Khoa học và đại học Việt Nam qua những công bố quốc tế gần đây |
Vietsciences- Phạm Duy Hiển 14/11/2008 |
Điều “an ủi” là năng suất NCKH của Việt Nam vẫn cao gấp ba lần Indonesia và từ 2004 trở đi đã vượt Philippines, nước này chỉ giữ được tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 3-4%. Trung Quốc tăng trưởng nhanh nhất, hơn 20%/năm. Họ đã vượt Thái Lan và sắp đuổi kịp Malaysia. Singapore đứng đầu bảng trong khu vực, có năng suất NCKH cao hơn Malaysia, Thái Lan và Việt Nam gấp 20, 30 và 200 lần. Cứ một nghìn người Singapore có trên 01 bài báo quốc tế hàng năm. Tiếp sau Singapore là Nhật Bản và ba con rồng châu Á. Nhưng phát triển đến trình độ càng cao, tăng trưởng càng chậm, Hàn Quốc và Đài Loan: 11%/năm, Singapore: 10%/năm, Hồng Kông: 7%/năm, Nhật Bản: 1%/năm. Thoạt nhìn, có thể nghĩ rằng sự khác biệt về năng suất NCKH giữa các nước là do chênh lệch về mức sống. Có thực mới vực được đạo. Nhưng người Philippines và Indonesia thu nhập gấp đôi Việt Nam lại công bố ít hơn chúng ta từ 1,3 đến 3 lần. Phép phân tích tương quan cho thấy trong phạm vi Đông Á, năng suất NCKH có tương quan ít nhiều với bình quân GDP (R2 = 0,64), nhưng không mạnh bằng tương quan với chỉ số phát triển con người hdi của Liên Hiệp Quốc bao gồm cả những tiêu chí về giáo dục và tuổi thọ (R2 = 0.91, hình 2). Lại một lần nữa, phát triển kinh tế một chiều sẽ không đưa chúng ta đến những đỉnh cao khoa học, công nghệ và văn hóa. Hình 1. Năng suất NCKH thể hiện bằng số công bố quốc tế trên một triệu dân của các nước Đông Á. Độ dốc của những đường hồi quy trên đây cho ta ý niệm về tốc độ tăng trưởng năng suất NCKH. Nguồn: ISIKNOWLEDGE (http://db.vista.gov.vn/) cập nhật ngày 30/10/2008, UNDP Human Development Reports. ![]() Hình 2. Tương quan mạnh giữa năng suất NCKH với chỉ số phát triển con người ở các nước Đông Á. Nguồn: ISIKNOWLEDGE (http://db.vista.gov.vn/) cập nhật ngày 30/10/2008, UNDP Human Development Reports.
![]() Bức tranh NCKH ở Đông Á trên hình 1 khẳng định công bố quốc tế là mệnh lệnh từ sự phát triển, không thể tránh né bằng bất cứ lập luận nào. Ở mọi nước khác, người ta xem đây như một chuẩn mực đương nhiên trong NCKH, bảo đảm chất lượng đào tạo đại học và hiệu quả ứng dụng các hoạt động R&D trong thực tiễn. Đánh giá chất lượngSong bài báo quốc tế trong ISI cũng đủ loại. Trước hết, giá trị học thuật của bài báo thường căn cứ trên hệ số tác động của tạp chí mà tác giả gửi đăng. Hệ số này đo bằng số lần trích dẫn trung bình trong hai năm của tạp chí. Đây là thương hiệu của tạp chí, nên không dễ gì “ứng tiền” mua chuộc tòa soạn để được lãnh 1000 USD tiền thưởng, như một số người đàm tiếu khi nghe chủ trương này của Bộ GD-ĐT. Trong mỗi tạp chí, số lần trích dẫn của từng bài cũng rất khác nhau, và nhiều người xem đây như một tiêu chí đánh giá chất lượng. Cách làm này thuận tiện vì có thể số hóa để đưa vào cơ sở dữ liệu. Song nó không tránh khỏi khiếm khuyết. Thí dụ, bài báo được trích dẫn 5 lần chưa chắc có chất lượng hơn 3 lần, nhất là khi so sánh hai chuyên ngành khoa học khác nhau. Bởi vậy dưới đây, chúng tôi chỉ xem số lần trích dẫn như một tiêu chí thống kê, trung bình, dùng để so sánh chất lượng NCKH ở những trung tâm nghiên cứu lớn, đa ngành, thí dụ trường đại học, hoặc các quốc gia (bảng 2). Bảng 2, 3 so sánh thành tích một số đại học hàng đầu Việt nam và Thái Lan theo thống kê năm 2004 và 2007. Hơn 95% công bố quốc tế của Thái Lan xuất phát từ trường đại học, trong khi ở Việt Nam tỷ lệ này chỉ có 55%. Ngoài hai Đại học Chulalongkorn và Mahidol (bảng 2, 3), Thái Lan còn có nhiều đại học khác như Chiang Mai, Khon Kaen, Prince Songkla, Thammasat, Viện Công nghệ châu Á v.v..., mỗi trường đều công bố vài trăm bài báo quốc tế hàng năm. Số bài báo quốc tế của các trường đại học hàng đầu Việt Nam tăng lên khá nhanh trong vài năm gần đây, gấp đôi sau ba năm (2004-2007). Trong khi đó, Viện KHCN VN, cơ sở khoa học lớn nhất nước, chỉ tăng 18%. Tăng nhanh, song các đại học hàng đầu Việt Nam vẫn công bố ít hơn Đại học Chulalongkorn và Mahidol từ 13 đến 30 lần. Từng trường này còn công bố nhiều hơn tất cả các cơ sở NCKH Việt Nam cộng lại. Đại học Thái Lan cũng được trích dẫn nhiều hơn rõ rệt, trung bình 9,4-11 lần, so với 4,1-6,9 lần của Việt nam. Bảng 2. Thành tích công bố quốc tế của một số tổ chức R&D hàng đầu Việt Nam và Thái Lan năm 2004. Nguồn: ISIKNOWLEDGE (http://db.vista.gov.vn/ cập nhật ngày 30/10 – 5/11/2008.
Trên bảng 2 có một chi tiết đáng chú ý. Số lần trích dẫn trung bình của 5 cơ sở nghiên cứu hàng đầu Việt nam (4,1 – 6,9) ít hơn cả nước (8,1). Nghĩa là các cơ sở nghiên cứu ít “tiếng tăm” hơn lại được trích dẫn nhiều gấp bội. Thí dụ, năm 2004 ngành y học Việt Nam công bố 82 công trình, và trung bình mỗi công trình được trích dẫn đến 13,7 lần. Đặc biệt, công trình về vi rút cúm gà H5N1 đăng trên Nature được trích dẫn 320 lần. Vậy phải chăng y học Việt Nam rất mạnh? Thực ra, trong số 82 bài báo quốc tế về y học ấy chỉ có 7 bài do 4 người Việt Nam làm tác giả đầu mối. Số áp đảo còn lại đều do người nước ngoài làm tác giả đầu mối, đồng tác giả Việt Nam có lẽ chỉ đóng góp phần khiêm tốn. Nội lực và hợp tác quốc tế trong NCKHNếu chia các bài báo quốc tế của Việt Nam và Thái Lan ra làm hai loại tùy theo người trong nước hay nước ngoài làm tác giả đầu mối, thì thấy ở Việt Nam loại thứ nhất chiếm 25% năm 2004, tăng lên 34% năm 2007. Loại thứ nhất có thể gọi là công bố quốc tế do nội lực, chẳng những ít hơn loại thứ hai (do hợp tác) về số lượng mà cả về chất lượng, bởi số lần trích dẫn ít hơn rõ rệt (phần bên phải bảng 2). Nhìn sang hai đại học Thái Lan, tỷ lệ công trình do nội lực của họ cao hơn hẳn, 70% năm 2004 (bảng 2), tăng lên gần 80% năm 2007 (bảng 3). Các bài báo do nội lực của họ cũng được trích dẫn nhiều hơn ta trên hai lần. Khái niệm nội lực không nên hiểu một cách tuyệt đối, bởi trong từng trường hợp cụ thể rất khó lượng định rạch ròi phần đóng góp của tác giả trong nước và nước ngoài. Song phân biệt ra hai loại bài báo quốc tế - nội lực và hợp tác – tùy theo tác giả đầu mối trong nước hay nước ngoài là một thực tế không thể tránh né. Có phân biệt như thế, ta mới khỏi ngộ nhận khi đánh giá hiệu quả hoạt động NCKH căn cứ trên đầu vào (đầu tư, nhân lực, hạ tầng ...) và đầu ra (nhân lực được đào tạo, tác động đến kinh tế xã hội, công bố quốc tế ...). Tách ra phần nội lực không hề phủ nhận vai trò quan trọng của hợp tác quốc tế trong NCKH.Bảng 3. Thành tích công bố quốc tế của một số tổ chức R&D hàng đầu Việt Nam và Thái Lan năm 2007. Nguồn: ISIKNOWLEDGE (http://db.vista.gov.vn/) cập nhật ngày 30/10 – 5/11/2008.
Cấu trúc các ngành khoa họcĐể hình dung cấu trúc nền khoa học nước nhà, ta có thể phân loại 234 bài báo quốc tế do nội lực năm 2007 của Việt Nam theo các chuyên ngành khoa học. Kết quả ghi trên bảng 4. Nhìn sang Thái Lan, chỉ cần so với một trường ĐH Chulalongkorn công bố 569 bài báo do nội lực năm 2007 cũng đủ thấy công bố quốc tế của cả nước ta vừa quá ít, lại mất cân đối đến mức đáng lo ngại. Những ngành rất mạnh và gắn với đời sống của Thái lan như y học, hóa học, sinh hóa và nhiều ngành công nghệ, vật liệu lại chính là lãnh vực rất ít thấy công bố từ Việt nam. Chúng ta mạnh về toán học và vật lý (một nửa là vật lý lý thuyết), trong khi hai ngành này lại đứng cuối bảng ở ĐH Chlalongkorn và nhiều đại học khác ở Thái Lan. Rất nhiều cơ sở NCKH “vừa có tiếng vừa có miếng” ở Việt Nam lại vắng bóng trên các tạp chí khoa học quốc tế. ĐHQG Hà Nội chỉ tập trung ở khoa Toán và Vật lý thuộc trường ĐHKH Tự nhiên. Ngoài ra, mới đây có thêm trường Đại học Công nghệ. Trong số 19 bài do nội lực của ĐHQG Tp Hồ Chí Minh năm 2004, có 9 bài về Vật lý, 6 bài về Toán. Riêng Van Hoang V. làm tác giả đầu mối 6 bài về Vật lý. Một quang cảnh khá manh mún, tự phát, mất hút đầu tư từ ngân sách nhà nước, không thấy vai trò nhạc trưởng, lại thiếu hẳn một cơ chế điều hành tự nhiên nảy sinh trong quá trình phát triển. Bảng 4. Công bố quốc tế do nội lực năm 2007 của Đại học Chulalongkorn và cả nước Việt Nam theo chuyên ngành khoa học được phân loại trong cơ sở dữ liệu ISI. Nguồn: ISIKNOWLEDGE (http://db.vista.gov.vn/) cập nhật ngày 30/10 – 5/11/2008.
|