Theo tác giả Phạm Duy Hiển trong năm 2001 các nhà khoa
học công bố 375 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế;
trong số này, 81% là do hợp tác với các nhà khoa học nước
ngoài (Tia Sáng 1/6/2007). Vấn đề đặt ra là hợp tác như thế
nào, và sở hữu tri thức thuộc về các nhà khoa học Việt Nam
hay các đồng nghiệp ngoại quốc. Tôi đã xem qua một phần lớn
các bài báo và công trình hợp tác trong lĩnh vực y khoa, và
có thể nói rằng hơn 95% các công trình này là những dạng hợp
tác theo kiểu “nhảy dù khoa học”, và do đó sở hữu tri thức
thuộc về các nhà khoa học nước ngoài. Có lẽ đã đến lúc
chúng ta cần phải xem lại các nguyên tắc và có thái độ dứt
khoát hơn trong việc hợp tác với các nhà khoa học nước
ngoài.
Tình hình nghiên cứu khoa học ở nước ta trong
những năm gần đây có phát triển khá nhanh, với số lượng bài
báo công bố trên các tập san khoa học quốc tế tăng trung
bình khoảng 10%. Đó là một tin vui. Nhưng con số tăng
trưởng đó chưa phản ảnh một khía cạnh đáng lo ngại hơn: đó
là các công trình do “nội lực” (tức hoàn toàn thực hiện bởi
các nhà khoa học trong nước) giảm từ 23% vào năm 1997 xuống
còn 19% trong năm 2001. Nói cách khác, hiện nay, hơn 80%
các công trình nghiên cứu khoa học xuất phát từ Việt Nam
được công bố trên các tập san quốc tế là do hợp tác với các
nhà khoa học nước ngoài. Thật vậy, chính nhờ vào nguồn hợp
tác này (chứ không phải nội lực) mà số lượng bài báo khoa
học tăng trưởng trong thời gian qua.
Hợp tác trong nghiên cứu khoa học là một xu
hướng tất yếu ngày nay. Trong điều kiện nước ta còn thiếu
thốn về phương tiện nghiên cứu, thiếu thốn nhân sự có kinh
nghiệm cao, hạn chế về ngân sách khoa học, thì việc các đồng
nghiệp trong nước phải hợp tác với các nhà khoa học nước
ngoài là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Tuy nhiên, cần
phải rất cẩn thận trong việc hợp tác sao cho các nhà khoa
học trong nước không phải chịu thiệt thòi. Theo kinh nghiệm
cá nhân, tôi thấy rất nhiều (nếu không muốn nói là tất cả)
các nhà khoa học trong nước mà tôi đã tiếp xúc chưa ý thức
được vấn đề này, và do đó họ còn quá dễ dãi trong việc hợp
tác, và dẫn đến thất thoát cho nước nhà. Có người vì quá hồ
hởi được đứng tên trong một bài báo trên một tập san quốc tế
mà không cần biết nội dung gì trong đó. Lại có trường hợp
khá bi hài là đồng nghiệp nước ngoài công bố bài báo và tự
tiện đưa tên đồng nghiệp trong nước vào danh sách tác giả
bài báo nhưng đánh vần sai tên mà chính tác
giả cũng không hay
biết! Chưa ý thức được vấn đề, tôi nghiệm ra, là vì họ chưa
rành luật chơi, nhất là các nguyên tắc vả qui ước trong việc
định công trạng, trong hợp tác nghiên cứu khoa học.
Ai cũng biết trong thế kỉ trước, các cường quốc
Tây phương như Anh và Pháp có nhiều thuộc địa ở Phi châu và
Á châu. Trong một thời gian dài, các nhà khoa học từ các
cường quốc này đến các nước thuộc địa tiến hành nhiều nghiên
cứu khoa học, kể cả nhân chủng học và văn hóa học, và công
bố trên các tập san ở nước họ. Do đó, quyền sở hữu tri thức
thuộc về họ, cho các tri thức này dựa vào các mẫu vật và sự
cộng tác của nhân sự từ địa phương. Trong giới khoa học,
người ta gọi cách làm khoa học này là “scientific colonism”
(khoa học thuộc địa). Ở nước ta, do nhiều thế hệ học sinh,
sinh viên không có cơ hội nghiên cứu khoa học, và do đó, một
phần không nhỏ kiến thức về Việt Nam, dân tộc Việt Nam và
tài nguyên Việt Nam lại nằm trong tay các nhà khoa học ngoại
quốc, thay vì trong tay các nhà khoa học Việt Nam.
Đến thế kỉ 20, Mĩ trở thành cường quốc khoa học
và kinh tế số một. Cùng với Mĩ, các nước Âu châu, chủ yếu
là Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, và các nước Bắc Âu kiểm soát gần
như toàn bộ hệ thống thông tin khoa học. Tất cả các nhà
xuất bản lớn nhất thế giới, tất cả các tập san khoa học lớn
và có ảnh hưởng trên thế giới đều xuất phát từ các nước
này. Hệ quả là thế giới không chỉ bị ngăn cách bởi thu nhập
cá nhân, mà còn bị chia cách bởi “bức tường thông tin”
(Information Divide). Trong khi các nước Tây phương thừa
thông tin khoa học, thì các nước đang phát triển như nước ta
lại thiếu thông tin trầm trọng. Một thư viện của một đại
học trung bình ở Anh hay Mĩ có 3000 tập san khoa học, trong
khi đó một đại học lớn ở nước ta con số này chưa đến 50!
Khoảng 25% các nhà khoa học trên thế giới sống
và làm việc ở các nước đang phát triển, nhưng họ sản xuất
dưới 3% tổng số ấn phẩm khoa học trên thế giới (BMJ
1997;314:980). Vì thiếu thông tin, cho nên chất lượng
nghiên cứu từ các nước đang phát triển không cao, và thường
bị từ chối cho công bố trên các tập san quốc tế (hay nói
đúng hơn là các tập san khoa học Tây phương). Trong thời
gian 10 năm (tính từ 1989 đến 1998), tập san y khoa của Anh,
British Medical Journal, nhận được 44.690 bài báo
khoa học trên thế giới; trong số này chỉ có 6% (hay 2550
bài) từ các nước đang phát triển. Tỉ lệ các bài báo từ các
nước đang phát triển được chấp nhận cho công bố là 8% (tức
92% trong số 2550 bài bị từ chối). Tỉ lệ các bài báo từ các
nước đã phát triển được chấp nhận cho công bố là 17%. Do
đó, trong tổng số các bài báo được công bố trên tập san
British Medical Journal, chỉ có ~3% là từ các nước đang
phát triển. Ở các tập san lớn hơn như Science, Nature,
Cell, New England Journal of Medicine, Lancet, v.v… tình
trạng còn “bi thảm” hơn: tỉ lệ các bài báo từ các nước đang
phát triển chỉ dưới 1%.
Trong nỗ lực khắc phục tình trạng trên và nhằm
gia tăng sự có mặt của các công trình nghiên cứu từ các nước
đang phát triển, các nhà khoa học từ các nước Tây phương tìm
cách hợp tác với đồng nghiệp ở các nước đang phát triển.
Thường thường, họ được hỗ trợ và khuyến khích từ chính phủ
để tiến hành các nghiên cứu “viễn chinh”. Nhưng ý đồ tích
cực này đang dần dần trở thành một hình thức thuộc địa chủ
nghĩa kiểu mới trong khoa học, mà giới khoa học đặt tên là
“Scientific Colonism” hay “Parachute Science” (Làm khoa học
kiểu nhảy dù). Mới đây, có người còn đặt tên cho loại hợp
tác này là “Safari Science”. Nói một cách ngắn gọn, cũng
giống như giới khoa học thuộc địa thời xưa đến các nước Á
châu và Phi châu thu thập các cổ vật văn hóa về sung vào
viện bảo tàng ở nước họ, giới làm khoa học kiểu nhảy dù ngày
nay là các nhà khoa học Tây phương đến các nước đang phát
triển thu thập mẫu máu, DNA, hay mẫu vật, hay số liệu, và
đem về phòng thí nghiệm nước họ để phân tích và công bố kết
quả. Trong bài báo, họ đứng tên tác giả số một hay tác giả
chịu trách nhiệm (responsible author) và cho tên của vài nhà
khoa học địa phương trong danh sách tác giả như là “foot
soldier” (lính đánh bộ)!
Tình trạng khoa học nhảy dù hay khoa học thuộc
địa này phổ biến cỡ nào? Tính từ 1993 đến 1998, tập san
British Medical Journal công bố 59 bài báo với sự hợp
tác giữa các nhà khoa học các nước Tây phương và các nước
đang phát triển; trong số này, 58% bài báo mà tác giả đứng
đầu là các nhà khoa học Tây phương. Tỉ lệ khoa học nhảy dù
ở tập san Lancet là 57% (trong số 82 bài báo). Trong
thời gian trên, tập san Science công bố 6 bài báo hợp
tác, và tất cả đều do các nhà khoa học Tây phương đứng tên
tác giả đầu. Tập san có ảnh hưởng càng cao, tỉ lệ khoa học
nhảy dù hay khoa học thuộc địa càng cao. Nói cách khác, các
nhà khoa học Tây phương chỉ “tử tế” với các nhà khoa học địa
phương chỉ khi nào các bài báo đăng trên các tập san có ảnh
hưởng thấp, nhưng với các bài báo trên các tập san ảnh hưởng
lớn thì họ dành quyền đứng tên tác giả đầu.
Xu hướng hợp tác khoa học theo kiểu nhảy dù này đã và đang
xảy ra ở nước ta, nhất là trong lĩnh vực y học. Người viết
bài này đã điểm qua các bài báo nghiên cứu được thực hiện ở
Việt Nam có tác giả nước ngoài và tác giả người Việt Nam
trong vòng 10 năm qua, và hơn 95% các bài báo này đều do các
tác giả nước ngoài đứng tác giả đầu hay tác giả chịu trách
nhiệm. Như vậy, có thể nói tình trạng khoa học nhảy dù
trong y học ở nước ta rất phổ biến. Một vài ví dụ cụ thể
như:
“MD de Jong, TT Tran, HK Truong, MH Vo, GJ Smith, VC
Nguyen, VC Bach, TQ Phan, QH Do, Y Guan, JS Peiris, TH Tran,
J Farrar J. Oseltamivir resistance during treatment of
influenza A (H5N1) infection. N Engl J Med. 2005”,
“A
Schecter, HT Quynh, M Pavuk, O Papke, R Malish, JD
Constable. Food as a source of dioxin exposure in the
residents of Bien Hoa City, Vietnam. J Occup Environ Med
2003”,
“A Schecter, LC Dai, LTB Thuy, HT Quynh, DQ Minh, HD
Cau, PH Phiet, NTN Phuong, JD Constable, R Baughman, O
Papke, JJ Ryan, P Furst, S Raisanen. Agent Orange and the
Vietnamese: the persistence of elevated dioxin levels in
human tissues. American Journal of Public Health 1995”,
v.v…
Thật ra, tất cả các nghiên cứu về chất độc da cam ở
Việt Nam trong thời gian qua có thể nói là các hợp tác kiểu
khoa học nhảy dù. Rõ ràng, các nghiên cứu này lấy mẫu vật
và số liệu từ người Việt tại Việt Nam, nhưng các nhà khoa
học Việt Nam chỉ đóng vai trò “lính đánh bộ”, và công trạng
và sở hữu tri thức vẫn thuộc về các nhà khoa học nước ngoài.
Đây là một vấn đề tế nhị và gai góc. Có lẽ phần
lớn các nhà khoa học Tây phương không nghĩ họ bóc lột hay
lợi dụng đồng nghiệp từ các nước đang phát triển, bởi vì
trong thực tế, họ là những người đề xuất ý tưởng, thiết kế
nghiên cứu, phân tích dữ liệu, soạn thảo bài báo, và trực
tiếp thực hiện việc công bố bài báo. Đứng trên mặt qui tắc
thì họ hoàn toàn có tư cách đứng tên đầu. Tuy nhiên, vấn đề
ở đây là họ sử dụng dữ liệu từ Việt Nam, mẫu máu, DNA, hay
nói chung là chất liệu nghiên cứu từ Việt Nam và
của người Việt Nam, và trong nhiều trường hợp, họ sử
dụng các nhà khoa học Việt Nam để thu thập các dữ liệu này.
Nếu không có các chất liệu này hay không có sự hợp tác của
đồng nghiệp Việt Nam, thì dù ý tưởng có hay cỡ nào cũng
không thể thành hiện thực. Vậy thì vấn đề đặt ra là việc họ
đứng tên đầu có hợp lí không? Theo tôi câu trả lời là
“không”. Kinh nghiệm của tôi cho thấy trước khi hợp tác với
bất cứ ai ở nước ngoài, một hợp đồng phải được soạn thảo
trước với những qui định rõ ràng về vị trí tác giả của bất
cứ bài báo nào sẽ xuất bản, và tất cả các nhà khoa học liên
quan phải kí tên vào trước khi thực hiện.
Hợp tác trong nghiên cứu khoa học cũng giống như
thương lượng trong kinh doanh, tức là đôi bên cùng có lợi,
chứ không thể để một bên chịu thiệt thòi và một bên dành
phần thắng. Nhưng để đạt được một hợp tác đôi bên cùng có
lợi, hay một hợp tác bình đẳng, các nhà khoa học Việt Nam
cần phải tìm hiểu kĩ hơn nữa về luật chơi trong hoạt động
khoa học quốc tế để không phải chịu thiệt thòi trong hợp
tác. Những luật chơi này không phải là những qui tắc được
viết thành văn bản trên giấy trắng mực đen, và chỉ có thể
biết được qua trao đổi với những nhà khoa học Việt Nam ở
nước ngoài có kinh nghiệm lâu năm trong việc giải quyết vấn
đề này.
Ngoài việc hiểu và biết luật chơi quốc tế, kiến
thức và năng lực của nhà khoa học còn là hai yếu tố rất quan
trọng trong việc thương lượng. Một nhà khoa học với kiến
thức rộng, kĩ năng cao, và kinh nghiệm làm khoa học lâu năm
(hay nói chung là có “nội lực”) thường ở thế thượng phong
trong thương lượng và hợp tác khoa học, và qua đó có thể đảm
bảo bình đẳng cho đồng nghiệp của mình. Nhưng quan trọng
hơn hết, trong thời đại hội nhập quốc tế, các nhà khoa học
nước ta rất cần ý thức rõ quyền lợi quốc gia và không nên để
những tri thức về Việt Nam, dân tộc Việt Nam và tài nguyên
Việt Nam lại một lần nữa nằm trong tay các nhà khoa học
ngoại quốc trong các hợp tác khoa học theo kiểu nhảy dù. |