Những bài cùng tác giả
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, bài báo khoa học đóng
một vai trò hết sức quan trọng. Nó không chỉ là sản phẩm
tri thức, mà còn là một loại tiền tệ của giới làm khoa học,
bởi vì qua đó mà người ta có thể đánh giá khả năng chuyên
môn và năng suất khoa học của nhà nghiên cứu. Giới làm
nghiên cứu khoa học nói chung nhất trí rằng cái chỉ tiêu số
1 để đề bạt một nhà khoa học là dựa vào số lượng và chất bài
báo khoa học đã công bố trên các tập san chuyên ngành [1].
Trên bình diện quốc gia, số lượng bài báo khoa học là một
thước đo về trình độ khoa học kĩ thuật và hiệu suất khoa học
của một nước. Chính vì thế mà tại các nước Tây phương,
chính phủ có hẳn một cơ quan gồm những chuyên gia chuyên đo
đếm và đánh giá những bài báo khoa học mà các nhà khoa học
của họ đã công bố trong năm.
Nhưng cũng
giống như sản phẩm công nghệ có nhiều hình thức và giá trị khác nhau, các
bài báo khoa học cũng xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau và giá trị cũng
không đồng nhất. Đối với người ngoài khoa học và công chúng nói chung, phân
biệt được những bài báo này không phải là một chuyện dễ dàng chút nào. Thật
ra theo kinh nghiệm của người viết bài này, ngay cả trong giới khoa bảng và
giáo sư đại học, có khá nhiều người vẫn chưa biết thế nào là một bài báo
khoa học nghiêm chỉnh và có lẽ vì hiểu sai cho nên một số giáo sư đã trình
bày trong lí lịch khoa học của mình một cách thiếu chính xác, có khi khá
khôi hài. Bài viết ngắn này sẽ bàn qua về tiêu chuẩn của một bài báo khoa
học. Phần lớn những phát biểu trong bài viết này được rút ra từ kinh nghiệm
thực tế trong lĩnh vực y sinh học, và có thể không hoàn toàn đúng cho các
lĩnh vực nghiên cứu khác mà bạn đọc có thể bổ sung thêm.
Bài báo khoa học
Nói một cách
ngắn gọn, bài báo khoa học (tiếng Anh: “scientific paper” hay có khi viết
ngắn là paper) là một bài báo có nội dung khoa học được công bố trên
một tập san khoa học (scientific journal) đã qua hệ thống bình duyệt
(peer-review) của tập san. Ở đây có ba vế của định nghĩa mà bài này sẽ lần
lược bàn đến: nội dung bài báo, tập san, và cơ chế bình
duyệt. Trước hết xin bàn về nội dung khoa học của một bài báo.
Như nói
trên, giá trị khoa học của một bài báo tùy thuộc một phần lớn vào nội dung
của bài báo. Bởi vì báo cáo khoa hoc xuất hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, giá trị của chúng cũng không nhất thiết đồng nhất. Sau đây là một số
bài báo khoa học thông thường và tôi xếp loại theo thang giá trị (cao nhất
đến thấp nhất).
Thứ nhất là
những bài báo mang tính cống hiến nguyên thủy (original contributions).
Đây là những bài báo khoa học nhằm báo cáo kết quả một công trình nghiên
cứu, hay đề ra một phương pháp mới, một ý tưởng mới, hay một cách diễn dịch
mới. Có khi một công trình nghiên cứu có thể có nhiều phát hiện mới, và cần
phải có nhiều bài báo nguyên thủy để truyền đạt những phát hiện này. Một
công trình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized clinical
trials) hay một công trình dịch tễ học lớn có thể có đến hàng trăm bài báo
nguyên thủy.
Cống
hiến mới cho khoa học không chỉ giới hạn trong phát
hiện mới, mà có thể bao gồm cả những phương pháp mới để tiếp cận một vấn đề
cũ, hay một cách diễn dịch mới cho một phát hiện xa xưa. Do đó các bài báo
khoa học ở dạng này cũng có thể xem là những cống hiến nguyên thủy. Tất cả
những bài báo này đều phải qua hệ thống bình duyệt một cách nghiêm chỉnh.
Tất cả các bài
báo thể hiện những cống hiến nguyên thủy, trên nguyên tắc, đều phải thông
qua hệ thống bình duyệt trước khi được công bố. Một bài báo không hay chưa
qua hệ thống bình duyệt chưa thể xem là một “bài báo khoa học”.
Thứ
hai là những bài báo nghiên cứu ngắn, mà tiếng Anh thường gọi là “short
communications”, hay “research letters”, hay “short papers”, v.v... Đây là
những bài báo rất ngắn (chỉ khoảng 600 đến 1000 chữ, tùy theo qui định của
tập san) mà nội dung chủ yếu tập trung giải quyết một vấn đề rất hẹp hay báo
cáo một phát hiện nhỏ nhưng quan trọng. Những bài báo này vẫn phải qua hệ
thống bình duyệt nghiêm chỉnh, nhưng mức độ rà soát không cao như các bài
báo cống hiến nguyên thủy. Cần phải nói thêm ở đây là phần lớn những bài
báo công bố trên tập san Nature (một tập san uy tín vào hàng số 1
trong khoa học) là “Letters”, nhưng thực chất đó là những bài báo
nguyên thủy có giá trị khoa học rất cao, chứ không phải những lá thư thông
thường.
Thứ
ba là những báo cáo trường hợp (case reports). Trong y học có một loại
bài báo khoa học xuất hiện dưới dạng báo cáo trường hợp, mà trong đó nội
dung xoay quanh chỉ một (hay một số rất ít) bệnh nhân đặc biệt. Đây là
những bệnh nhân có những bệnh rất hiếm (có thể 1 trên hàng triệu người) và
những thông tin như thế cũng thể hiện một sự cống hiến tri thức cho y học.
Những báo cáo trường hợp này cũng qua bình duyệt, nhưng nói chung không khó
khăn như những bài báo nguyên thủy.
Thứ tư là
những bài điểm báo (reviews). Có khi các tác giả có uy tín trong chuyên
môn được mời viết điểm báo cho một tập san. Những bài điểm báo không phải
là những cống hiến nguyên thủy. Như tên gọi (cũng có khi gọi là perspective
papers) bài điểm báo thường tập trung vào một chủ đề hẹp nào đó mà tác giả
phải đọc tất cả những bài báo liên quan, tóm lược lại, và bàn qua về những
điểm chính cũng như đề ra một số đường hướng nghiên cứu cho chuyên ngành.
Những bài điểm báo thường không qua hệ thống bình duyệt, hay có qua bình
duyệt nhưng không nghiêm chỉnh như những bài báo khoa học nguyên bản.
Thứ năm là
những bài xã luận (editorials). Có khi tập san công bố một bài báo
nguyên thủy quan trọng với một phát hiện có ý nghĩa lớn, ban biên tập có thể
mời một chuyên gia viết bình luận về phát hiện đó. Xã luận cũng không phải
là một cống hiến nguyên thủy, do đó giá trị của nó không thể tương đương
với những bài báo nguyên thủy. Thông thường, các bài xã luận không
qua hệ thống bình duyệt, mà chỉ được ban biên tập đọc qua và góp vài ý nhỏ
trước khi công bố.
Thứ sáu là
những thư cho tòa soạn (letters to the editor). Nhiều tập san khoa học
dành hẳn một mục cho bạn đọc phản hồi những bài báo đã đăng trên tập san.
Đây là những bài viết rất ngắn (chỉ 300 đến 500 chữ, hay một trang -- tùy
theo qui định của tập san) của bạn đọc về một điểm nhỏ nào đó của bài báo đã
đăng. Những thư này thường phê bình hay chỉ ra một sai lầm nào đó trong bài
báo khoa học đã đăng. Những thư bạn đọc không phải qua hệ thống bình duyệt,
nhưng thường được gửi cho tác giả bài báo nguyên thủy để họ đáp lời hay bàn
thêm. Tuy nói là thư bạn đọc, nhưng không phải thư nào cũng được đăng, nếu
không nêu được vấn để một cách súc tích và có ý nghĩa.
Và sau cùng
là những bài báo trong các kỉ yếu hội nghị. Trong các hội nghị chuyên
ngành, các nhà nghiên cứu tham dự hội nghị và muốn trình bày kết quả nghiên
cứu của mình thường gửi bài báo để đăng vào kỉ yếu của hội nghị. Có hai
loại bài báo trong nhóm này: nhóm 1 gồm những bài báo ngắn (proceedings
papers), và nhóm 2 gồm những bản tóm lược (abstracts).
Những
bài báo xuất hiện dưới dạng “proceeding papers” thường ngắn (khoảng 5 đến 10
trang), mà nội dung chủ yếu là báo cáo sơ bộ những phát hiện hay phương pháp
nghiên cứu mới. Tùy theo hội nghị, đại đa số những bài báo dạng này không
phải qua hệ thống bình duyệt, hay có qua nhưng cũng không nghiêm chỉnh như
hệ thống bình duyệt của những bài báo nguyên thủy. Cần nhấn mạnh rằng đây
không phải là những bài báo khoa học bởi vì chúng chưa xuất hiện trên các
tập san khoa học và qua bình duyệt nghiêm chỉnh.
Các bản
tóm lược, như tên gọi, thực chất là những bản tin khoa học ngắn (chỉ dài từ
250 chữ đến 500 chữ) mà nội dung là tóm tắt một công trình nghiên cứu.
Những bản tin này cũng không qua hệ thống bình duyệt. (Thực ra, không ai có
thể thẩm định một công trình nghiên cứu với 250 hay 500 chữ!) Vả lại, một
hội nghị chuyên môn có khi nhận đến 5000 bài tóm lược, cho nên ban tổ chức
không thể có đủ người để làm công việc bình duyệt bài vở một cách kĩ lưỡng
và có hệ thống. Phần lớn, nếu không muốn nói là 100%, các bài tóm lược đều
được chấp nhận cho in trong các kĩ yếu của hội nghị. Một lí do để chấp nhận
tất cả các bài tóm lược là ban tổ chức muốn có nhiều người dự hội nghị
(nhiều người tham dự cũng có nghĩa là tăng thu nhập cho ban tổ chức) cho nên
họ không muốn từ chối một bài báo nào.
Tập san khoa học và hệ số ảnh hưởng
Trong hoạt động
khoa bảng, các tập san khoa học là những tờ báo xuất bản định kì, có thể là
mỗi tuần một lần, mỗi tháng, hay mỗi 3 tháng, thậm chí hàng 6 tháng một
lần. Mục tiêu chính của các tập san khoa học là chuyên chở thông tin đến
giới nghiên cứu khoa học nhằm từng bước phát triển khoa học. Các tập san
khoa học còn là những diễn đàn khoa học để giới khoa học có cùng chuyên môn
trao đổi và học hỏi với nhau. Phần lớn các tập san khoa học rất chuyên sâu
về một bộ môn khoa học như American Heart Journal (chuyên về tim),
American Journal of Epidemiology (dịch tễ học), Bone (xương),
Blood (máu), Neurology (thần kinh học) … nhưng một số tập san như
Science, Nature, Proceedings of the National Academy of
Science USA … công bố tất cả nghiên cứu từ bất cứ bộ môn khoa học nào.
Trên thế giới
ngày nay, có khoảng 3000 tập san y sinh học được công nhận, và con số vẫn
tăng mỗi năm. (Được công nhận ở đây có nghĩa là được nằm trong danh sách
của tổ chức Index Medicus). Tiêu chuẩn mà các tập san này dựa vào để
công bố hay không công bố một bài báo khoa học cũng rất khác nhau. Một số
tập san như Science, Nature, Cell, hay Physical Reviews
chỉ công bố những bài báo khoa học mà ban biên tập cho rằng thể hiện những
cống hiến cơ bản, những phát hiện quan trọng, hay những phương pháp mới có
tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong cộng đồng khoa học. Do đó, các tập san
này từ chối công bố hầu hết các bài báo khoa học gửi đến cho họ. Theo một
báo cáo gần đây các tập san này chỉ công bố khoảng 1% những bài báo họ nhận
được hàng năm. Nói cách khác, họ từ chối khoảng 99% bài báo. Trong y học,
các tập san hàng đầu như New England Journal of Medicine, Lancet,
và JAMA từ chối khoảng 95% các bài báo gửi đến, và chỉ công bố những
bài báo quan trọng trong y khoa.
Giá trị
khoa học của một bài báo do đó không chỉ tùy thuộc vào nội dung, mà tập san
công bố cũng đóng một vai trò quan trọng. Chẳng hạn như trong y học một bài
báo trên các tập san lớn như New England Journal of Medicine (NEJM)
hay Lancet có giá trị hơn hẳn một bài báo trên các tập san y học của
Pháp hay Singapore Medical Journal. Điều này đúng bởi vì những công
trình nghiên cứu quan trọng thường được công bố trên các tập san lớn và có
nhiều người đọc, nhưng quan trọng hơn hết là những tập san này có một hệ
thống bình duyệt nghiêm túc.
Uy tín và giá
trị của một tập san thường được đánh giá qua hệ số ảnh hưởng (Impact
Factor hay IF). IF được tính toán dựa vào số lượng bài báo công bố và
tổng số lần những bài báo đó được tham khảo hay trích dẫn (citations). Theo
định nghĩa hiện hành, IF của một tập san trong năm là số lần tham
khảo trung bình các bài báo được công bố trên tập san trong vòng 2 năm trước
[2]. Chẳng hạn như trong 2 năm 1981 và 1982, Tập san Lancet công bố
470 bài báo khoa học nguyên thủy; trong năm 1983 có 10.011 bài báo khác trên
các tất cả các tập san (kể cả Lancet) có tham khảo hay trích dẫn đến
470 bài báo đó; và hệ số IF là 10.011 / 470 = 21,3. Nói cách khác, tính
trung bình mỗi bài báo nguyên thủy trên tờ Lancet có khoảng 21 lần được tham
khảo đến hay trích dẫn.
Vì yếu tố thời
gian của việc tính toán, cho nên hệ số IF cũng thay đổi theo thời gian và
cách xếp hạng tập san cũng thay đổi theo. Chẳng hạn như vào thập niên 1990s
British Medical Journal từng nằm trong nhóm các tập san hàng đầu
trong y học, nhưng đến đầu thế kỉ 21 tập san này bị xuống cấp nghiêm trọng.
Trong y sinh học, có một số tập san y học thuộc vào hàng “top 10” như sau
(theo số liệu năm 2003): Annual review of immunology. (52,28), Annual
review of biochemistry (37,65), Physiological reviews (36,83), Nature
reviews Molecular cell biology (35,04), New England Journal of Medicine
(34,83), Nature reviews Cancer (33,95), Nature (30,98), Nature medicine
(30,55), Annual review of neuroscience (30,17), Science (29,16), Cell
(26,63), Nature genetics (26,49), Lancet (18,32), Journal of clinical
investigation (14,30), v.v… (Chi tiết có thể tham khảo trong bản thống
kê phía dưới bài viết).
Do đó, tập san
nào có hệ số IF cao cũng được hiểu ngầm là có uy tín cao và ảnh hưởng cao.
Công bố một bài báo trên tập san có hệ số IF cao có thể đồng nghĩa với mức
độ quan trọng và tầm ảnh hưởng của bài báo cũng cao. Xin nhấn mạnh là “có
thể” mà thôi, bởi vì qua cách tính vừa trình bày trên, IF là chỉ số phản ánh
ảnh hưởng của một tập san, chứ không đo lường hệ số ảnh hưởng phải một bài
báo cụ thể nào. Một bài báo trên một tập san có hệ số IF thấp nhưng có thể
được trích dẫn nhiều lần. Chẳng hạn như một bài báo viết về một phương pháp
phân tích thống kế trong di truyền học công bố trên tập san Behavior
Genetics (với IF thấp hơn 2), nhưng được trích dẫn và tham khảo hơn
10.000 lần trong 20 năm sau đó!
Khiếm
khuyết của hệ số IF đã được nêu lên khá nhiều lần trong quá khứ [3,4]. Ngay
cả người sáng lập ra hệ số IF cũng thú nhận những thiếu sót của hệ số này.
Một số bộ môn khoa học có xu hướng (hay truyền thống) công bố ra nhiều bài
báo ngắn, hay đơn thuần là họ có truyền thống trích dẫn lẫn nhau, thậm chí
tự mình trích dẫn mình! Có nhiều nhà khoa học trích dẫn hay liệt kê những
bài báo mà họ hoặc là không hay chưa đọc (nhưng chỉ trích dẫn theo sự trích
dẫn của người khác, đây là một vi phạm khoa học). Ngoài ra, những bộ môn
nghiên cứu lớn (như y khoa chẳng hạn) có nhiều nhà nghiên cứu và con số bài
báo cũng như chỉ số trích dẫn cũng tăng theo. Nói một cách ngắn gọn, con số
thống kê bài báo và chỉ số trích dẫn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại
vi hơn là chất lượng khoa học. Cũng không loại trừ khả năng những công
trình nghiên cứu tồi, sai lầm vẫn được nhiều người nhắc đến và trích dẫn (để
làm gương cho người khác). Phần lớn những bài báo được trích dẫn nhiều lần
là những bài báo liên quan đến phương pháp, hay thuộc loại điểm báo. Nhiều
nghiên cứu “tốt”, có chất lượng thường đi trước thời gian, và người ta chỉ
hiểu rõ giá trị của chúng sau nhiều năm sau khi công bố.
Dù bíết
rằng hệ số IF có nhiều khiếm khuyết như thế, nhưng hiện nay chúng ta chưa có
một hệ thống nào công bằng và tốt hơn để thẩm định chất lượng một tập san.
Cho nên, hệ số IF vẫn được sử dụng như là một thước đo chất lượng, với một
sự dè dặt và cẩn thận cần thiết.
Cơ chế bình duyệt
Để hiểu
cơ chế bình duyệt, tôi xin nói sơ qua về qui trình công bố một bài báo khoa
học như sau. Sau khi tác giả gửi bản thảo của bài báo đến một tập san
chuyên môn, tổng biên tập (Editor-in-Chief) hay phó tổng biên tập (Associate
Editors) của tập san sẽ xem lướt qua bài báo và quyết định bài báo có xứng
đáng được gửi ra ngoài để bình duyệt hay không. Nếu không xứng đáng, tổng
biên tập sẽ báo ngay (trong vòng 1 tháng) cho tác giả biết là bài báo không
được bình duyệt. Nếu thấy bài báo có giá trị và cần được bình duyệt, tổng
biên tập sẽ gửi bản thảo cho 3 (hoặc có khi 4) người bình duyệt.
Những
người bình duyệt là những chuyên gia, giáo sư có cùng chuyên môn với tác giả
và am hiểu về vấn đề mà bài báo quan tâm. Tác giả sẽ không biết những người
này là ai, nhưng những người bình duyệt thì biết tác giả là ai vì họ có toàn
bộ bản thảo! Những người bình duyệt sẽ đọc và đánh giá bài báo dựa theo
những tiêu chí thông thường như mục tiêu nghiên cứu có đem lại cái gì mới
không, phương pháp nghiên cứu có thỏa đáng hay không, kết quả đã được phân
tích bằng các phương pháp thích hợp hay không, trình bày dữ kiện có gọn gàng
và dễ hiểu hay không, phần thảo luận có diễn dịch “quá đà” hay không, phần
tham khảo có đầy đủ hay không, ngôn ngữ bài báo và văn chương có chuẩn hay
không, v.v. và v.v. Nói tóm lại là họ xem xét toàn bộ bài báo, và viết báo
cáo cho tổng biên tập. Họ có thể đề nghị tổng biên tập nên chấp nhận hay từ
chối đăng bài báo. Tuy quyết định cuối cùng là của tổng biên tập, nhưng
thông thường chỉ một người bình duyệt đề nghị từ chối bài báo thì số phận
bài báo coi như “đã rồi”. Giai đoạn này tốn khoảng 1 đến 4 tháng.
Sau khi
đã nhận được báo cáo của người bình duyệt, tổng biên tập sẽ chuyển ngay cho
tác giả. Tùy theo đề nghị của những người bình duyệt, tổng biên tập có thể
cho tác giả một cơ hội để phản hồi những phê bình của người bình duyệt, hay
từ chối đăng bài. Nếu có cơ hội phản hồi, tác giả phải trả lời từng phê
bình một của từng người bình duyệt. Bài phản hồi phải được viết như một
báo cáo, và tất cả những thay đổi trong bài báo tác giả phải báo cho tập san
biết. Giai đoạn này tốn từ 1 đến 3 tháng.
Sau khi
nhận được phản hồi của tác giả, tổng biên tập và ban biên tập có thể quyết
định chấp nhận hay từ chối bài báo. Nếu bài phản hồi không trả lời tất cả
phê bình, hay trả lời không thỏa đáng, tổng biên tập có thể từ chối đăng bài
ngay mà không cần gửi cho người bình duyệt xem lại. Nếu bài phản hồi cần
xem xét lại tổng biên tập sẽ gửi cho những người bình duyệt xem lại một lần
nữa và tác giả có khi phải phản hồi một lần sau cùng. Giai đoạn này cũng
tốn từ 1 đến 3 tháng.
Nói
chung một bài báo từ lúc nộp bài cho đến lúc xuất hiện trên mặt giấy – nếu
mọi bình duyệt và phản hồi đều trôi chảy – tốn khoảng 9 tháng đến 12 tháng.
Bởi vì thời gian quá lâu như thế, cho nên một số tác giả có khi quyết định
tự công bố trước dưới dạng sơ bộ (còn gọi là “pre-print”) để chia sẻ với
đồng nghiệp. Ngày nay, với sự tiến bộ phi thường của công nghệ thông tin và
internet, nhiều tập san đã có thể công bố ngay bài báo trên hệ thống
internet (trước khi in) nếu bài báo đã qua bình duyệt và được chấp nhận cho
công bố. Một số tập san còn hoạt động hoàn toàn trên hệ thống internet mà
không phải qua hình thức in ấn gì cả.
Cơ chế
bình duyệt là một cơ chế có mục đích chính là thẩm định và kiểm tra các bài
báo khoa học trước khi chấp nhận cho công bố trên một tập san khoa học. Cơ
chế này còn được ứng dụng trong việc duyệt những đơn xin tài trợ cho nghiên
cứu tại các nước Tây phương. Tuy một cơ chế bình duyệt như thế không phải
hoàn toàn vô tư và hoàn hảo, nhưng nó là một cơ chế tốt nhất hiện nay mà
giới khoa học đều công nhận.
Như
trình bày trên, cơ chế bình duyệt có mục đích chính là đánh giá và kiểm tra
các bài báo khoa học trước khi chấp nhận cho công bố trên một tập chí khoa
học. Cơ chế này còn được ứng dụng trong việc duyệt những đơn xin tài trợ
cho nghiên cứu. Qua cơ chế này mà tập san có thể ngăn chận những cặn bã,
rác rưởi khoa học, và giúp cho tập san hay các cơ quan cung cấp tài trợ đi
đến một quyết định công bằng. Trên nguyên tắc, đây là một cơ chế hay và
công bằng, bởi vì những người duyệt bài hay công trình nghiên cứu là những
người có cùng chuyên môn, họ chính là những người có thẩm quyền và khả năng
đánh giá chất lượng của công trình nghiên cứu. Nhưng nhà khoa học cũng chỉ
là những người có tình cảm và thiên kiến, cũng là những người chịu sự chi
phối của các nhu cầu tất yếu, cũng cạnh tranh, cho nên kết quả duyệt bài
khoa học không phải lúc nào cũng hoàn toàn khách quan. Rất nhiều người từng
trải qua cái cơ chế này cho rằng đó là một hệ thống không hoàn chỉnh và có
khi thiếu công bằng. Tuy nhằm mục đích ngăn chận rác rưởi khoa học, nhưngcơ
chế kiểm duyệt bài vở không thể (hay ít khi nào) phát hiện những lỗi lầm
mang tính cố ý lường gạt (như giả tạo số liệu chẳng hạn), bởi vì chức năng
của cơ chế này không làm việc đó. Do đó, đối với một số nhà khoa học, cơ
chế bình duyệt là một cách làm việc vô bổ và vô giá trị [5,6]. Nhưng vấn đề
thực tế là ngoài cơ chế bình duyệt đó, chưa có cơ chế nào tốt hơn! Và vì
thế, chúng ta vẫn phải dựa vào cơ chế này để đánh giá một bài báo khoa học.
Ý nghĩa xã hội của bài báo khoa học
Đọc đến đây, tôi hi vọng bạn đọc đã hiểu được thế nào là một bài
báo khoa học. Xin nhắc lại để nhấn mạnh: một bài báo chỉ khi nào được xem
là “bài báo khoa học” nếu nó đã qua cơ chế bình duyệt và được công bố trên
một tập san chuyên môn. Những bài báo xuất hiện dưới dạng
“abstracts” hay thậm chí “proceedings” không thể xem là những bài báo khoa
học bởi vì nó không đáp ứng được hai yêu cầu trên. Thế nhưng trong thực tế
đã có rất nhiều nhà khoa học, kể cả ở trong nước, có lẽ do hiểu lầm đã liệt
kê những “abstracts” và “proceedings” như là những bài báo khoa học trong lí
lịch khoa học của họ! Đối với nhiều người không am hiểu hoạt động khoa học
thì những ngộ nhận này chẳng ảnh hưởng gì to lớn, nhưng đối với giới làm
nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh, một lí lịch khoa học với toàn những “bài
báo khoa học” như thế cho biết nhiều về tác giả hơn là khả năng nghiên cứu
khoa học của tác giả.
Trên bình diện
quốc gia, công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một
cách không chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học,
của nước nhà. Ở phương Tây người ta thường đếm số lượng bài báo khoa học mà
các nhà khoa học công bố trên các tập chí khoa học để đo lường và so sánh
hiệu suất khoa học giữa các quốc gia. Hiện nay, trong bất cứ lĩnh vực nào,
phải nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa của nước ta chưa cao. Phần lớn
các công trình nghiên cứu tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi
nghiệm thu hay luận án. Đối với hoạt động khoa học, cho dù công trình đã
được nghiệm thu hay đưa vào luận án tiến sĩ hay thạc sĩ , nếu chưa được công
bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế thì công trình đó coi như chưa hoàn
tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường rộng lớn hơn.
Theo tác giả
Phạm Duy Hiển (Tạp chí Tia Sáng số Tháng 6 năm 2005) trong năm 2003,
các nhà khoa học Việt Nam đã công bố trên 7000 bài báo trên các tạp chí hay
tập san khoa học trong nước. Con số này rất ư là ấn tượng, song đó chỉ là
những bài báo “ta viết cho ta đọc” chứ trên trường quốc tế thì sự hiện diện
của các nhà khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn. Vẫn theo tác giả Phạm Duy
Hiển, trong năm 2001 các nhà khoa học Việt Nam chỉ công bố được 354 bài báo
khoa học trên các tập san quốc tế, mà 71% con số này là do cộng tác với các
nhà khoa học ngoài Việt Nam. Trong ngành y khoa, trong suốt 40 năm qua
(tính từ 1965) các nhà khoa học tại Việt Nam chỉ có khoảng 300 bài báo trên
các tập san y sinh học quốc tế. Đó là những con số cực kì khiêm tốn, khi so
sánh với Thái Lan (5000 bài) hay Singapore (20.000 bài).
Như đã có lần
phát biểu, một công trình nghiên cứu thường được tài trợ từ tiền bạc của
người dân. Khi tiến hành nghiên cứu, nhà nghiên cứu có khi phải nhờ đến sự
tham gia của tình nguyện viên hay của bệnh nhân. Nếu một công trình nghiên
cứu đã hoàn tất mà kết quả không được công bố, thì công trình nghiên cứu đó
có thể xem là có vấn đề về y đức và đạo đức khoa học, và nhà nghiên cứu có
thể xem như chưa hoàn thành nghĩa vụ của mình với sự đóng góp của người
dân. Do đó, báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một
nghĩa vụ của nhà nghiên cứu, là một cách gián tiếp cám ơn sự đóng góp
của bệnh nhân và giúp đỡ của dân chúng qua sự quản lí của nhà nước.
Trong quá trình
hội nhập thế giới, xã hội có quyền đòi hỏi nhà khoa học nước ta phải có tầm
vóc và đứng vững trên trường khoa học quốc tế. Đã đến lúc chúng ta phải đặt
ra những tiêu chuẩn nghiêm túc mà quốc tế đã và đang sử dụng để thẩm định
thành tích nghiên cứu khoa học của các giáo sư và nhà nghiên cứu ở nước ta.
Chú thích và tài liệu
tham khảo:
[1] Để
xét đề bạt giáo sư trong các đại học Tây phương, ngoài các tiêu chuẩn về
giảng dạy, tài trợ nghiên cứu và phục vụ xã hội, một tiêu chuẩn quan trọng
số 1 là số lượng và chất lượng bài báo khoa học của ứng viên. Theo một qui
định gần như “bất thành văn”, muốn được đề bạt lên “assistant professor”
(giáo sư dự khuyết) ứng viên phải có từ 3-5 bài báo khoa học; một associate
professor (phó giáo sư) phải có từ 30 bài báo khoa học trở lên; và một
professor (giáo sư) phải có từ 50 bài báo trở lên. Đây chỉ là những tiêu
chuẩn rất chung chung và có thể nói là tối thiểu. Cố nhiên, các tiêu chuẩn
này còn tùy thuộc vào trường đại học và chuyên môn, cho nên không ai có thể
đưa ra một qui định chính xác được.
[2]
Garfield E. The impact factor [internet] Current Contents 1994 20;3-7
(cited 16 August 2002):
http://sunweb.isinet.com/isi/hot/essays/journalcitationreports/7.html.
[3]
Seglen PO. Why the impact factor of journals should not be used for
evaluating research. BMJ 1997; 314:497-9.
[4] Phelan TJ. A compendium of issues for citation
analysis. Scientometrics 1999; 45:117-36.
[3] Garfield E. Random thoughts on citationology: its
theory and practice. Scientometrics 1998; 43:69-76.
[4] Campanario J. Peer review for journals as it stands
today, Part 2. Science Communication 1998; 19:277-306
[5] Cole S, et al. Chance and consensus in peer review.
Science 214:881-6, 1981.
Hệ số ảnh hưởng (impact factor) năm 2003
của 100 tập san khoa học hàng đầu
(nguồn:
http://vasehin.hotmail.ru/03_01.html)
Tên tập san viết tắt |
Tên đầy đủ của tập san
|
Impact Factor |
ANNU REV IMMUNOL |
Annual review of immunology. |
52,280 |
ANNU REV BIOCHEM |
Annual review of biochemistry. |
37,647 |
PHYSIOL REV |
Physiological reviews. |
36,831 |
NAT REV MOL CELL BIO |
Nature reviews. Molecular cell biology. |
35,041 |
NEW ENGL J MED |
The New England journal of medicine. |
34,833 |
NAT REV CANCER |
Nature reviews. Cancer. |
33,954 |
CA-CANCER J CLIN |
CA: a cancer journal for clinicians. |
33,056 |
NATURE |
Nature. |
30,979 |
NAT MED |
Nature medicine. |
30,550 |
ANNU REV NEUROSCI |
Annual review of neuroscience. |
30,167 |
SCIENCE |
Science. |
29,162 |
NAT IMMUNOL |
Nature immunology. |
28,180 |
PHARMACOL REV |
Pharmacological reviews. |
27,067 |
NAT REV NEUROSCI |
Nature reviews. Neuroscience. |
27,007 |
NAT REV IMMUNOL |
Nature reviews. Immunology. |
26,957 |
CELL |
Cell. |
26,626 |
NAT GENET |
Nature genetics. |
26,494 |
NAT REV GENET |
Nature reviews. Genetics. |
25,664 |
ANNU REV CELL DEV BI |
Annual review of cell and developmental biology. |
22,638 |
ANNU REV PHARMACOL |
Annual review of pharmacology and toxicology. |
21,786 |
JAMA-J AM MED ASSOC |
JAMA : the journal of the American Medical Association. |
21,455 |
CHEM REV |
Chemical reviews. |
21,036 |
NAT CELL BIOL |
Nature cell biology. |
20,268 |
TRENDS CELL BIOL |
Trends in cell biology. |
19,612 |
CANCER CELL |
Cancer cell. |
18,913 |
ANNU REV PHYSIOL |
Annual review of physiology. |
18,591 |
LANCET |
Lancet. |
18,316 |
CURR OPIN CELL BIOL |
Current opinion in cell biology. |
18,176 |
TRENDS IMMUNOL |
Trends in immunology. |
18,153 |
NAT REV DRUG DISCOV |
Nature reviews. Drug discovery. |
17,732 |
NAT BIOTECHNOL |
Nature biotechnology |
17,721 |
ENDOCR REV |
Endocrine reviews. |
17,324 |
GENE DEV |
Genes & development. |
17,013 |
MOL CELL |
Molecular cell. |
16,835 |
IMMUNITY |
Immunity. |
16,016 |
ANNU REV PLANT BIOL |
Annual review of plant physiology and plant molecular biology. |
15,615 |
J EXP MED |
The Journal of experimental medicine. |
15,302 |
NAT NEUROSCI |
Nature neuroscience. |
15,141 |
ACCOUNTS CHEM RES |
Accounts of chemical research. |
15,000 |
DEV CELL |
Developmental cell. |
14,807 |
MICROBIOL MOL BIOL R |
Microbiology and molecular biology reviews : MMBR. |
14,340 |
J CLIN INVEST |
The Journal of clinical investigation. |
14,307 |
TRENDS BIOCHEM SCI |
Trends in biochemical sciences. |
14,273 |
NEURON |
Neuron. |
14,109 |
TRENDS PHARMACOL SCI |
Trends in pharmacological sciences. |
13,965 |
J NATL CANCER I |
Journal of the National Cancer Institute. |
13,844 |
TRENDS PLANT SCI |
Trends in plant science. |
13,405 |
ANNU REV BIOPH BIOM |
Annual review of biophysics and biomolecular structure. |
13,351 |
CURR OPIN GENET DEV |
Current opinion in genetics & development. |
13,143 |
GASTROENTEROLOGY |
Gastroenterology. |
12,718 |
TRENDS NEUROSCI |
Trends in neurosciences. |
12,631 |
TRENDS ECOL EVOL |
Trends in ecology & evolution (Personal edition) |
12,449 |
ANN INTERN MED |
Annals of internal medicine. |
12,427 |
PROG NEUROBIOL |
Progress in neurobiology. |
12,327 |
ANNU REV GENOM HUM G |
Annual review of genomics and human genetics. |
12,200 |
CURR OPIN IMMUNOL |
Current opinion in immunology. |
12,118 |
ANNU REV MICROBIOL |
Annual review of microbiology |
12,105 |
J CELL BIOL |
The Journal of cell biology. |
12,023 |
TRENDS GENET |
Trends in genetics : TIG. |
12,016 |
PHYS REP |
Physics reports. |
11,980 |
ANNU REV GENET |
Annual review of genetics. |
11,920 |
CURR BIOL |
Current biology : CB. |
11,910 |
AM J HUM GENET |
American journal of human genetics. |
11,602 |
NAT STRUCT BIOL |
Nature structural biology. |
11,579 |
CLIN MICROBIOL REV |
Clinical microbiology reviews. |
11,530 |
ANNU REV MED |
Annual review of medicine. |
11,381 |
CIRCULATION |
Circulation. |
11,164 |
J CLIN ONCOL |
Journal of clinical oncology : official journal of the American
Society of Clinical Oncology |
10,864 |
NAT MATER |
Nature materials. |
10,778 |
PLANT CELL |
The Plant cell. |
10,679 |
BEHAV BRAIN SCI |
The Behavioral and brain sciences. |
10,625 |
Q REV BIOPHYS |
Quarterly reviews of biophysics. |
10,529 |
ARCH GEN PSYCHIAT |
Archives of general psychiatry. |
10,519 |
ANNU REV PHYS CHEM |
Annual review of physical chemistry. |
10,500 |
EMBO J |
The EMBO journal. |
10,456 |
P NATL ACAD SCI USA |
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States
of America. |
10,272 |
FEMS MICROBIOL REV |
FEMS microbiology reviews. |
10,160 |
BLOOD |
Blood. |
10,120 |
CIRC RES |
Circulation research. |
10,117 |
PROG LIPID RES |
Progress in lipid research. |
10,000 |
ANNU REV PSYCHOL |
Annual review of psychology. |
9,896 |
TRENDS MOL MED |
Trends in molecular medicine. |
9,848 |
CURR OPIN NEUROBIOL |
Current opinion in neurobiology. |
9,727 |
GENOME RES |
Genome research. |
9,635 |
CYTOKINE GROWTH F R |
Cytokine & growth factor reviews |
9,600 |
CHEM SOC REV |
Chemical Society reviews. |
9,569 |
ANNU REV NUTR |
Annual review of nutrition. |
9,326 |
CURR TOP DEV BIOL |
Current topics in developmental biology. |
9,091 |
ADV MICROB PHYSIOL |
Advances in microbial physiology. |
8,947 |
CURR OPIN PLANT BIOL |
Current opinion in plant biology. |
8,945 |
ENDOCR-RELAT CANCER |
Endocrine-related cancer. |
8,894 |
AM J RESP CRIT CARE |
American journal of respiratory and critical care medicine. |
8,876 |
FRONT NEUROENDOCRIN |
Frontiers in neuroendocrinology. |
8,870 |
CURR OPIN STRUC BIOL |
Current opinion in structural biology. |
8,686 |
CANCER RES |
Cancer research. |
8,649 |
HUM MOL GENET |
Human molecular genetics. |
8,597 |
PSYCHOL BULL |
Psychological bulletin. |
8,405 |
PSYCHOL REV |
Psychological review. |
8,357 |
MOL CELL PROTEOMICS |
Molecular & cellular proteomics : MCP. |
8,316 |
J NEUROSCI |
The Journal of neuroscience : the official journal of the Society
for Neuroscience. |
8,306 |
DIABETES |
Diabetes. |
8,298 |
Đọc thêm:
http://vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2004/03/54931/
Đã đăng trên Tia Sáng và có bổ sung
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org Nguyễn
Văn Tuấn
|