Những bài cùng tác giả
Vấn đề thông tin khoa học
Ở nước ta, tình trạng thiếu thốn thông tin khoa học
rất trầm trọng. Thư viện đại học còn quá nghèo nàn,
chẳng những thiếu sách vở, mà quan trọng hơn, thiếu
những tập san khoa học quốc tế. Tình trạng này đã
làm ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu khoa học và
tác động tiêu cực đến nền khoa học nước nhà. Trong
thời kì hội nhập quốc tế, chúng ta cần phải cấp bách
xây dựng một hệ thống thư viện khoa học hoàn chỉnh
để góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học.
Ứng dụng công nghệ thông tin, mà đặc biệt là
internet, là một giải pháp khắc phục tình trạng
thiếu thông tin hiện nay.
Vấn đề thiếu thông tin
Những ai làm nghiên cứu khoa học đều biết rằng thông
tin đóng một vai trò không thể thiếu được trong
nghiên cứu khoa học. Người làm nghiên cứu khoa học
không có hay thiếu thông tin chẳng khác gì người mù
đi trong đêm tối, vì không biết được những gì đã,
đang hay sắp xảy ra trong lĩnh vực chuyên môn.
Vì thế, thiếu thông tin thường dẫn đến những hệ quả
rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, năng
suất và tiềm năng khoa học quốc gia. Bởi vì thiếu
thông tin, cho nên rất nhiều công trình nghiên cứu
khoa học chỉ đơn thuần lặp lại những gì người khác
đã làm. Thật vậy, đại đa số các nghiên cứu y học ở
trong nước mà người viết có dịp điểm qua đều lặp lại
những gì những nhà nghiên cứu nước ngoài, thậm chí
trong nước, đã làm từ hơn 20 năm về trước
[1]. Nói
cách khác, vì thiếu thông tin cho nên chất lượng
nghiên cứu khoa học ở nước ta còn thấp, và đó cũng
chính là một trong những lí do tại sao các công
trình nghiên cứu ở nước ta rất ít xuất hiện trên các
tập san khoa học quốc tế
[2].
Thiếu thông tin cũng có thể dẫn đến hao tổn ngân
sách một cách không cần thiết. Chẳng hạn như năm
ngoái, có người đề nghị tiến hành một nghiên cứu với
ngân sách 444 tỉ đồng nhằm nâng cao chiều cao người
Việt, vì theo họ, “so với người trưởng thành ở Nhật
Bản cùng nhóm tuổi thì người Việt Nam vẫn còn thấp
hơn 10 cm” (Thanh Niên Online 13/3/2006) và mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố di truyền đến chiều cao chỉ
23%. Nhưng các thông tin làm cơ sở cho dự án nghiên
cứu này không đúng. Chỉ cần truy nhập vào thư viện y
khoa quốc tế, có thể thấy ngay rằng sự khác biệt về
chiều cao trong một quần thể do các yếu tố di truyền
ảnh hưởng từ 65% đến 87%
[3]. Ngoài ra, chiều cao
hiện nay ở người Việt cũng tương đương với chiều cao
ở người Nhật, Trung Quốc và Thái Lan. Nếu có đầy đủ
thông tin thì ý tưởng của dự án đó đáng lẽ không nên
có, chứ chưa nói đến việc viết thành một đề án! Nếu
không có thông tin và dự án được tiến hành, kinh tế
quốc gia đã phải phí đến 26 triệu USD!
Có thể nói ngay rằng tình trạng thiếu thông tin đã
làm cho nền khoa học nước ta không phát triển đúng
với tiềm năng của nhân lực, nếu không muốn nói là
làm cho khoa học nước nhà dẫm chân tại chỗ, không
sánh vai được cùng các nước trong vùng (chứ chưa nói
đến các nước tiên tiến). Trong một bài tổng quan về
nghiên cứu y học ở trong nước
[1], tôi phát hiện
rằng tính trung bình mỗi bài báo y học từ Việt Nam
chỉ có khoảng 9 tài liệu tham khảo (ở phía Bắc) đến
17 ở phía Nam. Không rõ tại sao lại có sự khác biệt
khá lớn về con số tài liệu tham khảo giữa hai miền
như thế, nhưng ở nước ngoài, một bài báo nghiên cứu
y học thường có trung bình 25 tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, tôi còn phát hiện phần lớn tài liệu tham
khảo mà đồng nghiệp trong nước trích dẫn thường 20
năm và là những bài báo trong các hội nghị. Sự thật
này cho thấy các nhà nghiên cứu trong nước chỉ sử
dụng tài liệu tham khảo mà họ có sẵn hay có thể truy
nhập được, và do đó, thường chậm đến 20 năm. (Trong
y học, theo một qui luật “bất thành văn”, những bài
báo nào trích dẫn tài liệu trên 10 năm được xem là
“lạc hậu”, và đánh giá là nhà nghiên cứu chưa cập
nhật hóa đầy đủ).
Tại sao các nhà nghiên cứu nước ta thiếu thông tin?
Câu trả lời là do thiếu cơ sở vật chất và trường đại
học cũng chưa quan tâm (hay chưa nhận thức) đúng mức
đến tầm quan trọng của thông tin trong nghiên cứu
khoa học. Trong bài Chỗ đứng nào cho giảng viên trẻ
(Vietnamnet 8/3/2007), nhiều giảng viên đại học cho
biết “Cơ sở dữ liệu nội địa đang ở tình trạng báo
động”, vì “chưa có một cơ chế để tích lũy và công
khái hóa dữ liệu. Các thế hệ đi trước đã không làm
dữ liệu khoa học một các khoa học để lại cho thế hệ
mai sau.” Một giảng viên trẻ bức xúc nói: “Những
người muốn làm nghiên cứu như tôi phải bỏ tiền ra
mua. Tôi chi một số tiền tương đối lớn để làm thành
viên của các tổ chức cung cấp tài liệu, để được đọc
các tài liệu. Đáng lẽ những việc như vậy trường có
thể hỗ trợ bằng cách mua.” Trong bối cảnh thiếu thốn
thông tin như mô tả trên đây, thật là không công
bằng nếu ta đòi hỏi các nhà khoa học trong nước phải
có những công trình nghiên cứu chất lượng cao,
nghiên cứu tiền phong. Với tình trạng thiếu thông
tin như thế, làm sao chúng ta có thể kì vọng các nhà
khoa học nước ta sánh vai cùng các đồng nghiệp ở các
trường lớn trên thế giới.
Tình trạng trên rất tương phản với tình hình ở các
trường đại học hay viện nghiên cứu khoa học Tây
phương, nơi mà thông tin được xem là một loại cơ sở
vật chất (infrastructure). Trong các tiêu chuẩn dùng
để xếp hạng và đánh giá danh tiếng của các trường
dại học, ngoài các tiêu chuẩn khoa bảng, hệ thống
thư viện và tập san khoa học là một tiêu chuẩn rất
quan trọng. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy các
trường đại học “khoe” hệ thống thư viện của mình để
cạnh tranh nhau thu hút sinh viên hay nghiên cứu
sinh. Xin đơn cử trường hợp Viện nghiên cứu Garvan
(nơi tôi đang công tác), có khoảng 400 nhà khoa học,
nhưng ngân sách dành cho các tập san khoa học hàng
năm dao động từ 700 ngàn đến 1 triệu đô-la, kể cả
lương bổng cho hai nhân viên thư viện làm việc toàn
thời gian. Bất cứ bài báo nào, từ đâu, công bố năm
nào (kể cả vào thế kỉ 19) nếu có nhu cầu chính đáng,
viện sẵn sàng dành chi phí để truy cập cho được, và
phải truy cập nhanh. Yếu tố thời gian rất quan
trọng, vì đối với những trường hợp lâm sàng hiếm hay
có thể đe dọa đến tính mạng bệnh nhân, việc truy tìm
thông tin khoa học xảy ra trong vòng vài phút, chứ
không phải vài giờ, và bất kể ngày hay đêm, ngày
thường hay ngày cuối tuần.
Mô hình xuất bản “cổ điển”
Trong thời đại kinh tế tri thức, thông tin và tri
thức càng ngày càng được xem là một loại hàng hóa.
Nhưng loại hàng hóa này càng ngày càng đắt giá và
các nhà khoa học ở các nước đang phát triển khó có
khả năng tài chính với đến. Điều này dẫn đến tình
trạng “Information Divide” (Khoảng cách thông tin)
giữa các nước Tây phương và các nước đang phát
triển. Trong khi các nước Tây phương thì tràn đầy
(và có thể nói là thừa) thông tin, thì các nước đang
phát triển như nước ta lại “khát” thông tin. Nhiều
nhà khoa học cho rằng khoảng cách thông tin này
chính là yếu tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến
việc phát triển và cải thiện sức khỏe ở các nước
nghèo khó.
Nguyên nhân chính của khoảng cách thông tin giữa các
nước nghèo và giàu một phần do mô hình xuất bản ấn
phẩm vì lợi nhuận vốn tồn tại trong suốt 70 năm qua.
Theo mô hình cổ điển này, các nhà xuất bản lớn quản
lí các tập san (trên thế giới có khoảng 24 ngàn tập
san khoa học) và qua các tập san buôn bán thông tin
kiếm lời. Kiếm lời bằng cách nào? Hiện nay, những
người như người viết bài này (tác giả từ các nước đã
phát triển) khi công bố một bài báo phải trả cho các
nhà xuất bản trung bình là 800 USD (ấn phí trung
bình cho mỗi trang dao động từ 70 USD đến 150 USD,
tùy theo loại giấy và có màu hay không). Cần nói
thêm rằng, các tập san chỉ đóng vai hành chính trung
gian, vì tất cả biên tập và chuẩn bị cho việc xuất
bản bài báo đều do tác giả đảm nhiệm, còn trách
nhiệm bình duyệt cũng thuộc về cộng đồng khoa học và
hoàn toàn miễn phí. Các tập san công bố bài báo khoa
học và bán thông tin cho độc giả (tức cộng đồng
nghiên cứu khoa học)! Đó là chưa kể các tập san còn
có thêm thu nhập lớn từ quảng cáo.
Với mô hình “cổ điển” này, nhà khoa học vừa là người
sản suất ra thông tin, vừa là người mua thông tin!
Nhà khoa học vất vả làm nghiên cứu, phân tích kết
quả, viết báo cáo, và phải trả tiền để được công bố
thông tin, và phải mua lại thông tin mà mình vừa
công bố! Nhiều người không quen với mô hình này
thoạt đầu nghe qua thì quá vô lí, nhưng thực tế là
như thế.
Mô hình này đi ngược lại với lí tưởng của khoa học,
đó là thông tin khoa học là tài sản của nhân loại,
và mọi người có quyền truy nhập thông tin. Tuyên bố
thiên niên kỉ (Millenium Declaration) ghi nhận quyền
được truy cập thông tin. Tuy nhiên, thông tin khoa
học ngày nay chịu sự kiểm soát của các tập đoàn xuất
bản quốc tế, chủ yếu là Mĩ và Âu châu. Các tập đoàn
này đứng đằng sau các tập san khoa học ở các nước Âu
Mĩ ngày nay để kiếm lời, và đó chính là một trong
những khó khăn cho việc phổ biến thông tin, và lí
tưởng khoa học vẫn chưa trở thành thực tế mà chỉ còn
là … lí tưởng.
Giải pháp internet
Một cuộc tranh luận “nóng” đã diễn ra trên các diễn
đàn khoa học quốc tế về mô hình xuất bản ấn phẩm
khoa học hiện nay
[4]. Một số nhà khoa học cho rằng
việc các tập san (và tập đoàn xuất bản) làm lời trên
thông tin từ cộng đồng khoa học là phi đạo đức.
Không hài lòng với mô hình xuất bản hiện hành, một
nhóm nhà khoa học Mĩ và Âu châu đứng ra thiết lập
một hệ thống xuất bản trực tuyến có tên là Public
Library of Science (PLoS)
[5], nơi mà tất cả các nhà
khoa học khắp thế giới có thể công bố kết quả nghiên
cứu, và bất cứ ai trên thế giới đều có thể truy nhập
và hoàn toàn miễn phí. Một nhóm khác, BioMedical
Central (BMC)
[5] cũng theo mô hình “Open Access”
này, mà theo đó, các nhà khoa học ở các nước đang
phát triển có thể công bố kết quả nghiên cứu hoàn
toàn miễn phí, và bất cứ ai trên thế giới cũng đều
có thể truy nhập thông tin hoàn toàn miễn phí.
Hai năm trước đây, Tổ chức Y tế Thế giới (World
Health Organization) khởi xướng chương trình Health
InterNetwork Access to Research Initiative (HINARI),
mà theo đó, WHO sẽ tài trợ một ngân khoản cho cho
các nước có thu nhập thấp (kể cả Việt Nam). Dưới
chương trình này, các trung tâm nghiên cứu và đại
học y dược ở nước ta cũng như các nước đang phát
triển có thể truy cập thông tin từ khoảng 2000 tập
san hàng đầu trên thế giới. Đây là một phát triển
quan trọng trong việc làm giảm khoảng cách thông tin
giữa các nước nghèo và giàu, nhưng vẫn chỉ là giải
pháp tạm thời, mang tính vá víu, chứ không giải
quyết tuyệt đối vấn đề thiếu thông tin.
Năm ngoái, dưới sự hỗ trợ tài chính từ một số tổ
chức từ thiện, Đại học Yale khởi xướng một chương
trình có tên là Online Access to Research in the
Environment (OARE), mà theo đó, các nhà khoa học từ
70 nước có thu nhập đầu người thấp (dưới 1000 USD)
sẽ truy nhập thông tin miễn phí trong các lĩnh vực
môi trường học, kinh tế học, luật, hóa học, sinh
học, khí tượng học, hải dương học, địa lí học, nông
nghiệp và thủy sản, kĩ thuật, năng lượng từ các tập
đoàn xuất bản lớn như Elsevier, Blackwell, Taylor &
Francis, Springer, John Wiley, Cambridge University
Press, Oxford University Press, National Academy of
Sciences, Amaerican Association for the Advancement
of Science, Nature Publishing Group, Annual Reviews,
v.v…
Một số tập đoàn xuất bản “hào hiệp” (như nhóm
Bristish Medical Journal và BioMed Central chẳng hạn
– cả hai đều ở Anh) có chính sách “lấy tiền người
giàu chia cho người nghèo” (theo kiểu Robin Hood).
Bởi vì phần lớn các nghiên cứu công bố trên các tập
san này xuất phát từ những nước đã phát triển, do đó
họ bắt buộc các nhà khoa học có bài đăng trên những
tập san do họ quản lí phải trả tiền ấn phí. Họ đưa
toàn bộ những bài báo khoa học lên internet, và tất
cả các nước trên thế giới đều có thể truy nhập hoàn
toàn miễn phí.
Trước những thử thách mới của các tập đoàn hào hiệp
này, các nhà xuất bản lớn bắt đầu nhận thức được sự
đe doạ của cuộc cách mạng thông tin do internet đem
lại. Một số thay đổi chính sách xuất bản và tỏ ra
“từ thiện” với các nước nghèo hơn. Vì hiện nay hầu
hết các tập san khoa học đều công bố ấn phẩm khoa
học trên hai hình thức internet và giấy (gần đây,
thậm chí có một số tập san chuyển hẳn sang hình thức
công bố ấn phẩm trên hệ thống internet), cho nên các
tập san đồng ý cho các nhà khoa học từ các nước truy
nhập thông tin trên internet (không phải tạp chí
giấy) có giới hạn. Một số tập san (như Science chẳng
hạn) có chính sách miễn phí cho những bài báo đã
công bố trên 1 năm. Tuy đây là một chính sách “có
hậu”, nhưng nghiên cứu khoa học, với tính cạnh tranh
cao độ, truy nhập được thông tin trên 1 tuổi thì
cũng đồng nghĩa với việc thua kém!
Giải pháp nào cho Việt Nam ?
Quay trở lại với tình trạng thiếu thông tin ở nước
ta, một tình trạng mà một nhà nghiên cứu mới đây cho
rằng “không thể chấp nhận được”
[6]. Tôi cũng đồng
tình với cảm nghĩ của đồng nghiệp này. Ở đây, tôi để
nghị vài biện pháp cụ thể như sau:
Thiết lập một cơ sở dữ liệu khoa học quốc gia.
Hiện nay, nước ta có nhiều tập san khoa học, tuy
chất lượng chưa cao, nhưng cũng cung cấp nhiều thông
tin có ích và liên quan đến khoa học trong nước.
Nhưng các thông tin này chưa được hệ thống hóa, và
tình trạng này gây không ít khó khăn cho nhiều nhà
nghiên cứu trẻ, kể cả nghiên cứu sinh, vì họ không
truy tìm được tài liệu cần thiết. Một vài nghiên cứu
sinh phàn nàn với người viết bài này rằng khi họ
trình bày đề cương nghiên cứu trước thầy cô, họ bị
phê bình rằng chỉ trích dẫn các báo cáo ở nước ngoài
mà “coi thường” nghiên cứu từ trong nước, nhưng
trong thực tế, rất khó mà biết các nhà nghiên cứu
trong nước đã làm gì vì không có cơ sở dữ liệu.
Hệ thống hóa cơ sở dữ liệu rất quan trọng.
Trước đây, trước những lo ngại về chất anthrax trong
chiến dịch chống khủng bố, các nhà khoa học truy tìm
tài liệu khoa học và may mắn thay, vào lúc đó, chỉ
có Thư viện Anh (British Library) là cơ quan duy
nhất có hệ thống hóa dữ liệu khoa học trước năm
1950. Qua truy cập tài liệu, các nhà nghiên cứu mới
phát hiện rằng chưa có nghiên cứu gì về anthrax
trong suốt 47 năm! Nếu không có cơ sở dữ liệu của
Thư viện Anh, có lẽ người ta phải tốn rất nhiều thời
gian và công sức để biết về anthrax. Qua kinh nghiệm
này, ở Mĩ và một số nước như Anh và Úc, các thư viện
quốc gia có chương trình hệ thống hóa toàn bộ các
bài báo khoa học trong một cơ sở dữ liệu và đưa lên
internet. Chẳng hạn như hệ thống dữ liệu Pubmed
Central (PMC, www.pubmedcentral.nih.gov) của Mĩ có
mục đích tập hợp và hệ thống hóa các bài báo khoa
học từ các tập san khoa học trong và ngoài nước Mĩ.
Với PMC, chúng ta có thể truy nhập những bài báo
công bố từ đầu thế kỉ 20. Nước ta có thể học từ PMC
để phát triển một cơ sỡ dữ liệu nội địa và qua đó
giúp cho thế hệ sau trong nghiên cứu khoa học.
Chủ động liên lạc với chương trình OARE và WHO
để đảm bảo Việt Nam nằm trong danh sách của họ. Việc
làm này đòi hỏi sự chủ động của một số tổ chức đại
diện trong nước (chẳng hạn như Bộ Y tế hay Bộ Khoa
học và môi trường). Những thành viên chính trong
chương trình OARE là Kimberley Parker (Giám đốc thư
viện Đại học Yale), Barbara Aronson (Giám đốc chương
trình HINARI của WHO).
Tích cực tham gia vào chương trình Open Access
để
đảm bảo các nhà khoa học trong nước có thể truy nhập
vào các tập san do chương trình này quản lí. Chương
trình Open Access có mục tiêu chính là tạo điều kiện
cho các nhà khoa học trên khắp thế giới, kể cả ở các
nước đang phát triển, có thể truy nhập thông tin
khoa học miễn phí. Chương trình này đang được rất
nhiều đại học trên thế giới ủng hộ và rất thành
công, không chỉ trong xuất bản ấn phẩm khoa học mà
cả lĩnh vực phần mềm máy tính như ngôn ngữ R chẳng
hạn
[7]. Chúng ta có thể tranh thủ mời các nhân vật
chính trong chương trình này (chẳng hạn như Leslie
Chan, Barbara Kirsop, Stevan Harnard) đến Việt Nam
để thảo luận về cách Việt Nam có thể tham gia hay
đóng góp vào chương trình Open Access.
Quan trọng hơn hết là mở rộng và đầu tư vào công
nghệ thông tin và internet. Phải nói ngay rằng
hệ thống internet tại các trung tâm nghiên cứu và
đại học nước ta chưa hoàn chỉnh, và trong tình trạng
đó, tất cả các giải pháp trên sẽ không thể nào và
không bao giờ thành hiện thực, bởi vì tất cả các
giải pháp Open Access, OARE hay HINARI đều dựa vào
internet. Do đó, các trường đại học và trung tâm
nghiên cứu cần phải trước hết kiện toàn hệ thống
internet và thư viện. Nếu chưa có hai cơ sở vật chất
này, chúng ta chưa thể thảo luận gì được với các
nhóm mà tôi vừa nêu.
Như nói trên, đa số các tập san khoa học quốc tế
hiện đang nhanh chóng chuyển sang xuất bản trực
tuyến, và trong vòng 10 năm tới, tất cả các tập san
khoa học ở các nước phát triển sẽ chuyển sang hình
thức trực tuyến. Ngay cả hiện nay, rất nhiều thư
viện đại học ở các nước Tây phương chỉ đặt mua (hay
nói đúng hơn là truy nhập) các tạp chí khoa học qua
mạng. Thế nhưng ở nước ta, điều đáng buồn hiện nay
là các nhà nghiên cứu trong nước chưa được cập nhật
hóa với các tài liệu khoa học quốc tế, mà một trong
những nguyên nhân chính là truy nhập internet còn
quá hạn chế, quá chậm. Nhiều trường đại học có lắp
đặt internet nhưng hình như chỉ làm cho có và để đó,
chứ chưa đưa vào khai thác sử dụng. Cụ thể là phần
lớn những trang nhà của các trường đại học nước ta
là những trang nhà chết. Hệ thống internet của các
đại học nước ta chưa chiếm được lòng tin của người
trong trường. Thậm chí, phần lớn (có thể nói 100%)
giáo sư và nhân viên đại học, kể cả hiệu trưởng và
hiệu phó, không dùng địa chỉ email của trường mà chỉ
dùng các địa chỉ email công cộng như yahoo hay
google!
Vì thế, một trong những nhu cầu cơ sở vật chất cho
nghiên cứu khoa học là phải tạo điều kiện cho các
nhà nghiên cứu truy nhập internet để có thể truy cập
các tài liệu nghiên cứu khoa học mới nhất, giúp cho
việc phát triển ý tưởng và học hỏi phương pháp trong
nghiên cứu. Internet đang mở ra một hướng đi rất
quan trọng và có thể nói không ngoa là một cuộc cách
mạng khoa học. Nếu chúng ta không phát triển
internet cho các trường đại học thì mãi mãi chúng ta
sẽ chỉ là người đi theo sau.
Để hội nhập quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh
trong nền kinh tế tri thức, nước ta cần phải “sản
xuất” tri thức qua nghiên cứu khoa học, phổ biến tri
thức qua giáo dục, và ứng dụng tri thức qua phát
triển công nghệ. Ở bất cứ lĩnh vực nào, tất cả các
nghiên cứu khoa học đều dựa vào những nghiên cứu
trước và tùy thuộc vào khả năng truy cập thông tin
và chia sẻ thông tin của nhà nghiên cứu. Không có
thông tin cập nhật, các nhà khoa học nước ta sẽ mãi
mãi là những người đi bên lề bên lề thế giới khoa
học, và mãi mãi “dưới cơ” đồng nghiệp Tây phương. Có
người bi quan cho rằng tình trạng “dưới cơ” là đương
nhiên, vì cái vòng luẩn quẩn: nghèo dẫn đến thiếu
tiền; thiếu tiền dẫn đến thiếu thông tin; thiếu
thông tin dẫn đến chất lượng nghiên cứu nghèo nàn;
và nghiên cứu nghèo nàn dẫn đến thiệt thòi kinh tế,
nghèo khó. Chúng ta cần phải mở một nút thoát trong
cái vòng luẩn quẩn này!
Chú thích:
[1] Xem bài “Nghiên cứu y học ở Việt Nam: đặc điểm,
thiếu sót, và sai sót” của tôi, đăng trên Tạp chí
Thông tin Y học thuộc Hội Y học Thành phố Hồ Chí
Minh, số tháng 1,2 và 3/2007. Web:
http://203.162.99.91/thoisuyhoc
[2] Xem bài “Nhìn lại 10 năm công bố ấn phẩm khoa
học Việt Nam: các nhà khoa học nghĩ gì qua những bài
báo đăng trên tạp chí quốc tế” của Phạm Duy Hiển,
đăng trên Tập san Hoạt động Khoa học, số tháng 1,
2006.
Web: www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=2033
[3] Xem bài “Di truyền, sự tương tác giữa di truyền
và môi trường – yếu tố quyết định chiều cao của con
người” của tôi, đăng trên Tập san Hoạt động Khoa
học, số tháng 6, 2006. Web:
http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=2188.
[4] Xem loạt bài tranh luận về quyền truy nhập thông
tin khoa học trên Tập san Nature số 293, 412, năm
2001; và Tập san New England Journal of Medicine, số
344, năm 2001.
[5] Địa chỉ của PLoS:
www.plos.org,
và BioMed Central:
www.biomedcentral.com.
[6] Xem bài “Cấp thiết xây dựng thư viện số” của Đào
Tiến Khoa, đăng trên Tia Sáng, số 17/4/2007.
Website: www.tiasang.com.vn/news?id=1488.
[7] Trước đây các phần mềm phân tích thống kê có mặt
trên thị trường rất đắt tiền, các trường đại học Tây
phương phải trả hàng trăm ngàn USD để sử dụng cho
việc nghiên cứu và giảng dạy. Nhưng gần đây, qua
cộng tác giữa các nhà thống kê học trên toàn cầu,
một hệ thống ngôn ngữ phân tích số liệu có tên là R
đã được phát triển và đang trở thành một phần mềm
phân tích số liệu phổ biến nhất trên thế giới. R
hoàn toàn miễn phí, và bất cứ ai trên thế giới với
nối mạng internet có thể tải xuống máy tính cá nhân
bất cứ lúc nào, và bất cứ ở đâu trên thế giới. Về R,
có thể xem sách “Phân tích số liệu và tạo biểu đồ
bằng R” của tôi do Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật
phát hành năm 2007 |