Những bài cùng tác giả Các công trình nghiên cứu được công bố trên các tập
san này thường trải qua quá trình bình duyệt nghiêm
chỉnh về ý tưởng và phương pháp thực hiện. Đó là
tiêu chuẩn số 1 để đề bạt các chức vụ giáo sư trong
đại học, và phản ánh năng suất khoa học của một
nước. Các công trình nghiên cứu khoa học thường do các
nghiên cứu sinh cấp thạc sĩ hay tiến sĩ, các giáo sư
hay phó giáo sư thực hiện. Theo sách Khoa học và
công nghệ Việt Nam, tính đến cuối năm 2003, nước ta
có 2 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng,
trong đó có 14.000 tiến sĩ và 20.000 thạc sĩ. Theo
một thống kê chưa đầy đủ, nước ta có khoảng 6.000
người mang chức danh giáo sư và phó giáo sư, đó là
một lực lượng khoa bảng khá lớn so với các nước
trong vùng. Với một lực lượng khoa học như thế, câu hỏi đặt ra
là năng suất khoa học của nước ta so với các nước
trong vùng thời gian qua như thế nào? Để trả lời câu
hỏi này, chúng ta có thể tham khảo các dữ liệu của
Viện Thông tin khoa học (Institute of Scientific
Information) về các ấn phẩm khoa học từ Việt Nam.
Ấn phẩm khoa học từ Việt Nam trong 10 năm qua
Năm 2007, Bộ Khoa học và công nghệ hoàn lại cho ngân
sách nhà nước 125 tỉ đồng vì không phân phối hết cho
các đề án nghiên cứu. Năm trước đó, con số được Bộ
KH-CN hoàn trả lên đến 321 tỉ đồng.
Trung bình mỗi giáo sư và phó giáo sư nước ta công
bố 0,58 bài báo trong vòng 10 năm qua!
Trong thời gian 10 năm (từ 1996-2005), các nhà khoa
học nước ta công bố 3.456 công trình nghiên cứu khoa
học trên các tập san quốc tế. Đặt mối tương quan giữa con số này với số lượng giáo
sư và phó giáo sư (những người đáng lẽ phải nghiên
cứu khoa học), trung bình mỗi giáo sư và phó giáo sư
nước ta công bố 0,58 bài báo trong vòng 10 năm qua!
Nói cách khác, cứ hai giáo sư mới có khoảng một công
bố quốc tế trong vòng 10 năm. Các nước trong vùng
như Thái Lan, Malaysia và Singapore, các đại học đặt
ra tiêu chuẩn hay khuyến khích mỗi giáo sư cần có ít
nhất một công bố quốc tế trong vòng hai năm. Ở các
nước tiên tiến hơn, mỗi giáo sư phải có ít nhất một
công bố quốc tế trong thời gian đó, nếu không thì
chức vụ giáo sư có thể lung lay. Con số ấn phẩm khoa học từ nước ta đã ít, so với các
nước khác trong vùng thì thuộc vào hàng thấp nhất.
Thật vậy, số lượng công bố quốc tế của các nhà khoa
học nước ta chỉ bằng 1/5 số lượng từ Thái Lan
(14.594 bài trong cùng thời gian), 1/3 Malaysia
(9.742 bài), 1/14 Singapore (45.633 bài). Ngay cả so
với Indonesia (4.389 bài) và Philippines (3.901
bài), con số công bố quốc tế nước ta cũng thấp hơn.
Lĩnh vực nghiên cứu nào mạnh và yếu của nước ta?
Khoảng 1/5 các công trình nghiên cứu khoa học từ
Việt Nam liên quan đến các ngành y sinh học. Con số
này ở Thái Lan là 43%. Các công trình nghiên cứu
khác có thể thuộc vào lĩnh vực yếu của Việt Nam là:
môi trường (chiếm 4% tổng số công bố quốc tế), kinh
tế (2,5%), công nghệ sinh học (1,3%) và nhân văn -
xã hội học (1,6%). Tuy nhiên, số lượng công trình liên quan đến ngành
toán và vật lý từ Việt Nam chiếm gần 1/4 tổng số bài
báo khoa học và đây là lĩnh vực mạnh của nước ta so
với các nước trong vùng như Thái Lan, Malaysia,
Indonesia và Philippines, con số này chỉ dao động từ
0,5 - 4%. Trong điều kiện còn thiếu thốn về cơ sở vật chất
nghiên cứu và thiếu thốn chuyên gia, phần lớn
(khoảng 80%) các nghiên cứu khoa học ở nước ta đều
phải hợp tác với nước ngoài. Chỉ có 20% các công
trình nghiên cứu từ Việt Nam là do nội lực (tức hoàn
toàn do người Việt thực hiện). Tuy nhiên, tỉ lệ nội lực dao động rất lớn giữa các
ngành; chẳng hạn như trong ngành y sinh học, chỉ có
3% là do nội lực, phần còn lại nhờ hợp tác với nước
ngoài. Riêng ngành công nghệ sinh học, 100% các công
bố quốc tế là do hợp tác với nước ngoài. Tuy nhiên,
các ngành có tỉ lệ nội lực cao là toán (66%), kỹ
thuật (gần 40%) và kinh tế học (41%). Về chất lượng nghiên cứu khoa học cũng rất đáng quan
tâm. Một công trình nghiên cứu khoa học có giá trị
thường được đồng nghiệp trên thế giới trích dẫn. Do
đó, một cách khác để gián tiếp đánh giá chất lượng
là xem xét tỉ lệ các bài báo được trích dẫn. Tính chung, khoảng 1/5 các bài báo khoa học từ Việt
Nam chưa bao giờ được trích dẫn sau năm năm công bố.
Đây cũng là tình trạng chung ở các nước trong vùng,
với tỉ lệ chưa bao giờ trích dẫn (trong vòng 5 năm)
được ghi nhận tại Thái Lan (15%), Malaysia (19%),
Indonesia (19%), Philippines (13%) và Singapore
(17%). Phân tích chi tiết cho thấy các công trình nội lực
thường có chất lượng thấp hơn các công trình hợp tác
với nước ngoài. Tính trung bình mỗi công trình nội
lực được trích dẫn 3,2 lần, trong khi đó công trình
hợp tác có chỉ số trích dẫn trung bình là 11,6 lần.
Cần cải cách trong quản lý nghiên cứu khoa học
Các phân tích trên cho thấy “sản lượng” khoa học của
nước ta vẫn còn rất khiêm tốn so với các nước trong
vùng (chứ chưa nói đến thế giới). Nếu (xin nhấn mạnh
“nếu”) mức độ tăng trưởng số bài báo khoa học của
Việt Nam là 41 bài/năm (như ước tính từ phân tích
này) và chúng ta bắt đầu với 202 bài năm 1996, thì
phải cần đến 60 năm sau chúng ta mới bắt kịp số
lượng bài báo của Thái Lan vào năm 2005! Các nghiên cứu khoa học ở nước ta vẫn chủ yếu tập
trung vào các ngành mang tính lý thuyết (như toán
học và vật lý lý thuyết) và còn rất yếu trong các
lĩnh vực ứng dụng như khoa học đời sống và môi
trường. Trong quá trình phát triển kinh tế, chúng ta cần
nhiều nghiên cứu ứng dụng hơn là lý thuyết. Điều này
đặt ra định hướng và chính sách về nghiên cứu khoa
học trong tương lai phải tập trung vào các lĩnh vực
phục vụ sức khỏe và kinh tế của Việt Nam. Một điều rất đáng quan tâm là nền khoa học nước ta
hiện nay còn lệ thuộc quá lớn vào các đồng nghiệp
nước ngoài. Trong ngành y sinh học, một ngành tương
đối mạnh ở nước ta, chỉ có 2% trong số các công
trình được công bố trên các tập san quốc tế là do
nội lực, 98% còn lại là do hợp tác hay đứng tên
chung cùng các nhà khoa học nước ngoài. Thật ra, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu là một
điều tốt trong hoạt động khoa học hiện đại, nhưng
hợp tác như thế nào để thành quả và tri thức khoa
học dựa trên chất liệu của Việt Nam vẫn là của người
Việt Nam mới là vấn đề mà chúng tôi đã nêu ra gần
đây. Nhất là hiện tượng “hợp tác khoa học theo kiểu nhảy
dù”, trong đó các tác giả Việt Nam chỉ là “lính đánh
bộ” và sở hữu tri thức vẫn là tác giả nước ngoài, dù
chất liệu nghiên cứu là từ Việt Nam và của người
Việt Nam! Đầu tư cho khoa học và công nghệ (KHCN) ở nước ta
còn rất khiêm tốn so với các nước trong vùng. Trong
năm 2006, nước ta đầu tư 428 triệu USD cho KHCN,
chiếm khoảng 0,17% GDP toàn quốc. Theo số liệu của UNESCO, Singapore là nước (trong
vùng) có đầu tư cho KHCN cao nhất với 2,2% GDP
(tương đương 3,01 tỉ USD), kế đến là Malaysia (0,5%
GDP hay 1,54 tỉ USD), Thái Lan (0,3% GDP hay 1,79 tỉ
USD). Tuy nhiên, tính trên GDP, đầu tư cho KHCN ở
nước ta vẫn còn cao hơn Indonesia (0,05% GDP) và
Philippines (0,12% GDP). Nhưng ở nước ta đang có một nghịch lý rất đáng quan
tâm: trong khi nhiều đề án nghiên cứu thiếu kinh phí
thực hiện thì ngân sách dành cho nghiên cứu khoa học
lại không phân phối hết. Hai sự thật trên đặt ra vấn đề phân phối ngân sách
nghiên cứu khoa học sao cho công bằng và hợp lý. Đã
có nhiều ý kiến cho rằng mô hình quản lý khoa học
như hiện nay chưa đem lại hiệu quả như mong muốn, vì
những bất cập trong việc quản lý và phân phối ngân
sách. Có thể nhìn cách phân phối kinh phí hiện nay ở nước
ta như là một cuộc đấu thầu xây dựng, và các đề tài
nghiên cứu đôi khi không phải xuất phát từ nhu cầu
thực tế cũng như không theo kịp trào lưu và định
hướng của khoa học quốc tế. Cần đảm bảo tính công
bằng và minh bạch trong vấn đề xét duyệt đề tài
nghiên cứu. Cũng cần nên xem lại qui trình nghiệm
thu đề tài vốn không giống bất cứ nước nào trên thế
giới. Cần phải xem công bố quốc tế là tiêu chuẩn số 1 để
đề bạt chức vụ (chứ không phải chức danh) giáo sư.
Hệ thống đề bạt giáo sư ở nước ta vẫn dựa vào các
tiêu chuẩn “nội địa” mà không mấy quan tâm đúng mức
đến chuẩn mực quốc tế. Đại đa số tiến sĩ nước ta
không hay chưa bao giờ có các bài báo trên các tập
san khoa học quốc tế. Ngoài ra, theo thống kê, hiện nay chúng ta có đến
70% tiến sĩ không làm nghiên cứu mà chỉ làm các chức
vụ hành chính và quản lý. Hệ quả là tuy trên giấy tờ
nước ta có đến 14.000 tiến sĩ và 6.000 giáo sư,
nhưng năng suất khoa học thì quá thấp để có thể so
sánh với các nước trong vùng. Có thể nói hoạt động nghiên cứu khoa học ở nước ta
đang tụt hậu so với sự phát triển kinh tế; do đó để
nâng cao hiệu suất khoa học, Nhà nước cần phải cải
cách hệ thống quản lý khoa học ngay từ bây giờ chứ
không nên đợi đến vài năm nữa, khi các nước trong
vùng ngày càng bỏ xa ta. |