Những bài cùng tác giả
Chúng ta thường báo cáo thành tích và tiềm lực khoa
học qua số GS, TS, số đề tài khoa học các loại được
thực hiện. Trong khi đó, trên trường quốc tế, người
ta đánh giá khả năng và kết quả hoạt động khoa học
của các cơ quan khoa học và các quốc gia qua số công
trình công bố trên tạp chí quốc tế theo ISI
(Institute for Scientific Infomation) hay SCI
(Science Citation Index - mức lựa chọn trong ISI) và
số bằng phát minh, sáng chế. Vào website các đại học quốc tế, chúng ta dễ dàng
tìm thấy các nhà khoa học và danh mục công trình
chính của họ là các bài báo đăng trên tạp chí quốc
tế. Bởi vậy, thật không bình thường là ở Việt Nam,
các viện nghiên cứu và các đại học cơ sở đều không
có được các thông tin tổng hợp định kỳ và danh mục
công trình tương tự của các cán bộ khoa học chuyên
môn. Website của các cơ sở này chỉ chứa đựng các thông
tin chung chung và hình thức về tổ chức bộ máy, các
quan chức cùng các hướng chuyên môn gắn với tên của
các quan chức đó mà cũng thường được coi là các ưu
tiên chính của cơ sở cả về kinh phí và nhân lực phục
vụ. Lảng tránh chuẩn mực quốc tế, khoa học Việt Nam sẽ
không thể phát triển để tạo cơ sở cho một nền kinh
tế hội nhập có sức cạnh tranh trong tương lai. Những thông tin khách quan chúng ta có được gần đây
từ các cơ quan quốc tế cho thấy, xếp hạng trình độ
khoa học công nghệ của chúng ta (chủ yếu được đánh
giá qua số công bố quốc tế và bằng phát minh sáng
chế) là rất thấp, không chỉ so sánh với quốc tế nói
chung mà là ngay cả với các nước trong khu vực,
ngoại trừ một số thành tích được thừa nhận trong
giáo dục phổ cập. Các thống kê của GS. Phạm Duy Hiển từ các nguồn quốc
tế đã cho những con số rất đáng ngại: Các công bố
quốc tế của chúng ta còn thua xa một trường đại học
của Thái Lan và các kết quả nghiên cứu đạt chuẩn mực
quốc tế dựa trên nội lực của chúng ta đã kém lại hầu
như không tăng trong những năm qua - trái với quy
luật thông thường. Thực tế là như vậy, bất kể kinh phí nghiên cứu và số
đề tài các cấp đang được tăng mạnh trong thời gian
qua. Số lượng đầu ra quả cũng có tăng, nhưng chỉ là
ở con số những sản phẩm dễ dãi, nặng về hình thức và
giá trị, đáng ngờ là các báo cáo tổng kết các đề
tài, các báo cáo hội nghị và ấn phẩm địa phương
không định lượng được theo các tiêu chuẩn quốc tế. Công bố quốc tế là thước đo của các nhà khoa học khi
các công trình của họ được kiểm định nghiêm ngặt bởi
các chuyên gia ẩn danh hàng đầu am hiểu lĩnh vực
chuyên môn sâu. Đó không chỉ là trách nhiệm chuyên
môn suốt đời của một nhà khoa học chuyên nghiệp đóng
góp phần mình cho nghề nghiệp, mà điều quan trọng
không kém là buộc họ phải liên tục học hỏi, cập nhập
thông tin quốc tế để giữ được trình độ của mình (từ
đó mới có thể làm mới) trong một nền khoa học và
công nghệ liên tục vận động phát triển như hiện nay.
Các nhà khoa học chuyên nghiệp ở các đại học và viện
nghiên cứu đều phải đi theo con đường đó, dù họ làm
nghiên cứu cơ bản hay ứng dụng, trong khoa học tự
nhiên hay kỹ thuật, công nghệ, dù họ xuất xứ từ các
nền khoa học tiên tiến Âu, Mỹ, Nhật, Hàn ngày nay
hay từ các nước anh em Đông Âu gần gũi với ta xưa
kia, cho tới các láng giềng Trung Quốc, Thái Lan,
Philippine bên cạnh. Câu phương ngôn ở các ĐH Mỹ:
"Công bố (bài báo khoa học) hay là chết" [Publish or
Perish] đã thể hiện súc tích thực tế đó. Một số các đề tài nghiên cứu khoa học ứng dụng có
thể dẫn ngay tới các kết quả là các sản phẩm mới,
công nghệ mới với hiệu quả kinh tế đo được. Tuy
nhiên, đa số các đề tài nghiên cứu cơ bản hay ứng
dụng còn cần các phát triển tiếp theo trong khi giúp
nâng cao nền khoa học công nghệ nước nhà (bởi vậy và
nhờ vậy nó mới được cấp kinh phí bao cấp). Tuy chưa
có hiệu quả kinh tế ngay thì mỗi đề tài cũng phải
chứa đựng các kết quả mới được kiểm định theo tiêu
chuẩn quốc tế. Khoa học hiện nay đã phát triển rất rộng và chuyên
sâu. Nếu không dựa trên cơ sở chuẩn mực khách quan
đủ tin cậy là bằng sáng chế, phát minh và bài báo
quốc tế, không có một cơ quan quản lý hay hội đồng
chuyên môn nào của chúng ta có thể đánh giá đúng đắn
và công tâm được một đề tài nghiên cứu dù là khoa
học cơ bản hay ứng dụng, một nhà chuyên môn dù anh
ta có bằng cấp cao đến đâu đi nữa. Sản phẩm chuẩn
mực quốc tế chính là tiêu chí "thị trường" của khoa
học. Khoa học Việt Nam cần một động lực mới
Điều đáng lo cho khoa học Việt Nam là số nhà khoa
học tâm huyết của chúng ta đạt tới trình độ công bố
quốc tế SCI hiện còn ít. Tối thiểu là những đầu tàu
này cần được tạo điều kiện vật chất tốt hơn để phát
triển và làm gương cho các đồng nghiệp khác từ trang
thiết bị tối thiểu làm việc, mua sắm tài liệu, dự
hội nghị quốc tế tới phụ cấp thu nhập. Điều này hoàn
toàn nằm trong khả năng của Quỹ nghiên cứu và phát
triển khoa học và công nghệ quốc gia. Nhiều nhà khoa học hiện nay ở Việt Nam có thu nhập
cao từ các đề tài nghiên cứu bao cấp dù nhiều kết
quả của họ không rõ ràng về giá trị thực tiễn cũng
như ý nghĩa khoa học. Nhưng số nhỏ "nhà khoa học đạt
tới trình độ công bố SCI" lại thường không được rơi
vào nhóm đó do bị "cơ chế cũ" bỏ qua. Một số người phải ra nước ngoài làm thuê kiếm tiền,
dẫn tới nghịch cảnh là công bố quốc tế ở ta chủ yếu
do cộng tác quốc tế (trong khi ở Thái Lan thì lại từ
nội lực là chính - thống kê của GS. Phạm Duy Hiển).
Một số TS trẻ đã có thành tích công bố quốc tế ở
nước ngoài trở về phải lo dạy thêm và chật vật kiếm
sống, không tập trung được vào chuyên môn. Họ sẽ bị
thui chột dần và rơi vào lối mòn của các bậc đàn
anh. Nếu chúng ta cư xử bình đẳng: cấp kinh phí nghiên
cứu cơ bản ứng theo điểm công trình những năm gần
đây nhất, số TS trẻ đã có vốn kết quả nghiên cứu ở
nuớc ngoài sẽ thi đua được với các đồng nghiệp thâm
niên kể cả nhiều vị chức bậc cao để có kinh phí làm
chuyên môn và thêm thu nhập thay cho làm ngoài. Để hiện đại hoá khoa học Việt Nam, Bộ KH-CN và Bộ
GD-ĐT cần quan tâm tới các nhà khoa học trẻ. Cử họ
đi đào tạo ở các nền khoa học tiên tiến chưa đủ. Cần
phải tạo điều kiện cho họ phát huy tài năng, tiếp
tục phát triển những kiến thức đã có được, đừng để
họ bị các đàn anh cấp trên ở cơ sở lấn át và đẩy vào
đường mòn phi khoa học. Hãy dựa vào họ để giúp đổi mới khoa học Việt Nam.
Hãy đảm bảo với họ rằng nếu họ nghiên cứu khoa học
đạt tới chuẩn mực quốc tế, họ sẽ được đảm bảo thu
nhập đủ để không phải làm thêm ngoài chuyên môn,
điều kiện làm việc tương ứng với tài năng, và được
thăng tiến nhanh trong nghề nghiệp. Đừng để những
thói quen làm khoa học nghiệp dư xuất phát từ những
khó khăn kéo dài của thời kỳ bao cấp vốn đã thấm đẫm
trong số đông cán bộ khoa học của chúng ta cản trở
các yếu tố tích cực và thế hệ trẻ được đào tạo để
hướng tới hội nhập. Đòi hỏi chuẩn mực quốc tế cũng
sẽ giúp chúng sắp xếp tổ chức lại các cơ sở nghiên
cứu và đội ngũ cán bộ khoa học thành các bộ phận
nghiên cứu hay triển khai theo tinh thần Nghị quyết
115. Cũng như quốc tế, chúng ta cần có các mức ĐH nghiên
cứu và ĐH giảng dạy là chính, để đáp ứng các mức nhu
cầu khác nhau của xã hội. Đối với các ĐH hàng đầu,
phải hạn chế giờ dạy và làm thêm ngoài của các giảng
viên, đồng thời nâng đòi hỏi về kết quả nghiên cứu
đối với họ, tài trợ kinh phí nghiên cứu và thu nhập
thêm cho họ thông qua kết quả nghiên cứu theo chuẩn
mực nghiêm ngặt. Các ĐH hàng đầu, viện nghiên cứu phải phấn đấu tăng
số bài báo công bố khoa học đạt chuẩn mực quốc tế
SCI (ISI) và số tác giả có các công bố đó. Ngành nào
và nơi nào công bố còn yếu (đối chiếu so sánh với
quốc tế và các nước trong khu vực), ta cần ưu tiên
cử người đi nước ngoài đào tạo, tăng cường đầu tư
trang thiết bị nghiên cứu tương ứng, và chấn chỉnh
công tác quản lý. Lãnh đạo các cơ sở phải chịu trách
nhiệm nếu kết quả nghiên cứu chuẩn mực quốc tế của
cơ sở không tương xứng với vốn đầu tư và kinh phí
nghiên cứu được giao. Như một số nhà khoa học đã nói, công bố quốc tế còn
là một thành tố văn hóa của khoa học Việt Nam để xây
dựng vị thế của mình và đem đến cho chúng ta sự tôn
trọng quốc tế. Chúng ta cũng có khả năng và biết
phấn đấu vươn lên đóng góp phần mình chứ không chỉ
biết đi theo và bắt chước. Không có tinh thần đó và
chính sách khuyến khích hợp lý thì không thể mơ một
ngày Việt Nam sánh vai được với các cường quốc năm
châu.
Đã đăng trên VietnamNet |