những chi tiết rất nhỏ và mờ
trong những thiên thể, tương ứng với một nhà du hành
vũ trụ đi trên Mặt trăng. Nguồn gốc và sự tiến hoá
của Vũ trụ và sự tìm kiếm hành tinh loại Trái đất
cũng có thể là những mục tiêu nghiên cứu của kính.
Nhờ có những dụng cụ quan sát lớn đặt trên mặt đất
và phóng lên không gian và những máy thu tối tân làm
bằng chất bán dẫn và siêu dẫn, cùng những phát triển
về mặt lý thuyết, mà các nhà thiên văn sẽ quan sát
rất sâu trong Vũ trụ (Hình 1), nhằm khám phá được
những hiện tượng thiên nhiên bất ngờ và hấp dẫn.
Tài liệu tham khảo
1. Françoise Combes, Nguyen-Quang-Rieu and Georges
Wlodarczak: 1996, Search for interstellar glycine
(Astronomy & Astrophysics, Vol. 308, p. 618). 2. Fred Hoyle, Geoffrey Burbidge and Jayant V.
Narlikar: 2000, A Different Approach to Cosmology
from a Static Universe through the Big Bang towards
Reality (ed. Cambridge University Press). 3. Patrick Peter and Jean-Philippe Uzan: 2005,
Cosmologie primordiale (ed. Belin, Paris). 4. S. Udry, X. Bonfils et al. 2007, The HARPS search
for southern extra-solar planets. Super-Earth (5 & 8
Earth masses) in a 3-planet system (Astronomy &
Astrophysics, Vol. 469, No.3, p. L43).
Đã đăng trên Viplok ngày 7/7/2007 |