Công trình KHVN qua báo chí

Vietsciences-           

 

1- NHÌN LẠI 10 NĂM CÔNG BỐ ẤN PHẨM KHOA HỌC VIỆT NAM: CÁC NHÀ KHOA HỌC NGHĨ GÌ QUA NHỮNG BÀI BÁO ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ QUỐC TẾ
2- HỆ THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3- Hoạt động khoa học và công nghệ Việt Nam còn yếu kém
4- Lại nói về luận văn tiến sĩ
5- Lo ngại về chất lượng tiến sĩ
6-Đào tạo TS - cái nhìn của người trong cuộc
 

 

1- NHÌN LẠI 10 NĂM CÔNG BỐ ẤN PHẨM KHOA HỌC VIỆT NAM: CÁC NHÀ KHOA HỌC NGHĨ GÌ QUA NHỮNG BÀI BÁO ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ QUỐC TẾ

Qua 20 năm đổi mới, ngành khoa học và công nghệ (KH&CN) nước nhà đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nói riêng vẫn còn một số điểm hạn chế. Những con số phản ánh số lượng bài báo khoa học của Việt Nam được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế mà tác giả thống kê dưới đây đã nói lên phần nào bức tranh nghiên cứu khoa học ở nước ta. Trong tương lai, nếu khoa học nước nhà muốn bắt kịp thế giới, thì những con số này cần được chính thức xem như một trong những tiêu chí quan trọng cần phấn đấu trong quản lý khoa học ở nước ta. Gần đây, ngành KH&CN cũng đang hướng tới việc xây dựng một hệ thống các tiêu chí trong KH&CN sao cho phù hợp với Việt Nam mà vẫn gần với quốc tế, trong đó có tiêu chí về việc công bố và số lần trích dẫn các công trình khoa học trên các tạp chí quốc tế (đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu lý thuyết). Đây là một thách thức không nhỏ với KH&CN nước ta, trong đó có trách nhiệm to lớn của các nhà khoa học.

Theo báo cáo hàng năm của Liên hợp quốc World Investment Report công bố tháng  9.2005 (với chủ đề 2005 Transnational Corporation and the Internationalization of R&D), chỉ số năng lực sáng tạo (innovation index) đã được đánh giá cho 117 quốc gia trên thế giới. Thay vì tiền đầu tư cho R&D (input), số bài báo đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế (output) đã trở thành một thành phần cơ bản trong chỉ số phức hợp này. Việt Nam từ thứ 93/117 năm 1995 vươn lên vị trí 82/117 năm 2001, nhờ có thành tích về phát triển giáo dục. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn bị xếp vào tốp các nước còn kém cỏi, sau 2 nhóm nước có trình độ cao và trung bình trên thế giới.

Cho đến nay, bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế chưa được chính thức xem như một tiêu chí quan trọng cần phấn đấu trong quản lý khoa học ở nước ta. Song, với cách nhìn nhận trên đây trong báo cáo của Liên hợp quốc, thiết tưởng ta cũng rất cần xem xét thành tích của mình trên sân chơi quốc tế về khoa học trong mười năm qua, từ đó rút ra bài học để cải thiện vị thế của mình trong tương lai. Theo tinh thần của báo cáo trên, dưới đây chỉ bàn đến những bài báo khoa học nguyên gốc (article) xuất hiện trên 5.969 tạp chí hiện có trong cơ sở dữ liệu Web of Science của ISI (Institute of Scientific Information) có trụ sở tại Philadelphia, Mỹ, bao gồm hàng trăm chuyên ngành khoa học tự nhiên, công nghệ, xã hội, nhân văn và nghiên cứu nghệ thuật. Tuy có thể chưa hoàn toàn đầy đủ, nhưng nó là bức tranh toàn diện của một nền khoa học hiện đại.

Ngoài article, trong cơ sở dữ liệu ISI còn có nhiều thể loại khác như letter, book review, meeting abstract... nhưng sau đây ta chỉ quan tâm đến các articles, vì đó là những thành tựu nghiên cứu mới nhất được các nhà xuất bản có danh tiếng ấn hành và được phản biện bởi các nhà khoa học có uy tín nhất trong từng lĩnh vực. Lác đác thấy có một số nhà xuất bản ở Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc. Nhưng dường như chưa có tạp chí nào ấn hành ở Việt Nam được lọt vào cơ sở dữ liệu này, ngay cả những tạp chí bằng Anh ngữ. 

Hiện nay, hàng năm ước tính có đến 800.000 bài báo thuộc 21 ngành KH&CN được công bố trên gần 6.000 tạp chí quốc tế mà ISI đã tập hợp trong cơ sở dữ liệu của mình cùng với số lần trích dẫn cho từng bài. Đứng đầu là Mỹ, khoảng 300.000 (vì con số quá lớn nên không thể thống kê thật chính xác), sau đó đến Nhật (75.000), và các nước tiên tiến có nền khoa học lâu đời như Đức (66.000), Anh (59.000), Pháp (47.000) hoặc đông dân như Trung Quốc (57.000). 

Mười năm qua, số bài báo khoa học có địa chỉ Việt Nam xuất hiện trên các tạp chí quốc tế tăng từ 204 bài năm 1995 lên 456 bài năm 2004, cả thảy có 3.236 bài. Nhưng trong số này, hơn 2.400 bài (quá 3/4) là của các tác giả Việt Nam đứng chung tên với người nước ngoài, chỉ có gần 800 bài là "thuần Việt", được thực hiện chủ yếu bằng nguồn nội lực. Số lượng quá ít ỏi này lại cứ dẫm chân tại chỗ quanh con số 80 bài mỗi năm suốt thời gian qua (hình 1). Quá một nửa trong số này lại thuộc các khoa học trừu tượng như toán và vật lý lý thuyết. Các công trình thực nghiệm và khoa học ứng dụng đòi hỏi nhiều kinh phí, cơ sở vật chất và đội ngũ đồng bộ chỉ chiếm chưa đầy một nửa số bài báo do nội lực và 11,6% tổng số bài báo quốc tế.
 

Bảng 1 tóm lược toàn bộ 798 bài báo dùng nguồn nội lực được công bố trong thời gian 1995-2004 phân theo ngành, viện nghiên cứu và trường đại học. Hai ngành toán và vật lý lý thuyết chiếm 54% các bài báo dùng nguồn nội lực, đó là chưa kể những công trình về toán có mặt trong chuyên ngành máy tính và cơ học. Phần lớn các tác giả đó làm việc tại Viện Toán (300 bài) và Trung tâm Vật lý Lý thuyết (131bài) - thuộc Viện KH&CN Việt Nam. Có 124 bài về toán và 31 bài về vật lý lý thuyết lấy địa chỉ từ các trường đại học, đặc biệt từ những trường ít tên tuổi ở Quy Nhơn, Thái Nguyên...  Những con số này tuy rất ấn tượng, song vẫn chưa tương xứng với lực lượng giảng viên đông đảo ở nước ta. Chưa đầy một nửa còn lại thuộc về các ngành thực nghiệm, ứng dụng và công nghệ đòi hỏi thiết bị, cơ sở vật chất và đội ngũ đồng bộ. Khác với công trình lý thuyết, một công trình khoa học thực nghiệm tiến hành ở Việt Nam thường gặp rất nhiều khó khăn khách quan, nên việc chen chân được trên các tạp chí quốc tế phải xem như một thành công lớn. Vì thế, rất dễ hiểu tại sao ta có nhiều bài báo lý thuyết hơn thực nghiệm. Song, bức tranh của ta khác hẳn với các nước xung quanh, nơi mà toán học và vật lý lý thuyết luôn đứng cuối bảng, phía đầu bảng thường là các khoa học thực nghiệm, ứng dụng và công nghệ có tác động trực tiếp đến đời sống và những ngành kinh tế chủ lực của họ. Trong số những bài báo thực nghiệm, đáng kể nhất là các ngành công nghệ, máy tính, vật liệu (chủ yếu là vật lý chất rắn), y học, hóa học, mỗi ngành có từ 30 đến 40 bài trong 10 năm. Sau đó là các ngành nông nghiệp và nông học (23), polyme (19), xã hội và nhân văn (14), môi trường (13). Các ngành khác đều ít hơn 10.

Trong khi số lượng những bài báo do hợp tác với nước ngoài tăng theo quy luật hàm mũ, tăng gấp đôi sau 5,5 năm, thì công trình do nội lực hầu như dẫm chân tại chỗ quanh con số (80 ±  15) hàng năm (15 là sai phương). Đặc biệt, chưa thấy rõ dấu ấn của bước đột phá tăng đầu tư cho KH&CN lên 2% ngân sách nhà nước bắt đầu từ năm 2000 (các nhà khoa học cũng nên tự đặt câu hỏi cho trách nhiệm của mình trong vấn đề này). 

Những con số ở bảng 1 tự nó nói lên bức tranh hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) ở nước ta. Những nhà quản lý chắc chắn sẽ rút ra nhiều kết luận đúng đắn bổ sung vào luận cứ của các chính sách sắp thực thi về đổi mới cơ chế quản lý KH&CN. Thêm một số thông tin thú vị được nêu ra trên bảng 2. Việt Nam hiện có khoảng 20 nhà khoa học mà mỗi người trong số đó công bố được hơn 10 công trình trong mười năm (chưa kể bài báo đứng tên chung với người nước ngoài và ấn phẩm của các hội nghị quốc tế). Một phần ba các "thợ viết" đó được đồng nghiệp trích dẫn khá nhiều, trung bình từ 3 đến 12 lần cho mỗi công trình của họ. Họ là những đỉnh cao đang sung sức của khoa học Việt Nam, nhưng cũng chỉ vào loại "tầm tầm" trên thế giới. Tuổi đời của họ đều trên 50 và đây là điều đáng lo vì trong làng khoa học của ta "tre già mà măng chưa mọc". Xem những thông tin trên bảng 2 chắc nhiều người trong giới quản lý sẽ ngạc nhiên vì thấy ít ai nhắc đến họ.

http://www.fetp.edu.vn/IntheNews/most_070206_1.htm

 

2- HỆ THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bùi Sĩ Tiếu

Nhằm đạt được các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2010 và 2020 mà Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã đề ra, vấn đề phát triển khoa học và công nghệ để thúc đẩy những công nghệ sản xuất và kinh doanh mới, hiện đại, có hiệu quả cao trong các khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế đất nước có ý nghĩa rất quan trọng. Những công nghệ sản xuất mới và hiện đại sẽ tạo ra các sản phẩm mới với giá trị gia tăng lớn hơn, thúc đẩy ngày càng nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

1 - Kinh nghiệm phát triển khoa học và công nghệ nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa của các nước Đông Á.

Vào nửa cuối thế kỷ XX, nguồn lực công nghiệp hóa duy nhất mà các nước đi sau ở Đông Á có được là nhờ lực lượng lao động giá rẻ và có giáo dục, nhưng còn chưa có nhiều kiến thức khoa học và công nghệ. Bằng cách tận dụng lợi thế nhân công rẻ, các nước trong khu vực bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa và dựa vào vay mượn công nghệ để thâm nhập vào thị trường quốc tế.

Đi sau ở Đông Á, tiêu biểu là Hàn Quốc và Đài Loan đã dựa trên ưu thế của hệ thống đổi mới quốc gia trong việc quyết định những vị trí then chốt của các mối liên hệ công nghệ từ bên ngoài để tạo nên sự tăng trưởng kinh tế của họ. Trong giai đoạn công nghiệp hóa của mình từ năm 1962 đến 1985, Hàn Quốc đã sử dụng 3.538 giấy phép nhập khẩu công nghệ cho các sản phẩm chế tạo lớn, còn Đài Loan, từ năm 1953 đến 1984, đã sử dụng 51.521 giấy phép công nghệ.

Theo một nghiên cứu của Đài Loan về nguồn công nghệ của 4.226 doanh nghiệp vào năm 1985 thì 62,9% cho rằng hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ là nguồn lực công nghệ chính, còn 30,64% cho biết công nghệ của họ tiếp nhận từ nước ngoài bằng cách mua công thức, giấy phép hoặc thiết bị, hợp tác công nghệ với nước ngoài, dịch vụ tư vấn nước ngoài và sửa đổi sản phẩm của nước ngoài. Trong lĩnh vực chế tạo của Đài Loan, các doanh nghiệp nội địa chủ yếu dựa vào năng lực bản thân để tiếp nhận công nghệ, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại dựa chủ yếu vào công nghệ nước ngoài. Nếu phân loại theo quy mô doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ của Đài Loan dựa chủ yếu vào các hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ của mình hoặc dựa vào các công nghệ "làm ngược" (bắt chước, làm giả hay biến đổi các sản phẩm hiện có) và coi đó là nguồn lực công nghệ chính của họ. Những doanh nghiệp lớn có quan hệ tốt với các viện nghiên cứu trong nước và đã thiết lập liên minh với các doanh nghiệp nước ngoài thì nguồn tiếp nhận công nghệ chủ yếu là dựa vào hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ của bản thân doanh nghiệp, các dự án nghiên cứu phát triển phối hợp với các viện nghiên cứu trong nước, hợp tác với các đối tác nước ngoài hoặc thuê cố vấn và chuyên gia nước ngoài.

Cho đến nay, sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc và Đài Loan... chủ yếu dựa vào việc du nhập kiến thức khoa học công nghệ nước ngoài và ứng dụng chúng vào sản xuất trong nước. Nhật Bản và Mỹ là hai nước chính cung cấp công nghệ nhưng có vai trò khác nhau. Mỹ là nhà cung cấp lớn nhất các công nghệ nguyên bản, còn Nhật Bản lại đứng đầu về cung cấp những công nghệ công nghiệp. Để thực hiện việc tìm hiểu các công nghệ tiên tiến nước ngoài, NIEs cần có đủ nguồn ngoại tệ cung ứng cho quá trình nhập khẩu công nghệ bao gồm các chi phí sáng chế công nghệ, chi phí sản xuất, chi phí đàm phán và chi phí bán hàng. Nguồn ngoại tệ này đã được cân đối bằng chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của cả Hàn Quốc và Đài Loan.

2 - Hoạt động khoa học và phát triển công nghệ của Việt Nam trong thời gian qua.

Mặc dù, hơn 20 năm đổi mới vừa qua, nhất là trong 10 năm trở lại đây, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng đẩy mạnh hoạt động khoa học và phát triển công nghệ của đất nước, nhưng trên thực tế, hoạt động này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hiện nay, nước ta có khoảng 2 triệu công nhân kỹ thuật, trên 2.250.000 người có trình độ đại học và cao đẳng, trên 18.000 thạc sỹ và 16.000 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học, trong đó có 610 tiến sỹ khoa học. Bình quân có 193 cán bộ khoa học công nghệ trên 10.000 dân. Theo Báo cáo Phát triển con người năm 2004 của UNDP, ở Việt Nam đang có khoảng 50.000 người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Trong số này có hơn 37.000 người (72% có trình độ đại học trở lên) làm việc trong các tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của Nhà nước, với 68,9% làm việc theo chế độ biên chế và 31,1% làm việc theo chế độ hợp đồng. Tuy nhiên, tháp nhân lực khoa học và công nghệ này của nước ta còn rất hẹp, nếu so sánh với một nước công nghiệp phát triển như Cộng hòa Liên bang Đức với 82 triệu dân và 1,6 triệu tiến sỹ.

Các kết quả hoạt động khoa học và phát triển công nghệ của nước ta được thể hiện rõ ràng nhất thông qua số lượng các công trình khoa học được công bố và số lượng các đăng ký sáng chế hằng năm ở Việt Nam.

Bảng: Kết quả hoạt động khoa học và phát triển công nghệ của Việt Nam thời kỳ 1996 - 2005

 

Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số lượng bài báo đăng trên các tạp chí khoa học và công nghệ trong nước 3954 4795 5365 6572 5765 7023 6555 7669 8408 12326
Số lượng đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích 1987 1330 1133 1183 1335 1288 1342 1281 1569 2162
Tỷ lệ % số lượng đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích của người Việt Nam trong tổng số 7,2 4,1 3,5 5,3 2,5 6,8 10,1 14,0 11,4 13,8

Có thể nhận thấy trong 10 năm gần đây, số lượng bài báo đăng trên các tạp chí khoa học và công nghệ trong nước đã tăng hơn gấp 3 lần. Tuy nhiên, số công trình, bài báo khoa học của Việt Nam công bố ở nước ngoài mới đạt khoảng 300 bài/năm, ngang với mức của Thái Lan cách đây 20 năm. Trong giai đoạn 1998-2002, tỷ lệ số bài báo khoa học của Việt Nam trên tổng số của thế giới chỉ đạt 0,02%. Trong lúc đó ở Hàn Quốc và Đài Loan: 0,77%; Xin-ga-po: 0,25%; Thái Lan: 0,11%; Ma-lai-xi-a: 0,08%; Phi-líp-pin: 0,05%; In-đô-nê-xi-a: 0,04%.

Số lượng đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích chủ yếu là do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đăng ký thông qua nhập khẩu công nghệ. Số lượng đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích của người Việt Nam mới đạt khoảng 10% trong một số năm gần đây. Số đăng ký sáng chế quốc tế của Việt Nam trong 5 năm (2001-2005) chỉ có 11 đơn, trong khi đó của một số nước trong khu vực và trên thế giới là: Ma-lai-xi-a: 147; Phi-líp-pin: 85; Thái Lan: 39; In-đô-nê-xi-a: 36; Hàn Quốc: 15.000; Nhật Bản: 87.620; Mỹ: 206.710. Những con số trên cho thấy trình độ khoa học và công nghệ của nước ta vẫn còn một khoảng cách lớn so với ngay cả các nước trong khu vực.

Năm 2006, tổng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ đã tăng lên gần 5.890 tỉ đồng, đạt 2% chi ngân sách nhà nước. Do môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh chưa cao nên các hoạt động khoa học và công nghệ chưa trở thành một công cụ và động lực thúc đẩy sản xuất của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm đến 60% tổng đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ, trong đó 2/3 dành cho sự nghiệp khoa học và 1/3 dành cho xây dựng cơ bản. ở các nước, số đầu tư của doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ chiếm trên 60%, còn đầu tư của nhà nước chỉ chiếm 30%.

Về đầu tư của các doanh nghiệp, kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ tại 28 tổng công ty 90 - 91, từ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp này chiếm tỷ lệ 60% tổng số vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp toàn quốc. Tỷ lệ đầu tư nghiên cứu phát triển/đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ là 6%/94%. Tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển của các tổng công ty dao động trong khoảng từ 0,05% - 0,1% trên tổng doanh thu (các nước là 5 - 6%). Như vậy, tỷ lệ này còn rất thấp để các tổng công ty 90 - 91 có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tình hình phát triển công nghệ ở Việt Nam có thể đánh giá thông qua giá trị nhập khẩu máy móc, trang thiết bị công nghệ trong thời gian gần đây. Trong 5 năm giai đoạn 2001 - 2005, nước ta đã nhập khẩu 35.997 triệu USD máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. Năm 2006, con số này là 9.597 triệu USD, chiếm 21,8 % tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.

Chính vì tốc độ nhập khẩu công nghệ còn chậm nên hiện nay mặt bằng công nghệ trong các ngành sản xuất kinh doanh của nước ta còn ở mức thấp do công nghiệp hóa chưa hoàn toàn gắn với hiện đại hóa. Số ngành, lĩnh vực có công nghệ tiên tiến, hiện đại còn ít. Các ngành sử dụng công nghệ cao mới đang bắt đầu hình thành.

Đến nay, nước ta sử dụng công nghệ trung bình là phổ biến, tỷ lệ nhóm ngành công nghệ cao của Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 20%, trong khi đó của Xin-ga-po là 73%, Ma-lai-xi-a là 51% và Thái Lan là 31% (theo tiêu chí, để đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là trên 60%). Tốc độ đổi mới công nghệ của cả nước đạt khoảng 10% (nếu tính riêng 3 vùng kinh tế trọng điểm là nơi tập trung công nghệ cao nhất cả nước cũng chỉ đạt khoảng 12%), so với tốc độ đổi mới công nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới thì đó là mức còn rất thấp. Trong công nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp tự động hóa chỉ chiếm khoảng 1,9%, bán tự động là 19,6%, cơ khí hóa 26,6%, bán cơ khí hóa 35,7%, thủ công 16,2%.

Việc chưa chú trọng tiếp nhận công nghệ và sự phát triển chậm của lĩnh vực công nghiệp chế tạo của Việt Nam đã biểu hiện qua năng lực cạnh tranh công nghệ yếu kém. Theo báo cáo phát triển công nghiệp 2002 - 2003 của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) đánh giá về sự phát triển công nghiệp và năng lực cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm chế tạo của 87 nền kinh tế đang phát triển, trong đó có 14 nền kinh tế châu á thì Việt Nam vẫn chưa nằm trong danh sách này. Theo xếp hạng của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2004, năng lực cạnh tranh tổng hợp của nền kinh tế nước ta chỉ đứng thứ 77/104 nền kinh tế, chỉ số về chuyển giao công nghệ được xếp thứ 66 là nhờ tỷ lệ vốn FDI vào nước ta ở mức cao so với các nước trong khu vực. Chỉ số xếp hạng về công nghệ chỉ đứng thứ 92 do tỷ lệ nhập khẩu máy móc, thiết bị trên tổng kim ngạch nhập khẩu mới ở mức thấp. Chỉ số về mức độ sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài của Việt Nam chỉ đứng thứ 99 trong số 104 nền kinh tế được xếp hạng.

Các số liệu trên cho thấy Việt Nam cần phải sớm khắc phục tình trạng yếu kém về chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo định hướng xuất khẩu, khắc phục sự mất cân đối giữa sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước với tiếp nhận công nghệ qua các doanh nghiệp FDI và khắc phục sự liên kết yếu kém giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất.

Hiện nay, mặc dù vốn đầu tư của Nhà nước đang chiếm tỷ lệ rất cao, nhưng các ngành công nghiệp nước ta còn chưa tập trung thích đáng vào việc nhanh chóng phát triển và làm chủ các công nghệ nguồn, công nghệ chế tạo định hướng xuất khẩu, có xu hướng để các nhà đầu tư nước ngoài "phát triển giúp" các ngành công nghiệp nói trên. Điều này dẫn đến nguy cơ "công nghiệp hóa mà không nắm giữ được những bí quyết công nghệ chiến lược và mũi nhọn" như tình trạng của nhiều nước Đông - Nam Á hiện nay. Tỷ lệ nhập khẩu máy móc, thiết bị sản xuất công nghiệp trên tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nền kinh tế nước ta cũng chỉ đạt mức thấp so với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn trình độ công nghiệp hóa tương tự, tỷ lệ này của Nhật Bản và Hàn Quốc vào khoảng 40%.

3 - Khoa học và công nghệ cần phải làm gì để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, cần tăng cường trình độ khoa học và công nghệ theo hai hướng: tăng cường trình độ công nghệ trong từng ngành sản xuất và chuyển dịch cơ cấu sản xuất sang những ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao - cũng chính là những ngành có giá trị gia tăng lớn.

Sự tiến bộ công nghệ của nền kinh tế đất nước được thực hiện bằng cách kết hợp đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ ở nước ngoài và tự phát triển, sáng tạo công nghệ tiên tiến trên nền tảng các công nghệ nhập khẩu. Trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với một nước đang trong quá trình phát triển như Việt Nam thì nhập khẩu công nghệ tiên tiến ở nước ngoài là phương pháp vừa tiết kiệm thời gian, vừa tiết kiệm chi phí nếu lựa chọn hiệu quả được những công nghệ có mức độ tiên tiến thích hợp với giá thành hạ trong quá trình nhập khẩu. Điều này được gọi là lợi thế đi sau của các nước đang phát triển do không bắt buộc phải trải qua hành trình tiến bộ công nghệ như các nước phát triển.

Vấn đề nhập công nghệ tiên tiến đòi hỏi chi phí đầu tư lớn trong khi khả năng nguồn vốn của nền kinh tế còn hạn hẹp. Vì vậy, quá trình nhập khẩu và nâng cao trình độ công nghệ chỉ có thể được đẩy mạnh bằng chiến lược phát triển thị trường vốn trong nước và khai thông, kết nối với thị trường vốn quốc tế, đặc biệt là thị trường chứng khoán. Đây cũng chính là bí quyết công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn của Hàn Quốc, Đài Loan trước kia và của Trung Quốc hiện nay. Đồng thời với quá trình trên, chúng ta phải nhanh chóng thúc đẩy việc tiếp thu và phát triển khả năng tự chế tạo, tiến tới sáng tạo công nghệ. Khả năng sáng tạo công nghệ là con đường duy nhất để Việt Nam cũng như các nước đang phát triển đuổi kịp và vượt trình độ của các nước công nghiệp phát triển, nhờ vậy mới có thể giảm bớt những khoản chi phí tốn kém cho việc nhập khẩu những công nghệ tiên tiến. Khả năng sáng tạo công nghệ dựa trên cơ sở óc sáng tạo và trình độ quản lý hoạt động nghiên cứu và trình độ nghiên cứu khoa học tự nhiên và công nghệ ứng dụng. Nó phụ thuộc vào tiềm năng trí tuệ của dân tộc và đòi hỏi một chính sách đầu tư lâu dài liên tục và đúng phương hướng vào khoa học và công nghệ của đất nước.

Như tất cả các nước đang phát triển có nguồn lực còn hạn chế, nước ta phải vượt qua khó khăn trong quá trình đầu tư hiện đại hóa công nghệ, là tích lũy và sử dụng tối ưu nguồn vốn. Trong thời kỳ đầu, chúng ta đã tập trung vốn vào các ngành kinh tế với công nghệ chưa phải tiên tiến và đòi hỏi nguồn vốn thấp để phát huy lợi thế so sánh động so với các nước phát triển hơn. Tuy nhiên, để vượt qua trạng thái dừng của nền kinh tế có trình độ công nghệ thấp, trong thời kỳ tới chúng ta phải có chiến lược nâng cao trình độ khoa học và công nghệ để tối ưu hóa chất lượng sản phẩm và hiệu quả của nền kinh tế. Đây chính là mô hình phát triển "xuất khẩu tịnh tiến" bằng động lực khoa học và công nghệ.

Việc nâng dần trình độ khoa học và công nghệ của nền kinh tế phải được thực hiện đồng thời bằng hai quá trình:

Thứ nhất, nâng dần trình độ công nghệ của các ngành sản xuất đã có để phá vỡ trạng thái dừng của các ngành này, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sản lượng và thu nhập lao động.

Thứ hai, chuyển dịch dần cơ cấu sản xuất sang các ngành có trình độ khoa học và công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn.

Quá trình thứ nhất diễn ra một cách tự nhiên sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong cùng một ngành. Còn quá trình đòi hỏi phải có một sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong chính sách ưu đãi phát triển ngành sản xuất, giáo dục và đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học và công nghệ, đi trước một bước tương ứng với quá trình đột phá và dịch chuyển của nền kinh tế lên trình độ công nghệ cao hơn. Trong mỗi thời kỳ phát triển, ngành sản xuất chủ yếu đang nắm giữ lợi thế so sánh của nền kinh tế có nhiệm vụ xuất khẩu và tích lũy vốn, trong khi đó ngành sản xuất mũi nhọn được bảo hộ tương đối trong chiến lược nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Những ngành mũi nhọn này có nhiệm vụ đột phá về công nghệ của nền sản xuất trong nước, và đến khi đã trưởng thành chúng phải đứng vững trong cuộc cạnh tranh quốc tế, đặt nền tảng cho việc mở rộng cơ cấu xuất khẩu ở trình độ công nghệ cao hơn và chuyển thành ngành sản xuất chủ yếu. Lúc đó lại xuất hiện những ngành mũi nhọn mới có nhiệm vụ tiếp tục nâng cao hơn nữa trình độ công nghệ của nền sản xuất trong nước, tạo thành quá trình "xuất khẩu tịnh tiến" liên tục với các sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng khoa học và công nghệ ngày càng cao hơn. Vì vậy, việc lựa chọn đầu tư ngành mũi nhọn và phát triển khoa học và công nghệ phù hợp có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tạo điều kiện cho quá trình tăng trưởng cao liên tục của nền kinh tế đất nước.

Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta phải thực hiện đồng thời hai quá trình: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và nâng cao trình độ khoa học, công nghệ. Vấn đề tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả khoa học và công nghệ để đất nước có thể bắt kịp và làm chủ công nghệ hiện đại có tầm quan trọng quyết định. Hiện nay, nước ta đã bước vào cuối giai đoạn phát triển kinh tế theo bề rộng, dựa vào tài nguyên thiên nhiên là chính và sẽ phải bước vào thời kỳ phát triển theo chiều sâu với sự đóng góp ngày càng lớn của khoa học và công nghệ trong thời gian tới.

Sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn phụ thuộc vào việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế kết hợp với tăng cường các yếu tố năng lực nội sinh của dân tộc như văn hóa, giáo dục, khoa học. Không có đủ tri thức, không có đủ năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ thì trong quá trình hội nhập đất nước sẽ bị thua thiệt, bị bóc lột, chèn ép và sẽ trở thành bãi thải công nghệ của các nước khác.

Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là sử dụng tri thức khoa học và công nghệ mới nhất để phát triển nền kinh tế, chuyển nền kinh tế từ tình trạng năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp sang nền kinh tế năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam không thua kém những nước mới công nghiệp hóa thành công ở châu Á. Con người Việt Nam có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ các tri thức mới, công nghệ mới; một số lĩnh vực mới hình thành đã sử dụng công nghệ mới nhất và theo kịp trình độ thế giới.

Với tiềm năng trí tuệ, tinh thần sáng tạo, ý chí và bản lĩnh kiên cường của dân tộc Việt Nam, phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh của toàn dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

* TS, Phó Trưởng Ban Thường trực - Phụ trách Ban Khoa giáo Trung ương

http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=5&news_ID=10452144

 

3- Hoạt động khoa học và công nghệ Việt Nam còn yếu kém

Để hội nhập thành công, phát triển và thi đua cạnh tranh được với thế giới, kể cả với các nước trong khu vực, buộc các nhà khoa học phải làm việc một cách nghiêm túc để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học tới các chuẩn mực quốc tế.

Trên thế giới, người ta thường căn cứ vào số công trình công bố trên tạp chí quốc tế và số bằng phát minh, sáng chế để đánh giá kết quả hoạt động khoa học của các cơ quan khoa học và các quốc gia trên thế giới. Đây là cách điều tra đơn giản, thực tế và chính xác nhất. Vào năm 2001, hãng dự báo RAND đã làm một báo cáo theo yêu cầu của Ngân hàng Thế giới (WB) để đánh giá năng lực KH&CN của các quốc gia trên thế giới. Trong đó, Việt Nam đứng hàng thứ 94 trên thế giới, khá xa sau Malaisia (thứ 71), Thái Lan (73), Philippine (80) và đứng sau cả Xri Lanka (85), Nêpan (86), Burunđi (87), sau cả Irăc (90), Xiri (92). Đến nay, thứ tự xếp hạng này cũng không mấy thay đổi. Điều này nói lên chất lượng nghiên cứu khoa học của Việt Nam còn quá yếu kém.

Bằng chứng cụ thể là hiện nay, ở nước ta, số lượng các công trình, bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí quốc tế còn quá ít ỏi so với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Trong khi đó, ở Philippine yêu cầu mỗi luận án tiến sĩ của họ phải có được ít nhất một bài báo đăng tạp chí quốc tế theo tiêu chuẩn của ISI (Institute for Scientific Information), trong khi ở ta thậm chí có nhiều giáo sư, tiến sĩ chưa hề có một công trình nghiên cứu khoa học nào. Nhưng hằng năm, trong bảng báo cáo thành tích của các cơ quan quản lý KH&CN luôn luôn nói đến số lượng giáo sư, tiến sĩ đứng đầu khu vực Đông Nam Á mà tuyệt nhiên không đả động đến các chỉ tiêu về kết quả theo tiêu chí quốc tế.

Nhiều người cho rằng, KH&CN của ta không phát triển vì chúng ta còn đầu tư ít cho KH&CN. Nói như vậy cũng không chính xác, vì hằng năm Nhà nước cấp một lượng kinh phí lớn để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, song có đơn vị không thực hiện được do nhiều nguyên nhân, có đơn vị thực hiện được một vài đề tài, hoặc có đơn vị thực hiện nhiều đề tài nhưng chỉ là để viết ra báo cáo tổng kết rồi xếp ngăn kéo.

Theo các chuyên gia phân tích, nguyên nhân của vấn đề chính là nhân lực. Nước ta vẫn còn thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu, thiếu các nhà khoa học có kinh nghiệm làm nghiên cứu quốc tế. Mặt khác, phương tiện khoa học của ta cũng chưa hiện đại và theo kịp thế giới. Nhưng, cho dù phương tiện có hiện đại và kinh phí có dồi dào, thì chưa chắc Việt Nam đã có chuyên gia sử dụng thiết bị và khả năng thực hiện những nghiên cứu chuyên sâu. Một nguyên nhân khác nữa là hiện nay các trường đại học và trung tâm nghiên cứu khoa học ở nước ta vẫn dựa vào các tiêu chuẩn “nội địa”, mà không quan tâm đúng mức đến mức độ đóng góp vào khoa học thể hiện qua các công trình đăng trên tập san khoa học quốc tế…

Do đó, để nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế, các nhà khoa học ở nước ta phải chịu nhìn vào thế giới, nhìn vào các nước trong khu vực, lấy các chỉ tiêu thực sự về phát triển KH&CN để nhìn thấy chính mình, so sánh mình với thế giới.

Tri Hùng

KHCN số tháng 11/2007 (trang 19)

 

 4- Lại nói về luận văn tiến sĩ

01/2008 Theo kế hoạch của Bộ giáo dục và đào tạo, trong thời gian tới chúng ta phải có 2 vạn Tiến sĩ mới! Hóa ra là chúng ta đang thiếu nhiều Tiến sĩ, chứ không phải như có người nói là chúng ta đang có quá nhiều Tiến sĩ... Tuy nhiên cũng có nhiều người băn khoăn về con số 2 vạn. Để đạt được con số đó có lẽ cần phát động phong trào “người người làm Tiến sĩ, trường trường làm Tiến sĩ, ta nhất định tiến, địch nhất định qụy...”! Có một cách đơn giản để có thể đạt kế hoạch, hoặc thậm chí vượt mức kế hoạch 2 vạn Tiến sĩ. Đó là hạ thấp yêu cầu của luận án Tiến sĩ, chẳng hạn chỉ cao hơn luận án Thạc sĩ một chút là được. Trước đây ta cũng từng làm như vậy, khi đổi chức danh Phó Tiến sĩ thành Tiến sĩ. Điều đó thực chất là yêu cầu luận văn Tiến sĩ ngày nay chỉ bằng Phó Tiến ngày xưa mà thôi. Cũng một cách tương tự, trên cơ sở của các trường Cao đẳng ở địa phương (mà phần lớn là trường Cao đẳng Sư Phạm), ta có thể nâng lên trường Đại học Đa ngành một cách dễ dàng. Và các thầy giáo dạy Cao đẳng đương nhiên trở thành thầy giáo Đại học một cách dễ dàng... Thế là ta có thêm rất nhiều trường Đại học. Nhưng có lẽ Bộ GD&ĐT không có chủ trương hạ thấp yêu cầu đối với luận án Tiến sĩ, mà ngược lại đang có kế hoạch “nâng tầm” luận án theo mức thế giới... Ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo đã có lần nhắc nhở rằng (đại ý ) “Nếu làm luận án Tiến sĩ mà không có gì mới thì đừng có làm, mất thì giờ của mình và của người khác”. Điều đó có nghĩa là: đã là luận án Tiến sĩ thì phải có cái mới. Cố nhiên “có cái mới” chỉ là điều kiện cần, mà hoàn toàn không phải là điều kiện đủ... Cái mới đó phải đúng, phải hay, phải dùng được thì mới đủ để “lấy bằng” Tiến sĩ... Nhân đây tôi muốn nói thêm một chút rằng thật ra thì những điều đó không có gì mới. Sở dĩ Bộ trưởng phải nhắc lại cái điều rất cũ ấy vì lâu nay hình như chúng ta (kể cả người viết luận án lẫn người chấm luận án Tiến sĩ ) “quên” mất cái điều kiện cần và đủ cho một luận án Tiến sĩ là phải có cái mới... Một người bạn kể cho tôi về một luận án Tiến sĩ “Cây xanh đô thị” (chắc là thuộc ngành Môi trường). Luận án có nhiều chương, có nhiều thống kê, nhiều biểu đồ của từng vùng, từng thời gian... Phần Kết luận của luận án gồm ba điểm chính: Một là, cây có tán rộng thì có nhiều bóng mát hơn, hai là cây có tán rộng thì khi gió to dễ bị đổ hơn, và ba là nên trồng cây tán rộng xen kẽ với cây tán hẹp... Có lẽ ông bạn tôi đã thêm thắt hoặc thổi phồng lên cho vui chuyện..., nhưng dẫu sao khi đọc qua một số tiêu đề của luận án gần đây cũng có thể thấy rằng có rất ít cái mới trong nhiều luận án... Ai cũng biết rằng, tìm được cái mới không phải dễ dàng, đặc biệt là đối với các môn khoa học cơ bản. Trong một luận án về toán học chẳng hạn, những điều tác giả đưa ra phải là những định lí mới và cố nhiên phải được chứng minh đầy đủ và đúng đắn. Tuy nhiên một điều hết sức khó khăn cho Hội đồng chấm luận án là không biết rằng “cái mới” đó có thật là “mới” hay không, hay là đã có ở đâu đó trước đây rồi, của ai đó đã đăng rồi... Đã có những luận án sau khi bảo vệ thành công, người ta mới phát hiện ra là tác giả của nó đã “đạo” (tức là “thuổng”) của người khác... Điều đó rất dễ xảy ra vì không biết có bao nhiêu tạp chí toán học trên thế giới, và không phải bài nào đăng trên các tạp chí - kể cả những tạp chí uy tín nhất- đều có người đọc... Tác giả các bài báo không phải ai cũng là các nhà toán học lớn có tên tuổi, mà có thể chỉ là những người đang tập sự nghiên cứu toán học, đang cần có “thành tích” về số bài được đăng, để được xét một cái gì đó (đại loại như ở Việt Nam ta), hoặc đơn giản là để khoe. Những bài như vậy thường không có người đọc và dĩ nhiên không được trích dẫn trong các bài báo khác. Bởi vậy nếu một ứng viên Tiến sĩ nào đó chép một vài kết quả của các bài báo như thế làm kết quả của chính mình, thì có nhiều hi vọng rằng Hội đồng chấm cũng không hay biết... Còn “cái mới” trong luận văn Tiến sĩ của các môn Khoa học Xã hội và nhân văn lại càng khó khăn hơn nhưng là khó khăn theo kiểu khác: mới thì mới nhưng không được trái với những đường lối, chủ trương, chính sách hiện hành... Nếu Ông Kim Ngọc- tác giả của chủ trương “Khoán” trong Nông nghiệp- hồi còn sống mà làm cái luận án Tiến sĩ về “Khoán” thì “cái mới” chắc là bao trùm toàn bộ luận văn... Nhưng chắc chắn là không có Hội đồng nào dám nhận lời chấm một cái luận án như thế. Chính ông Ngọc cũng không dám viết luận án, mà ông chỉ cố gắng làm “khoán chui” mà thôi... Gần đây, thấy có xuất hiện nhiều bài báo ca ngợi một số nhân vật từng “có vấn đề “, từng bị “lên án” như Trần đức Thảo, Đào duy Anh, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Dần... Nhưng dẫu sao đó cũng chỉ là các bài báo, và chỉ nói về một vài cá nhân trong trào lưu “Nhân văn Giai phẩm”... Không hiểu rồi đây có thí sinh nào định làm một luận án về đề tài “Nhân văn Giai phẩm” hay không? Hay là phải chờ vài chục năm nữa mới có những luận văn như vây? Có rất nhiều đề tài nhạy cảm khác như “Cải cách ruộng đất”, “Cải tạo Công thương”,“Biên giới Việt-Trung, xưa và nay”... rất cần có những nghiên cứu, ít nhất cũng tập hợp và lưu giữ những tư liệu lịch sử, những hồi ức của các nhân vật trong cuộc còn sống... Tuy nhiên và hiển nhiên là trong những vấn đề đó, “cái mới” thực sự là khó có thể ra đời... Bởi vậy để có được cái mới thì không dại gì mà chọn các đề tài như vậy cho một luân văn Tiến sĩ. Tốt nhất là nên chọn các đề tài đại loại như: “Tổ chức tắm và giặt cho bộ đội phía Bắc”, “Quan niệm của sinh viên về tình yêu và hôn nhân”, “Về bệnh béo phì của trẻ em đô thị”, “Mắm tôm và dịch tả”, “ Cách đánh số nhà”, “Phương pháp thi công tối ưu để cắt ngọn nhà cao tầng trái phép”... Đối với những đề tài như vậy, cứ gắng suy nghĩ một chút thế nào cũng tìm ra cái mới... Vừa rồi trong báo cáo của HĐ Chức danh Giáo sư có đưa ra một con số đáng ngạc nhiên: 70% luận văn Tiến sĩ là của các nhà quản lí, 30% còn lại là của các nhà nghiên cứu khoa học. Vâng, tôi đã từng biết có ông giám đốc Sở, ông Phó chủ tịch tỉnh, ông hay bà Bộ trưởng hoặc thứ trưởng... bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ, nhưng tôi không ngờ cái tỉ lệ các ông bà quản lí lại cao đến như vậy... Bắt buộc một Tiến sĩ khoa học phải làm một nhà quản lí là điều bất đác dĩ, còn bắt nhà quản lí phải là một Tiến sĩ khoa học thì lại càng khó hiểu hơn, nhất là khi luận văn của ông ta không thuộc về khoa học quản lí. Thực ra thì chẳng ai bắt buộc ông quản lí phải làm bằng Tiến sĩ, nhưng thực tế thì ai cũng biết nếu có bằng cấp cao hơn thì dễ được cất nhắc hơn, thăng quan tiến chức nhanh hơn. Có lẽ đã đến lúc cần “nói không với bệnh bằng cấp” cũng giống như là “nói không với bệnh thành tích” vậy.

Văn Như Cương 

http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=65&News=1549&CategoryID=6

 

5- Lo ngại về chất lượng tiến sĩ

Những ý kiến bức xúc tại hội thảo khoa học "Nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ kinh tế" do trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội tổ chức đã khiến nhiều người phải lo ngại về chất lượng đào tạo tiến sĩ hiện nay.

Với một bài tham luận khá công phu, GS.TS Đỗ Kim Chung - trường ĐH Nông nghiệp 1 đã vạch ra hàng loạt bất cập trong đào tạo tiến sĩ (TS) nói chung và TS kinh tế nói riêng của Việt Nam, trong đó bất cập đầu tiên được ông nhấn mạnh là những nhận thức của xã hội về tấm bằng này.

Ông nói: "Hiện nhiều cấp nhiều ngành đã có nhận thức chưa đúng về văn bằng TS và sử dụng trình độ học vấn TS. Kết quả khảo sát của Hội đồng Giáo sư Nhà nước cho thấy 70% những người có trình độ TS đang làm quản lý ở các cơ quan nhà nước, chỉ chưa đầy 30% làm nghiên cứu và giảng dạy.

Điều đó cho thấy những văn bằng TS và học vị TS được hiểu là cơ hội để thăng tiến hơn là để dành cho công tác nghiên cứu. Hơn nữa, khi một TS tham gia làm công tác quản lý thì được đánh giá cao hơn một TS chỉ làm chuyên môn. Hai bất cập nói trên đã kích thích cán bộ quản lý không có nhu cầu nghiên cứu, tìm kiếm văn bằng hơn là khuyến khích họ thực sự học tập và nghiên cứu".

TS Phan Công Nghĩa - Phó hiệu trưởng trường ĐH Kinh tế Quốc dân - nơi có kinh nghiệm 30 năm đào tạo TS cũng phải thừa nhận một sự thật: hiện nhiều nghiên cứu sinh (NCS) chưa xác định đúng động cơ học tập và nghiên cứu.

Họ làm NCS không nhằm thu nhận những kiến thức mới cần thiết cho công việc sau này của họ mà nhằm kiếm được tấm bằng cho các mục đích khác nhau. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập của NCS mà còn tác động xấu đến chất lượng đào tạo TS nói chung và TS kinh tế nói riêng.

Quy định đào tạo đã lỗi thời!

Một vấn đề được nhiều đại biểu phản ánh đó là những bất cập trong quy định đào tạo TS hiện nay. TS Đỗ Kim Chung bức xúc:

"Các quy định về đào tạo TS của ta quá cứng nhắc trong thủ tục (tuyển sinh đầu vào, thủ tục làm và bảo vệ luận án). Trong khi đó các quy định liên quan đến chất lượng đào tạo thì ít được để ý đến".

TS Chung cho biết: quy định đầu vào hiện nay quá coi trọng về văn bằng quá khứ mà không chú ý đến nhu cầu công việc.

Nếu muốn làm TS ở một lĩnh vực, nếu không học đại học đúng chuyên ngành đó, thì người học không được chấp nhận, do đó rất khó có cơ hội chuyển ngành nghề.

“Chất lượng đào tạo NCS rất thấp, nhiều đề tài trùng lặp. Vừa qua, Vụ ĐH, SĐH (Bộ GD-ĐT) có thống kê đề tài của NCS thì thấy sự trùng lặp ghê gớm; nhiều đề tài có tính thực tiễn rất thấp; có đề tài yêu cầu viết một trang thông tin những cái mới nhưng không viết nổi...

Nếu chúng ta không nhìn thẳng vào sự thật thì không đổi mới được!” (phát biểu của Thứ trưởng thường trực Bộ GD-ĐT Bành Tiến Long tại hội thảo)

Nếu có chuyển đổi thì phải làm một loạt thủ tục lê thê, dài dòng và chỉ mang tính hình thức; đề tài của NCS ít được (thậm chí không được) thay đổi, so với tên đề tài mà NCS đã bảo vệ lúc ban đầu; phân công giáo viên hướng dẫn còn cứng nhắc; các NCS không qua cao học phải học quá nhiều môn để đảm bảo điều kiện tối thiểu khi làm NCS...

GS.TS Bùi Quang Quynh - ĐH Kinh tế Quốc dân cũng nêu một thực trạng: "Khâu tuyển đầu vào, so với trước đây (những năm 80 của thế kỷ trước) vẫn chưa có gì thay đổi.

Việc giao chỉ tiêu và cấp bằng vẫn nặng về quản lý tập trung của Bộ GD-ĐT. Chính vì vậy, không chỉ ĐH Kinh tế quốc dân mà nhiều trường ĐH khác, đào tạo TS thường chỉ ngồi chờ chỉ tiêu trên cho, mang tính thụ động, thiếu tính chủ động trong đào tạo".

Kinh phí đào tạo quá thấp

Theo TS Đỗ Kim Chung, hiện một NCS được cấp kinh phí đào tạo là 4-5 triệu đồng/năm (quy định từ năm 1994 đến nay chưa thay đổi). Số tiền này không thể đủ trang trải cho quá trình tổ chức đào tạo.

Trong khi đó mức kinh phí cho các lưu học sinh Việt Nam ở các trường ĐH trên thế giới thì lên tới 20.000-30.000 USD/năm, gấp gần 100 lần kinh phí cấp cho NCS trong nước!

Ông Chung nói: "Theo đánh giá của chúng tôi, các NCS trong nước hoàn thành luận án phải chi từ khoảng 120-150 triệu đồng. Đây là khó khăn cho phần lớn các NCS trong quá trình thực hiện đề tài với thời gian ngắn 3-4 năm... Vì vậy, áp lực đó tất yếu dẫn đến hoặc quá hạn hoặc có vấn đề về chất lượng! ".

TS Nguyễn Thế Chinh - trường ĐH Kinh tế Quốc dân cũng cho rằng, kinh phí cho đào tạo TS chưa tạo ra được mức độ hấp dẫn cho giáo viên hướng dẫn cũng như nghiên cứu sinh. Chính vì vậy đã không tạo ra được động lực thúc đẩy mạnh mẽ đối với thầy và trò trong việc nâng cao chất lượng đào tạo TS.

 Vũ Thơ

Thanh niên

 

6-Đào tạo TS - cái nhìn của người trong cuộc

Theo GS Phạm Minh Hạc- nguyên Chủ tịch Hội đồng Chức danh Nhà nước, bất cập của đào tạo tiến sĩ nằm ngay ở khâu “đầu vào”. Việc tuyển chọn nghiên cứu sinh (NCS) còn quá dễ dàng so với tiêu chuẩn vì nhiều trường chạy theo chỉ tiêu đào tạo hơn là năng lực của người được đi học …

Thi khó nhưng không có ai trượt” GS.Phạm Minh Hạc.

Ông Hạc dẫn chứng: Năm 2003, Nhà nước giao chỉ tiêu đào tạo 1.400 TS, các trường chỉ tuyển được 1.215. Năm 2004, con số này là 1.500 nhưng cũng chỉ tuyển được 1.500. Mới đây nhất, đến năm 2010, Bộ giao phó chỉ tiêu đối với ĐH là 20% giảng viên có trình độ tiến sĩ và Cao đẳng là 5% so với con số 14,7% và 1,4 % hiện nay. Như vậy sự bất cập một phần là do các trường luôn phải chạy mà vẫn “hụt hơi” so với quota của Bộ GD& ĐT.

Cũng theo ông Hạc, tuyển sinh như vậy là có lợi cho trường vì cán bộ giảng dạy sẽ có việc làm, có thêm công trình nghiên cứu cùng đứng tên với học viên, thu nhập tăng và thành tích đào tạo này sẽ góp phần đẩy nhanh “tiêu chuẩn” tăng hàm PGS, GS cho các ông thầy.

Còn nhìn nhận về vấn đề này TS Phạm Duy Nghĩa- Chủ nhiệm khoa Luật- ĐH QG HN nhận xét, xã hội đang có làn sóng tại chức, chuyên tu muốn “tráng men” bằng thạc sĩ, tiến sĩ vì không có quy định nào của bộ GD &ĐT nghiêm cấm chuyện này. Ông Nghĩa cho rằng, thi đầu vào tiến sĩ ở VN rất khó nhưng hầu như không có một thí sinh nào trượt và ba năm sau, 100% nghiên cứu sinh đều trở thành tiến sĩ sau một buổi bảo vệ.

Khi quy trình chọn lựa đào tạo như thế thì tất nhiên các TS sẽ rất khó có chất lượng làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của ngành giáo dục.

Thủ tục quá rườm rà

Một bất cập mà theo rất nhiều người đã từng gặp phải khi "đầu quân' làm TS ấy là sự rườm rà về thủ tục. Điều này tại một hội thảo về nâng cao chất lượng TS vừa qua, đa số các đại biểu đều đồng ý vấn đề nổi cộm trong quy trình đào tạo TS ở Việt Nam là "thủ tục hành chính còn quá rườm rà".

PGS.TS Trần Thọ Đạt, Viện đào tạo Sau ĐH (Trường ĐH Kinh tế quốc dân) kể lại chuyện từ lúc nộp hồ sơ đăng ký dự tuyển NCS, được công nhận trúng tuyển...đến khi được cấp bằng TS ở Trường ĐH Kinh tế quốc dân, trung bình 1 NCS phải trải qua khoảng 300 loại văn bản và báo cáo thống kê với xấp xỉ 400 chữ ký các loại.

"Thầy liên thông” giáo trình...

Chuyện một thầy “ôm” cả ba cấp Đại học, Cao học, Tiến sĩ với những môn học giữ nguyên tên hoặc thay tên đổi dạng theo kiểu “bình mới rượu cũ” đã trở thành một nghịch l‎ý bình thường trong bức tranh đào tạo TS ở nước ta hiện nay.

“Chia sẻ” cái sự vô lý này, TS Dương Viết Thịnh-Khoa Triết- ĐH KHXH& NV giảng dạy chuyên đề “Kinh điển Tác phẩm Triết học Mác- Lênin” ở cấp đại học, cao học (gồm cả nghiên cứu sinh chuyển tiếp) thừa nhận: ”Tất nhiên có một số nội dung nhắc lại nhưng không trùng lặp hoàn toàn”. Sự bất cập trong xây dựng chương trình môn học này thể hiện rõ nhất về mặt thời lượng. Ở bậc ĐH, “Tác phẩm biện chứng tự nhiên” chỉ gói gọn trong hai buổi, lên cao học mặc dù yêu cầu cao hơn về “chất” nhưng cũng chỉ vẻn vẹn.. hai buổi.

Chỉ riêng môn “Tác phẩm kinh điển” thôi thì cũng đã có tới hàng chục cuốn sách, mỗi cuốn dài từ hàng trăm đến vài nghìn trang, đọc đã khó có khi phải nghiền ngẫm trong hàng tuần nói gì đến việc “dồn” lại trong một vài buổi học. Giáo trình như vậy liệu có hợp lý?

Theo GS Trần Trí Dõi- Chủ nhiệm khoa Ngôn ngữ- ĐH KHXH&NV HN thì chính cơ chế lạc hậu hai phần bắt buộc, một phần tự chọn của bộ GD& ĐT đã dẫn đến bất cập này.

Bên cạnh đó, quy định đào tạo không tập trung đã tạo nhiều kẽ hở cho một số học viên "bảo vệ thành công luận án TS" mặc dù trong suốt ba năm đào tạo hầu như họ không có mặt ở một buổi nghiên cứu, sinh hoạt chuyên môn, trợ giảng nào. Những nghiên cứu sinh này thường là không có thời gian với những lý do "rất xác đáng", khi về địa phương bận túi bụi, phải lo công việc cơ quan, gia đình nên không thể dành nhiều thời gian và tư duy cho việc thực hiện luận án.

Không có cái mới thì đừng làm luận án TS”

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân có lần đã phải thốt lên rằng, nếu không có cái mới thì đừng làm luận án tiến sĩ. Một người đứng đầu ngành giáo dục nước nhà đã thấy rõ những bất cập trong công tác đào tạo TS ở nước ta như thế nào khi ông phải cảnh báo vậy.

Cùng chung mối quan tâm này PGS-TS Phạm Duy Nghĩa người đã tham gia chấm hàng trăm khóa luận, luận văn và luận án tiến sĩ luật học, ông cũng phải buồn rầu mà tâm sự rằng, ngoại trừ luận án TS của một người Trung Quốc bảo vệ năm 2004, còn lại tất cả các luận án TS mà ông đã chấm đều tròn trịa 3 chương với cách đặt vấn đề, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...giống nhau. Hầu như không có một bài nào có kết quả điều tra thực tế, phỏng vấn chuyên gia, thực nghiệm. Hầu hết các NCS đều tự biện luận hoặc tóm lược biện luận của người khác rồi đưa ra ý của riêng mình.

Còn GS Phạm Minh Hạc với hơn 6 năm ở cương vị Chủ tịch Hội đồng Chức danh Nhà nước thì nói: "Khi thẩm tra hàng trăm luận án TS đều không thấy có điểm gì mới, đặc biệt là luận án TS KH xã hội. Đó là chưa kể những luận án "ngớ ngẩn"!

Thu Phương

http://www.tin247.com/bai_1_dao_tao_ts_cai_nhin_cua_nguoi_trong_cuoc-11-12312.html

 

 

©  http://vietsciences.org http://vietsciences.free.fr-