Những bài cùng tác giả
Lời cảnh báo của GS. Pierre Darriulat về nạn chảy
máu chất xám chỉ có thể ngăn chặn được trên cơ sở
nền khoa học và giáo dục nước nhà được chấn hưng. Mà
việc này chủ yếu phụ thuộc vào chuẩn mực và thuật
dùng người.
Quan niệm về nhân tài
Cho đến nay câu hỏi thế nào là nhân tài vẫn còn gây
nhiều tranh luận. Tuy nhiên, khái niệm về nhân tài
trong thời đại ngày nay được hiểu theo nghĩa rộng
hơn, bao gồm hầu hết mọi lĩnh vực trong xã hội như
khoa học, nghệ thuật, kinh doanh,… và không nhất
thiết phải có bằng cấp cao hay chức danh khoa học
“hoành tráng”.
Bill Gates là một ví dụ điển hình trong thời đại của
chúng ta. Ông đã bỏ dở dang khi theo học ở đại học
Harvard mà vẫn trở thành chủ tịch của tập đoàn phần
mềm Microsoft nổi tiếng và trở thành người giàu có
thuộc bậc nhất thế giới với tài sản 57 tỷ USD và cho
mãi đến thời gian gần đây (7/6/2007) ông mới được
cấp bằng cử nhân và Tiến sĩ danh dự thuộc ngành luật
vì "Ông là doanh nhân có ảnh hưởng nhất trong cuộc
cách mạng máy tính cá nhân". Một ví dụ khác trong
quá khứ, nhà bác học Thomas Edison chưa học xong bậc
tiểu học, mà chính xác chỉ theo học được 3 tháng ở
một trường tiểu học và sau đó bị đuổi học vì lý do
trò Edison có một trí tuệ không bình thường nhưng đã
trở thành nhà phát minh vĩ đại trong thế kỷ 19.
Trong thời gian gần đây, trên các diễn đàn Internet
chúng ta đã đọc quá nhiều về các câu chuyện lãng phí
nhân tài và hiện tượng chảy máu chất xám. Nhiều nhà
khoa học được đào tạo, tu nghiệp ở các nước tiên
tiến đã trở về quê hương với lòng đầy nhiệt huyết,
mong muốn được cống hiến hết mình cho công cuộc dựng
xây đất nước. Nhưng cuối cùng, phần lớn trong số họ
đành phải ra đi hoặc chuyển sang lĩnh vực kinh doanh
để không phải chứng kiến những công việc nhàm chán
hằng ngày đang diễn ra ở một số các cơ quan nghiên
cứu. Họ có lòng tự trọng cao và không muốn mình trở
thành nhân vật thừa. Không chỉ trong lĩnh vực khoa
học, gần đây hiện tượng các công chức bỏ việc hàng
loạt cũng đã xảy ra. Tiền lương cũng chỉ là một lý
do, nhưng có lẽ lý do chủ yếu nhất đó là họ không có
cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp.
Sự cần thiết của một triết lý giáo dục
So sánh với nền giáo dục của các nước trên thế giới
chúng ta không khỏi bâng khuâng và tự hỏi chúng ta
đang đi theo trường phái giáo dục nào, nhưng biểu
hiện rõ nét nhất của nó là sự nhìn nhận lệch lạc về
bằng cấp. Tư tưởng học để ra làm quan, để được vinh
thân, phì gia đã hình thành trong mỗi chúng ta từ
lúc còn nằm nôi. Có lẽ do đất nước chúng ta đã trải
qua hàng nghìn năm nô lệ, cho nên danh vọng và địa
vị trong xã hội đã trở thành niềm khát khao trong
mỗi con người. Chắc chắn đây không phải là cái đích
mà nền giáo dục hướng đến. Cái lớn nhất mà nền giáo
dục mang lại là tính nhân văn và tri thức, không
mang nặng hình thức khoa cử khuôn sáo. Những thành
tích giả tạo trong học tập, nghiên cứu sẽ hủy diệt
tương lai của một đất nước. Nó không diễn ra ngay
lập tức mà sẽ diễn ra một cách lặng lẽ từ thế hệ này
đến các thế hệ khác. Rõ ràng các thế hệ kế tiếp
chúng ta đang cần một triết lý giáo dục mới, mang
đặc trưng của nền văn minh hiện đại. Đấy cũng chính
là nền tảng cơ bản để xây dựng nên các chuẩn mực mới
trong xã hội.
Tác hại của sự thiếu chuẩn mực
Hiện nay chúng ta đang sống trong một xã hội ngổn
ngang về bằng cấp và chức danh khoa học, nhưng điều
đáng buồn nhất là bằng cấp và chức danh không đi đôi
với năng lực chuyên môn. Mặc dù chưa có số liệu
thống kê một cách đầy đủ nhưng qua đánh giá cục bộ
cho thấy con số này chiếm tỷ lệ khá lớn. Thầy cần
chức danh “giáo sư”, còn trò cần bằng “tiến sĩ” hai
nhóm đối tượng này sẽ góp phần phình to số lượng
“học giả” không học thật. Sự cổ vũ cho xu hướng này
chính là các tiêu chuẩn không chuẩn để công nhận các
loại chức danh, bằng cấp. Tư tưởng cào bằng trong
khoa học, một phép trung bình cộng đặt không đúng
chỗ thật sự là mối nguy hại cho sự tiến bộ và phát
triển khoa học nước nhà.
Chúng ta thừa hiểu rằng một người tốt nghiệp đại học
cách đây vài thập niên và trong suốt thời gian đấy
người ta không hề có công trình nghiên cứu nào và
cũng chẳng bao giờ liên quan đến việc giảng dạy thì
chắc chắc kiến thức chuyên môn trong họ chỉ còn là
những khái niệm mơ hồ. Thế nhưng chính họ lại nắm
giữ các vị trí quan trọng trong việc đào tạo ở các
trường đại học vừa mới hình thành. Đây cũng là một
trong những nghịch lý trong hệ thống giáo dục-đào
tạo hiện nay. Cùng với nhiều vấn đề tiêu cực khác
chúng đã trở thành sự thách thức thực sự đối với sự
nghiệp trồng người. Tình trạng thừa thầy thiếu thợ
chính vì thế mà ngày càng gia tăng.
Bộ máy quản lý ở các cơ quan nghiên cứu cũng không
ngừng phát triển ồ ạt với hiệu quả công việc rất
thấp. Đôi khi người ta nghĩ ra chỉ để thăng cấp cho
nhau và tạo nên số đông về phe cánh khi cần lấy ý
kiến biểu quyết. Nếu so sánh với các viện nghiên cứu
ở châu Âu chúng ta sẽ nhận thấy rằng bộ máy của họ
rất đơn giản, đâu cần quá nhiều các trưởng, phó
phòng như ở Việt Nam. Đã thế, việc bổ nhiệm, đề bạt
các chức vụ trong các cơ quan nghiên cứu cũng cho
thấy có quá nhiều điều bất cập, thiếu dân chủ và các
chuẩn mực hợp lý. Cho nên tình trạng các trưởng
phòng chuyên môn quá yếu kém về chuyên môn là chuyện
thường ngày. Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp
thời thì người có tài sẽ mãi là người ngoài cuộc.
Nếu những nhà khoa học chỉ mới được “trọng” mà không
“dụng” thì tài năng sẽ mai một theo thời gian và như
thế sẽ dẫn đến sự lãng phí nhân tài, một thứ lãng
phí lớn nhất trong các loại lãng phí.
Thành viên các hội đồng khoa học từ cấp cơ sở cho
đến cấp cao hơn thường chỉ tập trung những nhà khoa
học mà sự nghiệp nghiên cứu đã bị bỏ qua từ rất lâu
có khi đến vài thập kỷ và dĩ nhiên họ không còn xứng
đáng là đại diện cho các hướng nghiên cứu hiện nay.
Tuy vậy họ vẫn muốn là những người cầm trịch trong
việc xem xét phân bổ kinh phí, nghiệm thu đề tài hay
đưa ra những ý kiến có ý nghĩa quyết định đến sự
nghiệp khoa học của các nhà nghiên cứu nghiêm túc.
Nguy hại hơn nữa, chính họ đã trực tiếp hoặc gián
tiếp đề ra các tiêu chí cho việc xét chọn, do đó yếu
tố khách quan sẽ không được bảo đảm và trở thành
công cụ để hợp thức hóa lòng tham. Vừa là thành viên
của Hội đồng khoa học đồng thời vừa là ứng cử viên
trong việc đấu thầu đề tài, điều này cần phải được
nhanh chóng loại bỏ. Với ảnh hưởng của mình họ còn
áp đặt danh sách những người kế vị và như thế các
loại hội đồng cũng chỉ là nơi để họ thao túng. Điều
này cho thấy việc thành lập hội đồng cũng rất tùy
tiện và đôi khi còn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan
của người có chức vụ. Ở các nước văn minh thành viên
hội đồng khoa học phải độc lập với các chức vụ quản
lý và phải bao gồm những nhà khoa học có năng lực
chuyên môn nổi trội thông qua các công trình khoa
học có chất lượng được công bố trong thời gian gần
đây. Trong khi đó ở nước ta đã có quan niệm cho rằng
nên chọn thành viên hội đồng là những người có chức
vụ trong cơ quan nghiên cứu để dễ dàng cho việc theo
dõi. Đây là quan niệm quá sai lầm!
Cuối cùng, người ta thường biện bạch cho những tồn
tại nêu trên rằng hiện nay chúng ta đang “hụt hẫng”
đội ngũ kế cận. Không! Đó chính là sự hụt hẫng giả
tạo xuất phát từ sự đố kỵ, ích kỷ và lòng tham không
bờ bến của một số trong các vị có chức sắc khoa học.
Việt Nam qua vài chỉ số đánh giá theo chuẩn quốc tế
Chúng ta đang sống trong thời đại hệ thống thông tin
toàn cầu, đồng thời cũng là thành viên của WTO và
cao hơn nữa là thành viên không thường trực của Hội
đồng bảo an liên hợp quốc. Mọi hành động của chúng
ta sẽ có được sự phản ánh tức thời. Cho nên chúng ta
không thể tự đặt mình ra ngoài chuẩn mực chung của
cộng đồng quốc tế.
Theo thống kê mới nhất cho thấy lực lượng cán bộ
khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay tương đối
đông đảo, trong đó cán bộ có trình độ đại học và cao
đẳng hơn 1.4 triệu; cán bộ có trình độ trên đại học
khoảng 30 nghìn, trong đó hơn 13 nghìn TS và khoảng
6 nghìn GS-PGS. Với một lực lượng hùng hậu về số
lượng như thế, chắc chắn xã hội cũng đã đặt ra nhiều
kỳ vọng.
Chúng ta hãy cùng nhìn lại Việt Nam qua một vài chỉ
số đánh giá của các tổ chức quốc tế. Có thể đây
không phải là những thước đo chính xác bảo đảm sự
tin cậy tuyệt đối, nhưng nó đủ tốt, được quốc tế
thừa nhận và bao hàm nhiều khía cạnh cần được xem
xét một cách khoa học.

Thông qua công cụ ISI Web of Science chúng ta có thể
dễ dàng tìm được số lượng các công trình khoa học
được công bố đối với mỗi quốc gia cũng như đối với
từng cá nhân các nhà khoa học. Chúng ta hãy so sánh
thành tích của khoa học Việt Nam trong thời gian 5
năm từ 2004-2008 (tính đến thời điểm tháng 09/2008)
với một số quốc gia trong khu vực. Từ đây có thể
nhận thấy rằng chúng ta không thể so sánh nổi với Ấn
độ và Hàn Quốc, nhưng ngay cả với ông bạn láng giềng
Thái Lan chúng ta cũng đã thua kém quá xa. Thái Lan
chỉ có hơn 65 triệu dân, nghĩa là vào khoảng 76% dân
số Việt Nam (85 triệu) và chắc rằng số lượng các
GS-PGS cũng ít hơn so với Việt Nam. Thế nhưng số
lượng công trình khoa học của Thái Lan mạnh hơn ta
rất nhiều. Trong giai đoạn 2004-2008 Việt Nam chỉ
đạt khoảng 20% số lượng công bố của Thái Lan. Đây là
vấn đề đáng để chúng ta suy nghĩ, vì nó chính là hệ
quả trực tiếp từ các chuẩn mực sai lệch về bằng cấp,
chức danh.
Một hướng đánh giá khác về sự tác động của khoa học
và công nghệ đến nền kinh tế quốc dân, theo số liệu
thống kê của Ngân hàng Thế giới, nền kinh tế tri
thức của Việt Nam phát triển rất chậm với chỉ số KEI
đạt 2.92 điểm và xếp ở vị trí 91 trong tổng số 128
nước được khảo sát. Thái lan đạt 4.76 điểm xếp vị
trí 63.

“Ranking Web of World Universities” đã sắp xếp Top
4000 đại học trên toàn thế giới thực hiện vào tháng
7/2008. Trong đó vị trí 1-25 thuộc về các trường đại
học của Mỹ, vị trí 26 là đại học Cambridge, đại học
Oxford xếp vị trí 47 và Việt Nam có được 6 trường:
Đại học Tự nhiên Tp.HCM xếp vị trí 1848, Đại học
Bách khoa Tp.HCM - 1936, Đại học Cần Thơ - 2315, Đại
học Quốc Gia - 2623, Đại học Bách khoa Hà Nội - 3137
và Đại học Kinh tế Tp.HCM - 3250. Trong bảng xếp
hạng Top 100 trường đại học thuộc châu Á Việt Nam
không có được một đại học nào, trong khi đó Thái Lan
có đến 9 đại học với vị trí cao nhất là 28 (vị trí
384/4000).
Hành động để chấn hưng nền khoa học
Trước hết mục tiêu đào tạo phải dựa trên nhu cầu
thực tiễn. Đào tạo nhiều mà không giải quyết tốt vấn
đề sử dụng thì sẽ trở nên gánh nặng cho xã hội.
Người có bằng cấp, chức danh khoa học cao mà không
có năng lực chuyên môn chắc chắn sẽ trở thành đối
tượng ăn bám, cản trở sự phát triển của khoa học.
Vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nếu họ nắm giữ
các vị trí quản lý trong khoa học, là thành viên của
các loại hội đồng. Sự cống hiến trong khoa học phải
được nhìn nhận công bằng, không phân biệt giai cấp,
thành phần trong xã hội và phải dựa trên những chuẩn
mực khách quan. Thiếu chuẩn mực này sự tôn vinh của
xã hội sẽ trở thành sự cổ vũ, khuyến khích cho các
nhà khoa học chạy theo thành tích ảo. Trong giai
đoạn trước mắt nhà nước cần tập trung giải quyết tốt
chế độ tiền lương đủ bảo đảm cuộc sống, không nên bổ
sung nguồn thu nhập thông qua các đề tài. Cần rà
soát lại danh sách cán bộ nghiên cứu khoa học và
loại ra những trường hợp không có kết quả nghiên cứu
trong nhiều năm qua. Đặc biệt, phải tạo ra môi
trường cạnh tranh về năng lực chuyên môn. Việc bổ
nhiệm cán bộ quản lý, thành viên các hội đồng khoa
học cần được tiến hành công khai, dân chủ dựa trên
thành tích cống hiến trong những năm gần đây để bảo
đảm họ có đủ kiến thức và tầm nhìn trong điều hành
công việc. Về độ tuổi nghỉ hưu và kéo dài thời hạn
công tác nên xem xét lại một cách nghiêm túc để phát
huy được sự cống hiến cho khoa học một cách hiệu
quả.
Dẫu có muộn màng cũng phải quyết tâm đưa nền khoa
học nước nhà tiến lên trong thời gian sắp tới và như
thế vẫn còn hơn không có bao giờ.
Đã đăng trên Tia Sáng
|